Đề bài: Phân tích bài thơ Chiều tối
Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Chiều tối
Bài văn mẫu Phân tích bài Chiều tối
I. Dàn ý Phân tích bài Chiều tối (Chuẩn)
1. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
2. Thân bài:
a. Bức tranh thiên nhiên rừng núi:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”:
– Hình ảnh cánh chim trời:
+ Trong thi ca xưa cánh chim bay lạc giữa không trung thường đại diện cho sự cô đơn, lạc lõng, mất phương hướng.
+ Trong Chiều tối cánh chim mang màu sắc hiện đại hơn khi nó có nơi chốn để về sau một ngày dài vất vả kiếm ăn, đó là tổ ấm hạnh phúc…(Còn tiếp)
>> Xem Dàn ý Phân tích bài thơ Chiều tối đầy đủ tại đây.
II. Bài văn mẫu Phân tích bài Chiều tối của Hồ Chí Minh
1. Phân tích bài thơ Chiều tối, mẫu số 1 (Chuẩn):
Bên cạnh một sự nghiệp chính trị vẻ vang Hồ Chí Minh còn có một sự nghiệp sáng tác rất mực đồ sộ và đáng quý. Có thể nói rằng xuyên suốt chặng đường cách mạng lắm gian lao, thì việc sáng tác văn thơ dường như đã trở thành một phần không thể thiếu, luôn đồng hành trong suốt hành trình giải phóng dân tộc của Bác. Với lối văn thơ trữ tình chính trị đậm nét, các tác phẩm của Hồ Chí Minh, không chỉ cổ vũ tinh thần yêu nước, đả kích quân thù, mà trong đó còn ẩn chứa những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của vị lãnh tụ vĩ đại. Chiều tối (Mộ) là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn chương của Hồ Chí Minh, không chỉ bộc lộ những vất vả khó khăn mà Người đã phải trải qua trong quá trình làm cách mạng mà quan trọng hơn hết qua đó chúng ta thấy những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của người thi sĩ, chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, vừa về nước chưa được bao lâu, Hồ Chí Minh lại tiếp tục sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Sau nửa tháng đi bộ, vượt rừng đầy vất vả, khi vừa đặt chân sang biên giới bên kia thì Người đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, Bác rơi vào cảnh tù đày suốt 13 tháng. Cuộc sống nơi ngục tù cùng với những chuyến chuyển lao đầy vất vả đã được Người ghi lại bằng 134 bài thơ trong tập Ngục trung nhật ký. Nhận xét về tập thơ này, nhà thơ Tố Hữu đã viết những dòng rất cảm động rằng:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay…cánh hạc ung dung”
Chiều tối là bài thơ tiêu biểu nhất trong số 134 bài của tập Ngục trung nhật ký, được ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, ấy là vào một buổi chiều nhá nhem tối cuối thu năm 1942, khi Bác đang bị áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo (Trung Quốc). Trước cảnh gông xiềng quấn thân, chân đứng trên miền đất xa lạ, thế nhưng bằng tấm lòng lạc quan, yêu thiên nhiên, con người Hồ Chủ tịch vẫn ngẫu hứng viết nên những vần thơ thực ấm áp, xua tan đi cái tăm tối, hiu quạnh nơi núi rừng sơn cước. Bút pháp chấm phá cổ điển cùng với ý thơ hiện đại đã mang đến cho Chiều tối một diện mạo đặc sắc, thơ không chỉ là những cảm tình ngẫu hứng mà còn ẩn chứa trong đó một vẻ đẹp tâm hồn lớn, những hoài bão, những ước vọng về lý tưởng cách mạng đang phát triển mạnh mẽ.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Phân tích bài thơ Chiều tối để thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh
Khung cảnh thiên nhiên chiều tối được Bác phác họa qua hai hình ảnh cánh chim và chòm mây- những chất liệu quen thuộc thường thấy trong thơ cổ điển xưa, khi thi nhân miêu tả buổi hoàng hôn. Đọc những vần thơ này, dễ có thể liên tưởng đến hình ảnh nhân vật trữ tình đứng giữa trời đất, tầm mắt hướng vào không trung vô tình bắt gặp cánh chim in đen trên nền trời, cùng với những chòm mây trăng trắng có ráng ánh hồng buổi chiều tà, đó là một khung cảnh nhiều xúc cảm thi vị, cảm giác tự do phiêu lãng ngập tràn. Nhưng mấy ai biết được rằng đằng sau những vần thơ ấy là một người tù với gông đeo nặng cổ, cùm quấn chặt chân. Có thể nói rằng, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn như vậy, nhưng Hồ Chí Minh vẫn có thể ung dung nhìn ngắm mây trời, thì người thi nhân phải có một tinh thần lạc quan tuyệt đối đến nhường nào.
