Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

0
70
Rate this post

Đề bài: Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

binh giang bai tho day thon vi da

5 bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Bạn đang xem: Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

 

1. Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu 1:

Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mạc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…”

(Bẽn lẽn)

“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sắp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”

(Hãy nhập hồn em)

“Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.

(Đêm không ngủ)

Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sông trăng… Cả một thế giới trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mạc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai biết hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như Hàn Mạc Tử.

“Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong “Tập thơ Điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mạc Tử đã viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

binh giang bai tho day thon vi da

Những bài Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất

Câu đầu của khổ thơ thứ nhất “dịu ngọt” như một lời chào mời vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới. lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mời, như vẫy gọi.

Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng trông “mướt quá” một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hòa, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc “xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên”). Hai chữ “vườn ai” gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mạc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”

(Mùa xuân chín)

Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

Vĩ Dạ một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mạc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bên phiên cảnh hài hòa, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp lay, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoáng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy;

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành “sông trăng”. Hàn Mạc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguvễn Công Trứ đã từng viết: “Gió trăng chứa một thuyền đầy”. Hàn Mạc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong “Đây thôn Vĩ Dạ” là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn. ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thía một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.

Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Những nàng thiếu nữ sông

Hương – Da thơm là phấn, má hường là son…”. Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương, ở đây sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mạc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” các điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.

Cũng cần nói một đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ “ai” xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” – “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ ảo cùng sương khói?.

Hàn Mạc Tử đã đế lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, cọn thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hồn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong “Đây thôn Vĩ Dạ” vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta.

“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô”.

————————-HẾT BÀI 1——————————

Sau khi đã Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ các em có thể đi vào Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ và bài phân tích khái quát tác phẩm Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nhằm củng cố kiến thức của mình.

 

2. Bình giảng Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, mẫu 2:

Hàn Mặc Tử là một gương mặt thơ kì lạ và kì diệu, có cuộc sống ngắn ngủi đầy đau thương, bất hạnh. Là người rất yêu đời, yêu cuộc sống nhưng tiếc thay, tạo hóa lại quá bất công với số phận của thi nhân. Vì thế mà những mối tình trong thơ ông dù đẹp đẽ, nồng thắm đến đâu thì cuối cùng cũng chia lìa, tan vỡ.

Sau khi lâm trọng bệnh, biết rằng chẳng bao giờ còn được đoàn tụ với người mình yêu nên thi sĩ thường miêu tả cảnh gặp gỡ, nhớ nhung trong những giấc chiêm bao. Vì thường xuyên bị cái chết ám ảnh nên ông hay nói đến sự vĩnh biệt, cõi hư vô. Ông thích đêm tối, sương mù, trăng sao… là những cảnh hợp với tâm trạng ảm đạm, thê lương. Nỗi đau thể xác khiến Hàn Mặc Tử nhiều khi như điên như dại nhưng cũng có lúc nó nâng thần trí ông lên đến đỉnh cao của tưởng tượng huyễn hoặc, đưa ông vào thế giới tràn đầy âm thanh, ánh sáng, sắc màu. Trong cõi riêng ấy, ông thỏa sức biểu hiện niềm đam mê khao khát tình yêu và cuộc sống tươi đẹp vĩnh hằng.

Thơ Hàn Mặc Tử thường có những bước nhảy đột ngột về ý. Ý nọ cách ý kia một khoảng lớn, có lúc tưởng chừng như không liên kết gì với nhau nhưng thực ra lại gắn bó rất chặt chẽ ở các trạng thái của cảm xúc. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một ví dụ.

Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nổi tiếng, được coi là viên ngọc quý trong thơ ca Việt Nam. Bài thơ thể hiện lòng yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt của thi sĩ, thể hiện qua tình cảm thiết tha đối với cảnh vật và con người. Dẫu có thoáng nét ngậm ngủi và sự chia lìa, tan vỡ của tình yêu song cảm xúc ấy đã thăng hoa, làm giàu thêm đời sông tình cảm của con người. Có thể coi bài thơ là lời tỏ tình với cuộc đời của một trái tim yêu thương và luôn luôn hy vọng.

Bài thơ có ba khổ. Khổ thứ nhất tả vẻ đẹp của vườn cây thôn Vĩ và thi sĩ gửi gắm ước mong một ngày nào đó dược trở về thăm cảnh cũ người xưa.

Khổ thứ hai tả cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo: gió, mây, dòng nước, hoa bắp tay… trong không gian quạnh vắng, đìu hiu. Nét thực nét ảo cứ chập chờn chuyển hóa. Khung cảnh thấm đẫm nỗi buồn thương, giống như tâm trạng đang chới với, lo âu, nghẹn ngào của thi sĩ trước linh cảm tan vỡ, chia lìa của tình yêu. Khổ thứ ba nói về hình ảnh khách đường xa và chốn sương khói mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Dẫu có hình ảnh của khách đường xa, áo trắng… nhưng tất cả đều nhạt nhòa, vô định như một mối tình vừa mới định hình đã vội hóa thành hư vô, đọng lại trong lòng người một nỗi hoài nghi, hi vọng.

Âm điệu chủ đạo của bài thơ dựa trên ba câu tự vấn đầy băn khoăn, khắc khoải. Câu hỏi thứ nhất: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? mang nhiều sắc thái như: vừa hỏi han, vừa hờn trách, vừa nhắc nhở, vừa mời mọc. Tác giả đang phân vân tự hỏi về một việc đáng ra phải làm từ lâu mà giờ đây không biết có còn cơ hội để thực hiện nữa không. Đó là về lại thôn Vĩ, nơi mình từng lui tới hồi còn là học sinh trường Pellerin ở Huế. Sự phân vân và những sắc thái tâm trạng khác nhau đan xen trong cùng một câu hỏi cho ta thấy nỗi ước ao trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt vừa u uẩn, không dễ gì bày tỏ. Nghĩa là ao ước đấy, song cũng đầy mặc cảm về khả năng thực hiện ao ước của mình.

binh giang bai tho day thon vi da

Bình giảng Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Câu hỏi thứ hai: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay ? thể hiện sự băn khoăn, khắc khoải và hi vọng mong manh trong tâm trạng thi sĩ.

Câu hỏi thứ ba: Ai biết tình ai có đậm đà? chất chứa một mối hoài nghi.

Tâm trạng của thi sĩ diễn biến theo chiều hướng: ao ước đắm say – hoài vọng phấp phỏng – mơ tưởng hoài nghi. Càng về sau càng có phần u uẩn và sầu muộn. Đó là những cung bậc khác nhau của một mối tình vô vọng. Tuy nhiên, đằng sau mối tình ấy vẫn là một niềm thiết tha gắn bó với đời. Những câu hỏi này là hình thức để nhà thơ tỏ bày tâm trạng. Âm điệu bài thơ càng về sau càng da diết, sâu lắng và nhờ đó mà ba khổ thơ tưởng như tách biệt lại liên kết với nhau một cách tự nhiên, tạo thành một bài thơ hoàn chỉnh có vẻ đẹp khác thường.

Câu thơ mở đầu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? chứa đựng nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau. Nó có thể là lời mời mọc dưới dạng hờn trách nhẹ nhàng, rất đáng yêu của một cô gái Huế. Nếu vậy thì phải nghe câu thơ ấy cất lên bằng chính cái giọng Huế ấm áp, ngân nga, ta mới cảm nhận được hết vị dịu ngọt đến nao lòng của nó. Hiểu cách khác, nó là một câu hỏi tu từ. Nhà thơ lòng tự hỏi lòng: Liệu có còn dịp nào mình được về thăm thôn Vĩ mảnh đất gắn bó với bao kỉ niệm dấu yêu của mối tình đầu? Tự hỏi cũng là để nhắc nhỏ mình và kín đáo lồng vào trong đó nỗi khát khao, nhung nhớ.

Ba câu sau tả vẻ đẹp vườn cây thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Bức tranh chỉ đơn sơ vài nét chấm phá nhưng sinh động và đặc sắc vô cùng! Đây là cảnh hiện ra trong cõi nhớ nên vẻ đẹp của nó trở nên lung linh gấp bội. Mỗi câu thơ tả một cảnh vườn. Ánh nắng ban mai trong trẻo, tinh khiết phơn phớt hồng trên những tán cau xanh cao vút, in dáng trên nền trời buổi bình minh. Thi sĩ miêu tả hàng cau trước nhất bởi đó là hình ảnh nổi bật, là điểm nhấn của bức tranh phong cảnh rất ấn tượng. Tưởng như hàng cau kia đang thay ai ngóng đợi người về. Hình ảnh hàng cau gợi trong ta một nỗi niềm làng mạc, quê hương sâu sắc.

Câu thơ tiếp theo thề hiện cảm xúc ngỡ ngàng và thán phục của nhà thơ trước vẻ đẹp tràn đầy sức sống của khu vườn: vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Đây cũng là lời nhận xét chân tình thốt lên tự đáy lòng thi sĩ. Thi sĩ không tả cụ thể cảnh vườn mà chỉ nhắc tới sắc xanh của lá. Mướt là màu xanh mỡ màng, non tươi, phơi phới xuân thì, nhìn mát mắt và mát tận tâm hồn. Từ quá chỉ mức độ làm tăng thêm khả năng gợi tả của câu thơ. Cái sắc nắng mới lên rọi xuống những vòm lá còn ướt sương đêm khiến cho màu xanh của lá ánh lên như ngọc. Vườn cây thôn Vĩ như một viên ngọc bích khổng lồ rời rợi sắc xanh, tỏa vào không gian và lòng người cái sắc màu quyến rũ lạ lùng! Tất cả đều rạo rực, tràn đầy sức sống. Tưởng chừng như nghe thấy được cả tiếng của nhựa sống đang chuyển lên cành tơ, lá nõn. Trước cảnh thiên nhiên tuyệt vời ấy, tâm hồn con người cũng rạo rực, vui tươi.

Câu thơ thứ tư là nét vẽ thân tình tô đậm vẻ e ấp, dịu dàng rất đáng yêu của người con gái Huế: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Thấp thoáng sau lá trúc là khuôn mặt chữ điền phúc hậu. ở đây, ta thấy sự tinh tế của ngòi bút Hàn Mặc Tử khi tả cảnh, tả người: Lá trúc che ngang làm tăng thêm vẻ duyên dáng của gương mặt chữ điền. Với câu thơ này, Hàn Mặc Tử đã thể hiện được thần thái của thôn Vĩ: cảnh tươi đẹp và con người duyên dáng. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau tạo thành vẻ đẹp đặc trưng của Huế.

Bức tranh thôn Vĩ tuyệt đẹp đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng thi sĩ. Trên cái nền phong cảnh đầy hương sắc ấy có một cuộc hội ngộ tuy không nói ra mà niềm vui như thấm vào vạn vật. Thoảng đâu đây tiếng thì thầm mơ hồ xao xuyến của tình yêu.

Khổ thơ thứ hai vẫn tiếp tục tả cảnh nhưng hầu như không ăn nhập gì với khung cảnh tươi vui ở khổ thơ đầu. Cảm xúc thơ chợt lắng xuống, đượm buồn. Linh cảm chia lìa hiện ra trong từng câu, từng chữ và từng hình ảnh:

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Thông thường thì gió thổi, mây bay theo cùng một hướng. Còn ở đây, gió, mây đôi ngả. Gió ở cây lá, còn mây lãng đãng tận trên cao. Ngẫu nhiên chăng hay dụng ý? Câu thơ ngắt làm đôi. Gió đóng khung trong gió (Gió theo lối gió), mây cuộn trong mây (mây đường mây). Mạch thơ chợt như đứt đoạn. Có cái gì đó xót xa, nghẹn ngào, hụt hẫng trong cảm xúc của nhà thơ.

Ở Vĩ Dạ, bước ra sau vườn đã là bến nước với dăm ba bậc dẫn xuống sông. Dòng nước sông Hương lặng lẽ, im lìm, buồn thiu như không muốn trôi. Hoa bắp (ngô) vật vờ, lắt lay trong gió nhẹ. Đâu đâu cũng đượm một nỗi buồn.

Khung cảnh thật vậy chăng? Đúng vậy! Trên kia thật mà ở đây cũng thật, bởi tươi tắn hay ủ ê cũng đều là Huế cả. vườn tươi sớm mai, sông ủ buổi chiều. Nỗi buồn phơn phớt, nhè nhẹ mà thấm tận đáy lòng. Nét trầm tư không nơi nào có được ấy là đặc trưng của Huế. Bức tranh phong cảnh thứ hai này có đủ gió thổi, mây bay, dòng nước trôi, hoa bắp lay… mà sao vắng lặng đến lạnh lùng. Đường như tất cả đang phai nhạt dần sự sống, đang bị vây bọc trong một mối sầu thương. Sự ngang trái, trớ trêu ẩn chứa trong cảnh vật hay vui buồn là do con mắt nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ? Nỗi buồn của thiên nhiên có liên quan gì đến nỗi buồn của con người hay không?