Hai câu thơ đầu của Chiều tối là điển hình cho bút pháp “thi trung hữu họa” trong văn học cổ điển, chỉ hai câu thơ ngắn ngủi đã đủ để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đặc sắc, nhiều ý vị. Trước hết là hình ảnh cánh chim trời, nếu trong thi ca xưa cánh chim bay lạc giữa không trung thường đại diện cho sự cô đơn, lạc lõng, mất phương hướng. Thì trong thơ Hồ Chí Minh, cánh chim mang màu sắc hiện đại hơn, khi nó có nơi chốn để về sau một ngày dài vất vả kiếm ăn, đó là tổ ấm hạnh phúc. Không chỉ vậy ngoài sự chuyển động của cánh chim, Người còn tinh tế cảm nhận được sự mỏi mệt ẩn chứa trong từng nhịp vỗ cánh. Sở dĩ có được những cảm nhận như vậy là do xuất phát từ tấm lòng đồng cảm của tác giả với cánh chim, như những người đồng cảnh ngộ. Bác cũng vừa trải qua một ngày dài đi bộ đường trường đầy mỏi mệt, đôi chân Bác cũng như đôi cánh chim đang rã rời, chỉ mong sớm được nghỉ ngơi. Chỉ khác là cánh chim ấy đã có chốn về, còn Bác thì chưa biết đến chốn nghỉ ngơi là khi nào, điều ấy cũng dấy lên những xúc cảm buồn tủi trong lòng thi sĩ.
Tuy nhiên nhiều hơn hết người ta vẫn thấy được tấm lòng lạc quan, yêu đời, luôn hướng đến những điều tích cực, khi Bác đã tự tìm cho cánh chim nơi chốn để về, Người vẫn nhìn nhận thấy những niềm hạnh phúc, ấm áp nhỏ nhoi trong cảnh sắc thiên nhiên vốn hiu quạnh này. Một hình ảnh tiếp theo ấy là hình ảnh chòm mây trôi lơ lửng trên nền trời xanh nhờ nhờ buổi hoàng hôn, đây cũng là một trong những chất liệu quen thuộc trong thi ca cổ điển. Hình ảnh chòm mây được rất nhiều thi nhân xưa đưa vào thơ của mình để bộc lộ tinh thần tự do, tự tại, phiêu bồng, thoát ly khỏi thực tại đồng thời một phần cũng bộc lộ sự cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. Ý này cũng phù hợp để nói về tâm trạng của Hồ Chí Minh trong cảnh ngục tù lắm gian truân, tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì vẫn chưa đủ để diễn tả hết vẻ đẹp trong thơ của Bác. Bởi, bên cạnh sự lẻ loi, cô độc của chòm mây, người ta còn nhìn ra tâm hồn lạc quan, thư thái, sự tích cực trong cách nhìn nhận sự vật. Hai từ “mạn mạn” diễn tả sự chậm rãi trong cách di chuyển của chòm mây, chính là thể hiện sự ung dung, thong thả của người chiến sĩ tình dù gông xiềng quấn thân. Hai từ “thiên không” tức là bầu trời quang đãng, sạch sẽ, trong trẻo như chính tấm lòng người chiến sĩ cách mạng, không bị trói buộc giam cầm bởi hoàn cảnh. Tất cả những điều đó đều nhấn mạnh và làm nổi bật tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của Hồ Chí Minh trong chuỗi ngày bị giam cầm, có thể nói rằng không gì có thể làm suy sụp đi ý chí ấy, mà chỉ làm cho lý tưởng cách mạng trong lòng Người càng thêm sáng rõ.