Trở lại mối tình của thi sĩ với cô gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình ấy tuy đẹp đẽ nhưng vô vọng. Duyên kiếp của đôi trai gái này là duyên kiếp lỡ làng, không thể chung đôi, chung đời được. Vì vậy nỗi buồn trong lòng người như lan cả vào cỏ cây, mây nước; khiến cho dòng nước buồn thiu và hoa bắp cũng vật vờ, lay lắt, lảo đảo bên dòng nước im lìm. Dòng nước buồn thiu tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi sầu li tán, chia phôi của gió với mây đã lây buồn tới dòng sông?!

Lạ nhất là động từ lay vốn là một từ tả thực không mang ý nghĩa vui hay buồn, vậy mà sao đặt vào trong câu thơ này, nó lại gợi cảm xúc buồn đến vậy? Nó phụ họa với nỗi buồn chia cắt của gió, mây, của dòng nước buồn thiu như chẳng còn sức sống.

Trong cái xu thế đang chảy trôi, chia lìa mỗi lúc mỗi xa ấy, thi sĩ chợt ước ao có được một thứ ngược dòng về với mình, đó là trăng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Nhà thơ nhìn thấy hay hình dung trong kí ức cảnh những con thuyền khoan thai, bồng bềnh trên mặt nước sông Hương lấp lánh ánh trăng ?! Sự phân vân đoán định trong từ nghi vấn thuyền ai càng làm tăng thêm vẻ mơ hồ, huyển ảo cho cảnh vật và đặc tả một hồn thơ đang rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp hữu tình của Huế.

Nhà thơ ao ước thuyền chở trăng về như mong một tri âm tri ki đến với mình. Dòng nước hóa thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan ra thành nước?! Thuyền chở trăng về cập bến thời gian huyền ảo. Song, đó chi là bề nổi của ý thơ. Có một chữ tâu nay bị bỏ quên bởi lẽ nó khiêm nhường, không cầu kì hoa mĩ nhưng lại mang nhiều sắc thái tu từ, ấy là chữ lập. Chữ kịp chứa đựng bi kịch của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh tâm trạng khắc khoải đợi trông cùng chút hi vọng mong manh của nhà thơ đang chơi vơi trên bờ vực của đau thương, tuyệt vọng. Chữ kịp cho ta thấy cảm nhận của thi sĩ về hiện tại ngắn ngủi và hé mở một khao khát sống cháy bỏng, muốn giao hòa, chia sẻ tâm sự với mọi người. Thi sĩ muốn níu kéo sự sống và chạy đua với thời gian.

Thuyền em đang đậu ở bến sông trăng như đời em sáng láng đầy xuân tươi, có chở trăng về kịp tối nay cho lòng anh vui lên một chút! Nỗi ước mong thầm lặng mà tha thiết. Tha thiết mà mong manh. Càng mong manh lại càng tha thiết.

Thuyền đậu, thuyền đi trên sông Hương trong đêm trăng là chuyện bình thường, nhưng bến sông trăng thì chi có trong thơ Hàn Mặc Tử. Thuyền chở trăng về kịp tối nay thì cuộc hẹn hò sẽ trọn vẹn. Có rượu, có trăng, có những người yêu nhau thì đời đẹp biết bao! Bù lại cảnh tượng ngăn cách, buồn bã ở hai câu trên, đây là hi vọng của cuộc gặp gỡ hòa hợp mát lành, cho dù hi vọng ấy cũng chẳng khác chi sương khói.

Có chở trăng về kịp tối nay là câu thơ của cõi mộng. Đến đây, nhà thơ không nhìn ra cảnh vật nữa mà nhìn vào chính lòng mình. Quỹ thời gian đang vơi đi từng ngày, từng khắc, cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Thi sĩ rơi vào cõi đau thương, tuyệt vọng.

Bốn câu thơ khổ này là bức tranh tâm cảnh. Gió, mây chia đường, bạn tình rẽ đôi. Buồn đến cả dòng sông, ngọn bắp. Thuyền ai đó hay thuyền em mà sáng đầy trăng? Hãy chở trăng vê kịp tối nay để ta gặp nhau lần cuối. Nhưng đó chỉ là ước mong, dẫu chân thành tha thiết mà mờ ảo, mông lung.

Nếu ở khổ thứ hai, tâm trạng của nhà thơ là khắc khoải, đợi mong và bồn chồn hi vọng thì đến đoạn này, khi thả hồn mơ khách đường xa, nhà thơ mới thấy nỗi niềm chia lìa da diết hơn, thấm thìa hơn. Nhà thơ lặng đi trong cõi mộng. Hình ảnh cô gái Huế hết sức gần gũi nhưng cũng hết sức xa vời. Xa vời về thời gian, không gian và nhà thơ linh cảm thấy mối tình giữa mình và cô gái ấy cũng đã thành hư ảo. Gâu thơ trên đương còn là mơ, câu dưới đã bay vào ảo giác, một bước nhảy vọt rất Hàn Mặc Tử, khó tìm thấy ở những bài thơ tình khác…

Lời thơ ở hai câu này nghe như có gì thổn thức, nghẹn ngào, hụt hẫng, chới với, bẽ bàng và tội nghiệp biết bao cho lòng chàng trai!

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.

Trên là vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Hình ảnh này gợi cho ta nhớ tới gương mặt chữ điền có lá trúc che ngang không thể nào quên.

Đây là hình ảnh người con gái Huế có vẻ đẹp trinh khiết đầy xuân tình mà thi sĩ hằng yêu mến. Gắn với hình dáng ấy là sắc áo trắng tinh khôi. Màu áo ở đây cũng là màu áo trong tâm tưởng. Tác giả hình dung trong tâm tưởng để thấy lại cái màu trắng của kí ức, cho nên nó hư hư thực thực. Câu thơ đầy ảo giác nhưng rất hay, rất có lí và bất ngờ: Áo em trắng quá nhìn không ra. Màu trắng giờ đang choán hết tâm tư, tình cảm của thi nhân. Bài thơ tả cảnh đã thành bài thơ thổ lộ tình yêu. Một thứ tình yêu đơn phương, thiết tha và có phần tội nghiệp:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?

Hai câu thờ cuối dẫn ta vào cõi hoài niệm của nhà thơ. Sương khói làm mờ nhân ảnh không phải là sương khói ngoài đời mà là sương khói trong mối tình đương nhen nơi lòng thi sĩ, là cái khoảnh khắc nhà thơ đắm đuối trong cơn mộng tưởng.

Đâu còn nắng hàng cau, vườn mướt quả Đâu còn xanh như ngọc, mặt chữ điền Cũng chẳng còn gió mây, dòng nước buồn, hoa bắp lay, sông trăng và con thuyền chở trăng về… Chỉ còn sương khói che khuất bóng người.

Không chỉ hình bóng em mờ mà thân xác anh cũng mờ tan trong sương khói lạnh lẽo. Còn lại may có chữ tình, nhưng nhà thơ vẫn băn khoăn, khắc khoải: Ai biết tình ai có đậm đà ?

Hai khổ thơ đầu nói đến cái đẹp của xứ Huế, khổ cuối nói vẻ đẹp của cô gái Huế. Tả cảnh đẹp xứ Huế, Hàn Mặc Tử đắm say đến mức hòa nhập vào cảnh. Nói đến vẻ đẹp của cô gái Huế, nhà thơ lại lùi ra xa, giữa nhà thơ với cô gái là một khoảng cách mịt mờ sương khói. Vì thế mới có câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời : Ai biết tình ai có đậm đà ? Nhà thơ đã sử dụng rất tài tình đại từ phiếm chi Ai để mở ra hai ý nghĩa của câu thơ: Làm sao biết được tình người con gái thôn Vĩ có đậm đà không? Hay cũng mờ ảo, chóng tan như làn sương khói kia? Người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ đối với cảnh vật Huế, con người Huế hết sức thắm thiết, đậm đà ? Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chi làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.

Khổ thơ thứ ba tiếp nối và đi sâu vào bên trong mối tình, từ nỗi cách ngăn gió mảy chia đường đến sự đứt gãy. Từ cảnh thiên nhiên như reo vui, tràn đầy sức sống ở khổ thơ thứ nhất đi dần tới sự xóa nhòa tất cả vào mơ, vào sương khói ở khổ thứ ba. Một mối tình hết sức thiết tha, nồng ấm nhưng đành để nó mất hút vào cõi mông lung, mờ mịt; chỉ còn lại dư vị đậm đà trong lòng người và cả lòng mình.

Bài thơ bắt đầu bằng điệu vui tươi nhưng kết thúc lại buồn như vừa lỡ một cuộc hẹn hò. Có phải nội dung bài thơ chỉ giới hạn ở một nỗi đau cụ thể là mối tình lỡ làng của tác giả với một người con gái Huế ? Nếu vậy, nó không tồn tại đến tận ngày nay. Cũng không phải nó nói giùm niềm đau của ngàn vạn chàng trai không may trong trường tình. Gốc rễ sâu xa của nỗi bẽ bàng trong bài thơ vượt ra khỏi khuôn khổ tình yêu của một đôi trai gái, mà nói lên tâm trạng chưa kịp vui đã thấy buồn, mới vừa ban mai mà đã vội chiều tà, bao ước mơ tốt đẹp tất thảy đều tuột khỏi tầm tay. Đó là tâm trạng của tầng lớp trí thức trẻ 1930 – 1945 rất hào hứng tự khẳng định mình nhưng luôn bị những áp lực của xã hội phủ định, trong khi ánh sáng của cách mạng chưa soi rọi tới.

Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ về tình yêu. Thấp thoáng trong màn sương khói hư ảo của tình yêu đôi lứa là tình yêu thiết tha, đằm thắm đối với quê hương đất nước. Vì khơi gợi và làm rung động tình cảm chung của nhiều người như thế nên bài thơ vốn diễn tả tâm trạng riêng của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn của nhiều thế hệ yêu thơ Hàn Mặc Tử.

 

3. Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, mẫu 3:

“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt. Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được, nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”. Chính vẻ đẹp thơ mộng ấy của Huế đã khơi nguồn cảm xúc cho biết bao thi sĩ viết nên những bài thơ hay, một trong những bài thơ đó là “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được làm trong khoảnh khắc thăng hoa tình yêu cuộc sống hòa với nỗi đau thương, trong trái tim thi sĩ đang rực cháy hai ngọn lửa tình, đó là tình yêu quê hương đất nước và tình yêu lứa đôi, từ đó đã cho ta một “Đây thôn Vĩ Dạ” mỹ lệ, bất tử làm rung động lòng người.

Bài thơ có liên quan đến mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với người con gái thôn Vĩ tên là Hoàng Thị Kim Cúc. Khi Hoàng Cúc biết tin Hàn Mặc Tử bị mắc bệnh hiểm nghèo, cô đã gửi một tấm bưu ảnh có hình một cô gái chèo đò, bên trên là cành trúc mảnh mai thanh tú, phía xa là ánh hoàng hôn. Khi nhận được tấm bưu thiếp những kỉ niệm xưa ùa về, nhà thơ đã vô cùng xúc động và viết nên bài thơ này.

Về kết cấu của bài thơ, bài thơ không liên tục về thời gian, không duy nhất về không gian, các câu thơ liên kết với nhau theo mạch tâm trạng của tác giả. Cả bài thơ gồm ba khổ thơ, khổ thơ 1 là tâm trạng khát khao say đắm của tác giả trước cảnh đẹp của thôn Vĩ, khổ thơ thứ hai là sự phấp phỏng hoài vọng trước cảnh sông nước đêm trăng. Khổ thơ cuối cùng là nỗi mơ tưởng hoài nghi về tình người thôn Vĩ.