Văn học là nhân học, từ hình ảnh cổ điển cánh chim, chòm mây vốn hướng tới cảnh buồn bã, hiu quạnh nhưng trong thơ Bác, chúng lại trở nên đầy tính nhân văn. Cánh chim thì hướng về hạnh phúc, tổ ấm, bộc lộ khát khao được trở về quê hương đoàn tụ với Tổ quốc, còn chòm mây là tinh thần lạc quan, quyết chiến thắng mọi sự cô đơn, lạc lõng nơi đất khách quê người, dù rằng ẩn chứa trong đó là nỗi chạnh lòng khi đơn độc nơi xứ người của thi nhân.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”
Trong hai câu thơ tiếp theo Bác đã hướng ánh nhìn vào khung cảnh cuộc sống của người dân vùng sơn cước. Hình ảnh cô gái xay ngô là một hình đẹp và ẩn chứa nhiều ý vị, khi con người trong lao động trở thành trung tâm của bài thơ. Khác hẳn với hình ảnh con người trong thơ ca truyền thống luôn bị lu mờ, che lấp trước thực cảnh thiên nhiên rộng lớn, ví như cảnh thơ của Bà Huyện Thanh Quan “Lom khom dưới núi tiều vài chú”, hay của Huy Cận “Đâu tiếng làng xa vắng chợ chiều”. Thì ở trong thơ Hồ Chí Minh, hình ảnh cô gái xay ngô lại thực rõ nét và ấn tượng, tuy giản dị, đời thường nhưng lại bộc lộ sức sống mạnh mẽ, vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ trong công cuộc lao động. Có thể nói rằng hình ảnh thiếu nữ xay ngô chính là dấu ấn cho quan niệm thẩm mỹ mới mẻ của Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò, vị thế của con người trước thiên nhiên, vũ trụ rộng lớn, con người làm chủ thiên nhiên và sống chan hòa với thiên nhiên. Tất cả đã làm nên một diện mạo thơ đặc biệt với chất cổ điển đôi nét chấm phá và chất hiện đại làm cốt lõi đầy ấn tượng.
Không chỉ thế trong hình cảnh cô gái xay ngô tối, người ta còn nhìn nhận được những khao khát, mong mỏi của tác giả khi Người luôn hướng về cuộc sống của nhân dân lao động, về mái ấm yên bình, dẫu gian lao lao vất vả, nhưng ẩn chứa những vẻ đẹp tiềm tàng, mạnh mẽ, đầy hi vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Ở câu thơ cuối “Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”, khi cô gái vừa kết thúc công việc xay ngô thì lò than cũng đã rực hồng, đánh dấu sự chuyển đổi từ chiều tối sang tối hẳn. Từ “hồng” đã trở thành nhãn tự cho cả bài thơ hai mươi tám chữ. Thông thường, khi trời từ chiều tối sang tối hẳn có lẽ rằng bài thơ sẽ kết thúc bằng cảnh tượng màn đêm đen kịt bao phủ khắp núi rừng, che phủ đi hình ảnh con người, để lại nỗi cô đơn, lạnh lẽo và mênh mang vô tận. Nhưng ở trong Chiều tối, bóng đêm lại được bắt đầu bằng hình ảnh lò than đã rực hồng “lô dĩ hồng”, như một sự khởi đầu ấm áp, biểu hiện cho cuộc sống ban ngày vừa kết thúc, nhưng cuộc sống sinh hoạt mới thực sự bắt đầu. Chính thế người ta đã chẳng còn nhận thấy sự tối tăm, ảm đạm mà thay vào đó là cảm giác ấm áp, một khung cảnh mới có thể tiếp diễn ngay sau khi cô gái xay xong ngô tối, ấy là cảnh bữa cơm nóng ấm, vui vẻ bên gia đình.
Đặc biệt là từ “hồng” dường như làm rực sáng cả bài thơ, xua đi cái không khí tối tăm, hiu quạnh miền rừng núi, khung cảnh thiên nhiên rộng lớn bỗng chốc thu bé lại bằng hình ảnh một lò than, một mái ấm với những con người lao động nhỏ bé, nhưng đậm nét. Thơ của Hồ Chí Minh luôn tích cực và tươi sáng như thế, Người luôn hướng về ánh sáng, sự sống. Nhìn xa hơn về cả cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, từ “hồng” cuối bài là ẩn chứa những ý nghĩa xa xăm, hình ảnh cô gái xay ngô tối đầy khó khăn, vất vả, cũng giống như cảnh Bác nặng nhọc gông xiềng quấn thân. Khi cô gái xay xong ngô thì lò than đã rực hồng, là ẩn dụ cho việc Bác sau khi vượt qua cảnh tù đày, chính là ngày cách mạng rực sáng, tương lai còn tươi sáng phía trước. Có thể nói rằng “hồng” còn chính là đại diện cho màu của lý tưởng cách mạng trong người chiến sĩ, ấm nóng, tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng vượt qua nghịch cảnh tối tăm để vụt sáng. Ấy chính là chất thép ẩn hiện trong thơ Hồ Chí Minh, tinh tế và nhiều ý vị.