Trước hết là sự hoài niệm về cảnh vườn tược thôn Vĩ ở khổ thơ thứ nhất:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ đầu là một câu hỏi mang nhiều sắc thái vừa hỏi han mời mọc vừa như một lời trách cứ nhẹ nhàng. Chủ thể của câu hỏi là cô gái và cũng có thể là chính tác giả, tác giả tự hỏi tự trách tự ước ao thầm kín được trở về Vĩ Dạ nhưng trong điều kiện thực tế thì không thể được. Tác giả dùng từ “chơi” chứ không dùng từ “thăm” bởi vì về thăm có tính chất xã giao, khách sáo còn về chơi thì thể hiện sự gần gũi thân mật. Hàn Mặc Tử đã mở đầu bài thơ một cách rất tự nhiên cho thấy mối quan hệ giữa cảnh và người thôn Vĩ. Ba câu thơ sau là hoài niệm về cảnh vườn tược thôn Vĩ. Cảnh thôn Vĩ vừa mang nét chung vừa mang nét riêng của Vĩ Dạ, đó là cảnh hàng cau trong nắng sớm, nắng hàng cau là thứ nắng tinh khôi thể hiện đúng thần thái của Vĩ Dạ, điệp từ “nắng” hai lần thể hiện bước đi của nắng, đồng thời thể hiện được tính chất nắng nhiều của miền Trung, nắng có từ sáng sớm rồi dâng đầy dần theo những đốt cau. Vĩ Dạ còn có vẻ đẹp riêng ở những khu vườn mướt xanh như ngọc, trong thơ Hàn Mặc Tử, vườn là một mô típ ám ảnh (vườn trần, vườn tiên, vườn chiêm bao…), nhưng đều chung một đặc điểm là chốn nước non thanh tú. Vì thế vườn ở Vĩ Dạ dù đơn sơ dù đơn sơ nhưng vẫn toát lên vẻ tinh khôi, dù bình dị cũng toát lên vẻ tinh khiết cao sang. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” đây chính là màu xanh rạng rỡ nhưng không chói lóa mà mát dịu, là màu xanh rất óng ánh và long lanh. Sự so sánh này là một liên tưởng rất chính xác gợi đúng thần thái của vườn thôn Vĩ trong nắng sớm khi mà vườn cây còn ướt sương đêm. Như Hoài Thanh đã nhận xét: “Thơ Hàn Mặc Tử có những câu thơ đẹp một cách lạ lung, đọc lên như rưới vào lòng một nguồn sáng láng”. Nhận xét đó rất đúng với câu thơ này.Câu thơ cuối: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền là một câu thơ có nhiều cách hiểu, có thể “mặt chữ điền” là khuôn mặt của người thôn Vĩ thể hiện vẻ đẹp phúc hậu và sự dịu dáng kín đáo của người Huế, khuôn mặt bị che khuất bởi lá trúc tạo nên sự hài hòa của cảnh và người. Nhưng khuôn mặt đó cũng có thể của chính tác giả, ông hình dung mình trở về thôn Vĩ nhưng không vào mà chỉ nép sau cành trúc để nhìn vào vẻ đẹp của khu vườn.

Ở khổ thơ thứ hai là cảnh sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kíp tối nay”

binh giang bai tho day thon vi da

Văn mẫu lớp 11 tập 2: Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Cảnh sông nước ở hai câu đầu gợi đặc điểm riêng của Huế: nhẹ nhàng, dịu dàng, hiện thực mà huyền ảo thơ mộng. Dường như tất cả đều xa dần, gió thổi, mây bay, dòng nước lững lờ trôi. Chữ “buồn thiu” nhân hóa dòng sông thành một sinh thể có hồn mang tâm trạng của Hàn Mặc Tử. Về cấu trúc câu thơ đầu, ngắt nhịp 4/3 chia đôi câu thơ thành hai vế, trong thực tế thì “gió thổi đường nào, mây bay đường ấy” nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây” thể hiện sự hợp lí về tâm trạng, con người có mặc cảm chia li nên nhìn đâu cũng thấy chia li. Mọi thứ đều chia lìa, chỉ có hoa bắp không thể lưu chuyển nên bị bỏ rơi. Từ “lay” như một sự níu giữ vu vơ của kẻ bị chia lìa, bỏ rơi. Cảnh sông nước đêm trăng ở hai câu cuối mang một vẻ đẹp hiện thực mà huyền ảo. Ở đây ánh trăng tỏa đầy dòng sông tạo thành “sông trăng”, “sông trăng” là con sông chảy từ cõi thực về cõi mộng. Tâm trạng hoài vọng phấp phỏng của Hàn Mặc Tử thể hiện ở chữ “kịp”, chỉ với một từ nhưng đã biến câu thơ thành một lời cầu khẩn đầy khắc khoải, dường như nếu thuyền không chở trăng về kịp tối nay thì nhà thơ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn và cô đơn.

Khổ thơ cuối là hoài niệm về người thôn Vĩ với nỗi niềm hoài nghi:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”

Ở đây nhịp điệu của khổ thơ đã gấp gáp khẩn khoản hơn. Hình ảnh người thôn Vĩ hiện ra với vẻ đẹp tinh khiết, thể hiện qua sắc áo trắng ở mức độ tuyệt đối “trắng quá nhìn không ra”, người thôn Vĩ hiện ra trong hoài niệm vừa huyền ảo vừa hiện thực, vừa gần gũi vừa xa xôi. Hiện thực ở màu áo trắng nhưng huyền ảo ở mức độ trắng quá, gần gũi ở chỗ đã từng quen biết nhưng xa vời ở chỗ chỉ là “khách đường xa”. Trong khổ thơ này, tâm trạng của nhà thơ là vừa mơ tưởng vừa hoài nghi thể hiện ở đại từ phiếm chỉ “ở đây” và “ai biết tình ai”. Câu thơ cuối cùng là một câu hỏi thể hiện tâm trạng cô đơn, trống vắng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh thiên nhiên đẹp, nhưng ở một cái nhìn sâu hơn thì bài thơ là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử – một nghệ sĩ tài hoa đa tình, đa cảm. Chính những tình cảm da diết đó đó đã làm cho bài thơ sống mãi trong lòng người đọc hiện giờ và mai sau.

 

4. Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu 4:

Bài thơ ” Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử được gợi cảm hứng từ một tấm bưu thiếp nhưng bài thơ không đơn thuần chỉ là lời vịnh cảnh, vịnh người mà đó là tiếng lòng đầy uẩn khúc của một tình yêu mãnh liệt nhưng vô vọng, một niềm khát khao sống, tha thiết, gắn bó với đời khi mà nhà thơ có nguy cơ phải sớm lìa xa cuộc đời.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh phong cảnh bình minh nơi thôn Vĩ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi như một lời trách móc nhẹ nhàng, lời mời gọi tha thiết đối với nhà thơ. Câu thơ có thể hiểu theo hai cách, trước hết có thể hiểu đó là lới của cô gái thôn Vĩ hướng tới thi sĩ nhưng cũng có thể hiểu đó là lời nhà thơ tự trách mình, cũng là ước mơ thầm kín của người đi xa mong được trở về thăm chốn xưa. Trong câu thơ tác giả dùng tư “chơi” một cách thân mật khác hẳn từ “về thăm” mang tính chất xã giao, cách dùng từ ấy phù hợp với một lời mời chân tình, gần gũi. Câu hỏi sẽ là duyên cơ để khơi dậy trong lòng nhà thơ biết abo kỉ niệm sâu sắc, hình ảnh đẹp đẽ về xứ Huế, về thôn Vĩ. Từ câu hỏi tác giả mở ra một cảnh thật đẹp, thật trong sáng về cảnh thôn quê. Hình ảnh của “nắng vườn cau” và những vườn xanh mướt nơi thôn Vĩ gợi lên sự tinh khôi, tinh khiết. Trong thơ của Hàn Mạc Tử thường miêu tả nhiều nắng, ví như bài “Mùa xuân chín”: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan… Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang”. ở mỗi câu thơ tác giả lại có sự phát hiện riêng về sắc màu của nắng ở những thời điểm khác nhau. Cái nhìn của tác giả chuyển dần xuống thấp hơn, quan sát cảnh vườn tươi đẹp bao quanh nhà tạo thành cấu trúc thẩm mĩ xinh xắn mà Xuân Diệu từng ví như một bức tranh tứ tuyệt tuyệt đẹp. Từ “mướt quá” gợi vẻ đẹp tươi tốt, đầy sức sống của vườn cây thôn Vĩ, câu thơ như một lời cảm thán gợi sắc thái ngợi ca. Phép so sánh “xanh như ngọc” là một so sánh đẹp gợi hình ảnh những chiếc lá xanh mướt dưới nắng sớm, sạch sẽ, láng bóng. Qua những câu thơ ta còn nhận ra tình cảm của cả những người chăm sóc dành cho vườn cây. Phải là một người có tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, có ân, có tình đặc biệt tha thiết đậm đà với thôn Vũ mới lưu giữ được những hình ảnh sống động và đẹp đẽ đến thế. Câu thơ cuối ” Lá trúc che ngang mặt chữ điền” có sự xuất hiện của con người làm cho cảnh vật thêm ấm áp, sinh động hơn. Sự xuất hiện ấy cũng rất tế nhị, kín đáo, phù hợp với bản tính nhẹ nhàng của người xứ Huế. Thấp thoáng sau lá trúc là khuôn mặt chữ điền – khuôn mặt cương trực, phúc hậu, thẳng thắn. Tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người cụ thể mà chỉ ghi lại một chi tiết, một nét trong vẻ đẹp tâm hồn, tính cách thông qua khuôn mặt.

Tiếp sau bức tranh vườn tược, khổ thơ thứ hai của bài thơ miêu tả bức tranh sông nước xứ Huế.

“Gió đi lối gió, mây đường mây
Mặt nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”‘

Hai câu thơ đầu, khi quan sát cảnh vật thiên nhiên, nhà thơ nhận thấy mọi sự vật đang chia lìa, xa cách “gió đi lối gió, mây đường mây”. Về mặt tự nhiên, hình ảnh có vẻ rất vô lý vì gió mây thường bay cùng hướng không thể có sự ngược chiều. Nhưng nỗi đau trong tâm trạng của nhà thơ đã chi phối cách nhìn cảnh vật, bản thân nhà thơ đang bị tách rời cuộc sống nên ông nhìn sự vật trong cái nhìn đầy mặc cảm – mặc ảm chia lìa. Nỗi đau càng sâu sắc, càng cho ta thấy niềm khao khát sống của nhà thơ. Câu thơ được diễn tả theo logic tâm lý. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp nhân hóa để diễn tả được tình cảnh khác thường, không chỉ trong mây và gió mà còn trong cả dòng nước sông Hương “dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Câu thơ diễn tả nhịp điệu êm đềm, khoan thai của xứ Huế, gió mây nhè nhẹ, dòng nước chảy hững hờ, cỏ cây khẽ đung đưa. Như vậy từ sự chia lìa của mây gió đã làm nên nỗi buồn cho tâm trạng hay cũng chính là nỗi buồn của thi nhân. Cách ngắt nhịp 4/3, hình ảnh gắn với mỗi vế làm cho câu thơ như bị cắt đôi, cảnh vật cũng bị chia rẽ, chia lìa ngang trái.nếu ở hai câu thơ đầu hình ảnh còn mang tính chất thực thì sang hai câu thơ sau hình ảnh đã chuyển sang tính chất ảo.

binh giang bai tho day thon vi da

Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11

Hình ảnh “sông trăng” chính là dòng nước, dòng ánh sáng. Hình ảnh con thuyền có thể là thật nhưng hình ảnh sông trăng và thuyền chở trăng lại mang tính chất ảo, lúc này dòng sông không còn là dòng nước nữa mà là trở thành dòng ánh sáng lấp lánh ánh trăng, tạo ra một không gian nghệ thuật hư ảo, mênh mang. Chính vì thế, con thuyền cũng trở nên mộng tưởng, nó đậu trên sông trăng để chở trăng về một cõi mơ. Như vậy, nhà thơ đã phác họa ra một nét rất đẹp của sông Hương dưới ánh trăng, các hình ảnh được thi sĩ sử dung có tính chất bóng bẩy, gây chú ý cho người đọc, tạo nên một bầu không khí hư hư, thực thực, nét thực, nét ảo chuyển hóa một cách ảo mộng. Đặt hình ảnh ánh trăng trong thế giới quan với các hình ảnh khác trong khổ thơ, nhà thơ có cảm giác mình đang bị bỏ quên ở bến bờ quên lãng, trong cô đơn thi nhân chỉ biết bấu víu vào trăng. Trăng là bạn, là tri âm, tri kỉ của thi nhân từ ngàn đời nay, là nguồn cảm hứng bất tận của nghệ thuật. Ngoài ra, trong lúc này, trăng là điểm tựa, là niềm an ủi duy nhất đối với thơ, vì thế nhà thơ đã đặt hi vọng vào con thuyền chở trăng có về “kịp” tối nay hay không? Lời thơ chứa đựng bao thấp thỏm, lo âu, khắc khoải, đợi chờ và cả một cảm giác cô đơn. Chữ “kịp” không phải là một chữ được dùng bóng bẩy ,à hoàn toàn bình dị nhưng chính nó lại hé mở cho người đọc cảm nhận về tâm thế sống của Hàn Mặc Tử : đó là một cảm nhận về hiện tại ngắn ngủi, sống chạy đua với thời gian, tranh thủ từng giờ, từng khắc.

Nhà thơ đã trực tiếp tâm sư với con người xứ Huế trong khổ thơ thứ ba:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Cảnh vật trong đoạn thơ hoàn toàn là cảnh ảo. Sương khói làm mờ nhân ảnh, cảnh vật được gợi ra mang nét đặc trưng của xứ Huế. Hình ảnh con người xuất hiện với “áo em trắng quá nhìn không ra”, sử dụng từ cực tả. Câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà” có thể hiểu là lời cô gái hướng tới nhân vật trữ tình nhưng cũng có thể hiểu là lời nhân vật hỏi cô gái. Câu thơ tràn ngập mặc cảm tự ti về tình người, sự hoài nghi về tình cảm của con người xứ Huế liệu có đậm đã hay không. Trong câu thơ cáo ai đại từ “ai”, một đại từ chỉ tác giả, một đại từ chỉ cô gái hay chính là chỉ tình người trong nhân gian. Đọc bài thơ ta thấy không phải Hàn Mạc Tử hoàn toàn không tin vào sự đậm đà của tình người mà là không dám tin. Câu thơ vẫn bao hàm một niềm hi vọng sâu sắc , nó mang sự hoài nghi của một người yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha với người nhưng đầy mặc cảm.