Chiều tối là một trong những tứ thơ hay nhất của Hồ Chí Minh khi có sự hòa quyện đan xen giữa nét cổ điện và hiện đại, tư duy thơ sâu sắc và tinh tế khi lời thơ ngắn gọn xúc tích, nhưng ý thơ phong phú và nhiều trường phát triển. Ở Chiều tối, bên cạnh vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, yêu đời, sống hòa hợp với thiên nhiên, ta còn thấy được vẻ đẹp tấm lòng của vị lãnh tụ vĩ đại khi luôn hướng về cuộc sống của nhân dân lao động, trái tim ấm áp luôn có chất thép ngầm mạnh mẽ, vững vàng và tuyệt đối kiên trung với lý tưởng cách mạng sáng ngời. Trở thành động lực to lớn cho người chiến sĩ bước tiếp con đường giải phóng dân tộc nhiều vẻ vang, nhưng cũng lắm gian lao sau này.
2. Phân tích bài Chiều tối của Hồ Chí Minh, mẫu số 2 (Chuẩn)
Nhận xét về tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã viết: “Quy luật thống nhất giữa cách mạng và thơ ca chân chính đã khiến cho Bác Hồ trong khi đào luyện mình thành một chiến sĩ cách mạng vĩ đại đã cùng lúc, ngoài ý muốn của Người, tự chuẩn bị cho mình những điều kiện để trở thành một nhà thơ lớn”. Đây là tập thơ bằng chữ Hán được Bác viết trong thời kì bị chính quyền Tưởng giới Thạch bắt giam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của tập thơ này là bài thơ “Chiều tối”.
“Chiều tối” được sáng tác trong hoàn cảnh Người bị giải đi từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào thời gian cuối mùa thu năm 1942. Khó khăn, thử thách không thể làm chùn bước chân của người chiến sĩ. Bác làm thơ để “ngâm ngợi cho khuây” và cũng là để đợi đến ngày được tự do. Những vần thơ của Người không chỉ “mênh mông bát ngát tình” (Hoàng Trung Thông) mà đó còn là những vần thơ thép, thể hiện một tinh thần thép.
Chỉ bằng bút pháp gợi tả và đôi nét chấm phá của Đường thi, Hồ Chí Minh đã khắc họa lại bức tranh thiên nhiên trên đường chuyển lao qua hai câu đầu của bài thơ:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Chiều tối là khoảng thời gian những chú chim sải cánh bay đi tìm chốn ngủ cho mình sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi. Cánh chim bay trong buổi hoàng hôn gợi lên sự nhỏ bé giữa một không gian rộng lớn của cả cánh rừng. Ta có thể bắt gặp hình ảnh quen thuộc này trong thơ ca truyền thống như câu ca dao: “Chim bay về núi tối rồi” hay trong câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”
(Cảnh chiều hôm)
Chiều tà đã buông xuống khép lại một ngày dài để nhường chỗ cho màn đêm và bóng tối ngự trị. Đó là thời gian vạn vật quây quần bên nhau nhưng cũng là thời gian gợi nỗi buồn. Những chú chim đã tìm được nơi chốn để dưỡng sức còn người tù thì không thể tránh khỏi cảm giác chạnh lòng. Bác khao khát có một chốn dừng chân để nghỉ ngơi. Mệt mỏi, cô đơn là vậy nhưng người chiến sĩ cách mạng vĩ đại ấy không hề kêu than. Bác đối mặt với hoàn cảnh bằng một ý chí và nghị lực phi thường.
Giữa không gian bao la ấy còn có sự góp mặt của những chòm mây trôi lững lờ, cô đơn, lẻ loi. So với nguyên tác thì bản dịch đã dịch thiếu chữ “cô” làm ý thơ không diễn đạt được sự đơn lẻ của chòm mây trên tầng không. Không chỉ có cánh chim mà cả chòm mây cũng mang cảm giác cô độc. Phải là một con người có tình yêu thiên nhiên và lòng yêu đời tha thiết thì Bác Hồ mới thấy được cái hồn của cảnh vật.