Qua hệ thống các câu hỏi và hình ảnh, bài thơ đã thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình, từ mơ ước, đắm say đến hoài vọng, phấp phỏng cho đến mơ tưởng, hoài nghi của một tâm hồn yêu đời, khát khao cuộc sống.

 

5. Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu 5:

Đây thôn Vĩ Dạ trích trong tập có tựa đề là Thơ điên, sau đổi thành Đau thương, ra đời năm 1938. Từ những bài thơ Đường luật đầu tiên, qua tập Gái quê, đến Đau thương, thơ Hàn Mặc Tử đã đi qua một bước dài.

Trong phong trào Thơ mới giai đoạn 1930 – 1945, có nhiều bài thơ hay về thiên nhiên, đất nước. Đây thôn Vĩ Dạ viết về cảnh đẹp xứ Huế thơ mộng và thanh lịch, đồng thời bộc lộ khát khao được gắn bó, hòa hợp với cảnh, với người của Hàn Mặc Tử.

Thôn Vĩ Dạ nằm ven thành Huế, ngay bên bờ sông Hương. Thôn này nổi tiếng bởi những vườn cây xanh tốt, hoa thơm trái ngọt bốn mùa và phong cảnh hữu tình cùng với những thiếu nữ duyên dáng, đoan trang dễ làm say đắm lòng người.

Bài thơ mở đầu bằng một lời trách: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Trách nhẹ nhàng, sơ sơ mà nghe rất đáng yêu. Trách mà ngụ ý mời mọc: anh hãy về thăm thôn Vĩ và thăm… em. Cách nói rất tinh tế, cô gái nhờ cái nắng hàng cau để gửi gắm ý mình. Anh về thôn Vĩ mà ngắm cảnh: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Cái nắng mới lên buổi sớm mai – phơn phớt hồng trên tán lá cau xanh cao vút, từ xa đã đập vào mắt. Từ nét rất thực của cảnh vật ấy, ta có thể nghĩ cây kia thay người kiễng chân lên thật cao để đón lấy cái trìu mến của người về thăm, thay em để được đầu tiên đón lấy cái nhìn của anh. Hình ảnh này gợi nên một tình lưu luyến vơi đầy.

Câu 2, 3, 4 là cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp của vườn cây Vĩ Dạ. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc là lời trầm trồ ngạc nhiên trước cảnh đẹp lộng lẫy: màu xanh mỡ màng, non tươi của lá, màu vàng tinh khiết của nắng sớm lọc qua vòm lá tạo nên màu xanh như ngọc bích. Tất cả đều rạo rực, tưng bừng sức sống. Tưởng như nghe tiếng nhựa chuyển lên cành, lên lá. Tâm hồn con người trước cảnh ấy cũng một điệu tươi vui.

Vườn ai có thể là vườn của cô gái. Cây đã đẹp, người càng đẹp hơn: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Con người thấp thoáng ẩn hiện sau khóm trúc. Đường nét thanh mảnh củalá trúc làm tôn thêm vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu của gương mặt chữ điền. Câu thơ nêu bật nét e ấp, dịu dàng cổ truyền của cô gái Huế.

binh giang bai tho day thon vi da

Bài văn Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ tuyển chọn

ý nghĩa của khổ thơ này là vậy. Kẻ ở thôn Vĩ thì trách khéo bằng lời mời mọc và giới thiệu nét đẹp dân dã quê mình. Người về thăm thì khen ngợi, say mê cảnh đẹp và người đẹp. Cảnh đẹp màu, người đẹp nết. Tất cả hài hoà thành một bức tranh quê hương tươi mát, tràn đầy sinh lực và có sức quyến rũ lạ lùng. Trên cái nền phong cảnh đầy hương sắc ấy, có một cuộc hội ngộ tuy không nói ra mà niềm vui thấm vào cảnh vật, nghe như có tiếng thì thầm mơ hồ, hư ảo của tình yêu.

Phút vui không dài. Mà không một tiếp chuyển nào, cái buồn tiếp theo ngay:

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.

Hoa bắp trổ cờ, lay lay trong gió nhẹ. Dòng nước sông Hương như không muốn trôi, lặng lẽ, im lìm. Gió mây trên tầng không cũng mỗi thứ mỗi đường, gió ở cây lá còn mây ở tận trên trời. Cảnh thật chứ? Đúng. Trên kia thật mà đây cũng thật. Tươi tắn, ủ ê đều Huế cả. Vườn tươi sáng mai, sông ủ buổi chiều. Cái buồn phơn phớt, nhè nhẹ, thấm tận vào đáy lòng, cái nét trầm tư không nơi nào có được, ấy là đặc trưng của Huế. Nhớ Quê mẹ, Tố Hữu nhớ cái không khí vô hình mà rất thấm ấy: Mây núi hiu hiu chiều lặng lặng… Đây cógió thổi, mây bay, có hoa bắp lay mà nghe vắng lặng đến nao người.

Nỗi buồn ấy trong cảnh có liên quan gì tới người không? Kẻ mời, người về, hai đằng lặng lẽ mà nên cảnh tươi vui. Nhưng ngăn cách nằm sâu trong sự thật gió mây chia đường. Gió thổi mây bay thường là một chiều, đây lại đứt gãy: Gió theo lối gió, mây đường mây. Lại ngăn cách quyết liệt, gió đóng khung trong gió (hai chữ gió đóng hai đầu); mây cuộn trong mây (hai chữ mây cũng khép kín vòng lại). Số kiếp của cô gái và chàng trai này là vậy. Cho nên dòng nước cũng như buồn theo và hoa bắp cũng vật vờ lay động như lảo đảo bên cạnh dòng nước im lìm.

Buồn đến thế ư? Có chút hi vọng nào chăng? Đến lúc chàng trai hỏi: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó – Có chở trăng về kịp tối nay? thì câu thơ sáng hẳn lên. Từ ngày đến đêm và đêm trăng là một bước nhảy vọt không báo trước. Tối nay lại là một sự đột ngột khác.

Thuyền đậu, thuyền đi trên sông Hương đêm trăng là chuyện bình thường. chở cả tình cũng hình dung được. Nhưng sông trăng thì chỉ có trong hồn thơ của Hàn Mặc Tử. Nếu có một cuộc hèn hò tối nay cần trăng cần thuyền thì thuyền về kịp cuộc hẹn sẽ vui, có rượu có trăng, có những người yêu nhau thì đẹp biết bao! Bù lại cảnh tượng ở hai câu trên là ngăn cách, buồn não trong lặng lẽ, đây là hi vọng của cuộc gặp gỡ hoà hợp mát lành. Hi vọng mỏng manh bởi vì nó được đặt thành một nghi vấn, dù đã được chốt lại một cách xác định rõ ràng: kịp tối nay?.

Buồn não đã liên quan đến hai người thì hi vọng này có dính dấp gì tới không? Thuyền ailà thuần tuý phiếm chỉ hay là một chiếc thuyền xác định: thuyền em? Thuyền em đang đậu ở bến sông đầy trăng như đời em đang đầy xuân tươi, em có chở trăng về, chở tươi vui về bến anh cho anh được chút vui mát lành một tối là tối nay? Nỗi ước mong thầm lặng mà tha thiết đến mức từ xa xôi trong thời gian vội hiện ngay vào hiện tại: tối nay. Tha thiết mà mỏng manh. Càng mỏng manh càng tha thiết.

Bốn câu trước khổ này là vậy. Gió mây chia đường. Bạn tình rẽ đôi. Buồn đến cả dòng sông, ngọn bắp. Buồn quá! Thuyền ai đó hay thuyền em mà sáng đầy trăng? Chở trăng về kịp tối nay để ta gặp nhau. Nhưng đó chỉ là ước mong, sáng lòng mà mờ ảo, mông lung.

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
áo em trắng quá nhìn không ra.
ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà!

Hình ảnh cô gái Huế hết sức thân thiết nhưng cũng xa vời. Xa vời về thời gian, không gian và nhà thơ linh cảm thấy mối tình giữa mình và cô gái ấy cũng thành hư ảo. Bởi đã hứa hẹn gắn bó gì đâu? Em là thiên thần ở cõi nào, còn anh trời đày thân xác dưới trần gian. Câu thơ trên đương còn là mơ, câu này đã bay vào ảo giác, một bước nhảy vọt rất Hàn Mặc Tử, khó tìm thấy ở những bài thơ tình khác…

Lời thơ ở hai câu này sao mà nghe như có gì đứt đoạn, tắc nghẹn, hụt hẫng, chới với, mất thăng bằng. Bẽ bàng, tội nghiệp biết bao cho lòng chàng trai!

Đâu còn nắng hàng cau, vườn mướt quá, đâu còn xanh như ngọc, mặt chữ điền! Cũng chẳng còn gió mây lặng lẽ, dòng nước buồn, hoa bắp lay, sông trăng và con thuyền chở trăng về… Chỉ còn sương khói che khuất bóng người: ở đây sương khói mờ nhân ảnh. Em cũng mờ mà anh cũng mờ tan, trong khói sương lạnh lẽo. Còn lại may có chữtình, như: Ai biết tình ai có đậm đà? Ai trước là người nào? Ai sau là người nào? Sau những gió lối gió, mây đường mây, có chở trăng về, mơ khách đường xa, nhìn không rathì ai trước phải là cô gái, còn ai sau là chàng trai.

ở khổ thơ cuối, tác giả trả lời cho câu trách móc ở đầu bài thơ: Sao anh không về? Có về đấy chứ. Về bằng tưởng tượng, bằng hồi ức, lặng lẽ mà nhìn, mà say, mà buồn, mà trông mong, hi vọng, rồi thất vọng, bẽ bàng. Chỉ còn chắc chắn một điều, đó là tâm tình đậm đàmãi mãi của anh. Câu thơ chấm dứt lơ lửng. Và như thế là phải xét lại hai chữ ai, và xét lạitình. Đảo ngược lại, chữ ai trước là anh, chữ ai sau là em. Về phía anh, anh tự biết tình vẫn đậm đà, nhưng em có biết cho không?

Dù hiểu cách nào đi nữa, câu thơ vẫn có nét buồn buồn: sương khói mờ nhân ảnh đã là mù mịt mông lung, khuất lấp mất dạng, chữ có đậm đà lại gieo thêm một nỗi lửng lơ, nghi hoặc nên càng buồn.

Khổ thơ thứ ba này tiếp nối đi sâu vào bên trong mối tình, từ cái cách ngăn mây gió chia đường đến sự đứt gãy. Từ cảnh thiên nhiên như reo vui, tràn đầy sức sống ở khổ thơ một đi dần tới sự xóa nhoà tất cả vào mơ, vào sương khói ở khổ ba. Một mối tình hết sức thiết tha đang để nó mất hút vào mông lung, mờ mịt, chỉ còn lại dư vị đậm đà trong lòng người và cả lòng mình.

Bài thơ bắt đầu bằng điệu vui, nếu không cũng điệu tươi, nhưng kết thúc lại phơn phớt buồn như vừa lỡ một cuộc hẹn hò. Cái buồn mới đến thế. Nó đang ở trong miếng đất của lãng mạn. Bài này và một số bài khác vốn đứng riêng và mang một ánh sáng riêng trong tập Đau thương.

Có phải bài thơ chỉ giới hạn ở một nỗi đau cụ thể là mối tình lỡ làng với một người con gái Huế? Nếu vậy, số mệnh nó không dài đến tận nay. Cũng không phải nó nói giùm niềm đau của ngàn vạn chàng trai không may trong trường tình. Gốc rễ sâu của nỗi bẽ bàng trong bài thơ vượt ra khỏi khuôn khổ một đôi trai gái, mà nói lên tâm trạng chưa kịp vui đã thấy buồn, mới vừa ban mai mà đã vội chiều tà, bao ước mơ tốt đẹp tất thảy đều tuột khỏi tay mình. Tâm trạng của thế hệ thanh niên 1930 – 1945 rất hào hứng, tự khẳng định mình nhưng những cách ngăn của xã hội luôn có mặt để phủ định, khi tiếng vọng của Cách mạng đối với họ vẫn còn xa.

———————–HẾT—————————

Ngoài ra, Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ là một bài học quan trọng trong chương trình Ngữ Văn 11 mà các em cần phải đặc biệt lưu tâm.

Bên cạnh nội dung đã học, các em có thể chuẩn bị và tìm hiểu nội dung phần Phân tích bài thơ Đất Nước thông qua chi tiết Phân tích bài thơ Đất Nước để nắm trước những kiến thức trong chương trình sắp tới.

Giáo Dục

Bản quyền bài viết thuộc thcs-thptlongphu. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://thcs-thptlongphu.edu.vn
https://thcs-thptlongphu.edu.vn/binh-giang-bai-tho-day-thon-vi-da/

Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn

Chuyên mục: Tổng hợp