Bức tranh thiên nhiên núi rừng buổi chiều tà được gợi tả qua một vài chi tiết nổi bật đã làm hiện lên một tâm hồn thi sĩ. Tâm hồn ấy giao hòa và cảm thông với vạn vật bởi giữa vạn vật và bản thân người thi sĩ có sự tương đồng. Tay chân bị xiềng xích, gông cùm kìm kẹp nhưng Hồ Chí Minh vẫn giữ cho mình phong thái ung dung, đĩnh đạc. Nếu không phải là một người có tinh thần thép kiên cường và một tinh thần lạc quan thì có lẽ Người đã không hướng hồn mình ra thế giới bên ngoài để ngắm nhìn, cảm nhận chúng. Ta có thể dễ dàng nhận thấy những thi liệu thơ Đường được sử dụng trong hai câu thơ: Thời gian chiều tối, hình ảnh cánh chim, chòm mây, những thi liệu cổ này đều gợi một nỗi buồn hiu hắt, quạnh vắng cho cả chính chủ thể trữ tình và người đọc. Đồng thời những hình ảnh ước lệ đó cũng diễn tả sự vận động tinh tế của thời gian, cảnh vật khi chiều tà buông xuống nơi đất khách.
Nếu hai câu thơ đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên núi rừng thì hai câu thơ sau miêu tả khung cảnh sinh hoạt của cuộc sống con người:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Dấu hiệu của cuộc sống con người đã xuất hiện đẩy lùi đi nỗi buồn của người tù. Con người là chủ thể, trung tâm của bức tranh sinh hoạt này. Bác đã có cái nhìn từ bao quát toàn cảnh đến chi tiết, từ xa đến gần, từ bầu trời xuống mặt đất để thấy được cuộc sống con người xóm núi. Vòng quay của cối xay ngô cứ lặp đi lặp lại đều đều qua từ ngữ “ma bao túc”, “bao túc ma hoàn” cho thấy những vòng quay cứ nối tiếp nhau diễn tả cuộc sống lao động vất vả, cực nhọc của con người. Biện pháp nghệ thuật điệp liên hoàn đầu cuối này cũng thể hiện sự tuần hoàn của thời gian, vũ trụ. Người thiếu nữ nơi rừng núi đang làm công việc xay ngô trở thành tâm điểm mà Bác hướng tới. Nếu thơ ca xưa lấy thiên nhiên làm chủ thể thì trong thơ Bác, con người là chủ thể. Hình ảnh cô gái miền sơn cước đang chuẩn bị bữa tối cho gia đình bên bếp lửa là một hình ảnh đẹp và toát lên vẻ khỏe khoắn của cô sơn nữ. Cuộc sống lao động, mưu sinh của con người thật đáng trân trọng.
Thời gian lúc này đã chuyển hẳn sang tối, tuy ở bản phiên âm không có một chữ “tối” nhưng người đọc đều có thể nhận ra trời đã tối hẳn bởi nhìn thấy lò than “rực hồng”. “Hồng” là nhãn tự, là điểm bừng sáng của bài thơ, hình tượng thơ có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui, từ lụi tàn đến sự sống, từ cô đơn đến sum vầy, quây quần. Hình ảnh lò than “rực hồng” là hình ảnh giản dị nhưng hàm chứa đầy ý nghĩa. Nó gợi nên bao sự ấm áp, xua tan đi sự lạnh lẽo của núi rừng và nỗi cô đơn của con người. Lò than ấy cũng thắp sáng lên một niềm tin cách mạng mãnh liệt, cách mạng nhất định sẽ thắng lợi.
Nhà tù Tưởng Giới Thạch không làm khô cằn được tâm hồn của Bác. Ngay cả khi bị đày đọa về thể xác, Bác vẫn hướng tâm hồn mình ra ngoại giới để hòa hợp, cảm thông với tạo vật và con người. Người đã quên đi nỗi cực khổ của mình để vui với niềm vui nho nhỏ, bình dị của người dân lao động. Vẻ đẹp của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng bừng sáng. Bài thơ đã thể hiện chủ nghĩa lạc quan cách mạng vô cũng mãnh liệt, mạch thơ và hình tượng thơ luôn vận động hướng về sự sống và ánh sáng. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của phong cách thơ Hồ Chí Minh. Ngoài ra, sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại cũng góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công của tác phẩm.
“Chiều tối” cho thấy tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng và tâm hồn của người thi sĩ đã quyện hòa làm một. Mỗi vần thơ của Bác đều mang chất thép, một chất thép được toát ra từ tư tưởng của người chiến sĩ vĩ đại. Chẳng vậy mà nhà thơ Tố Hữu đã viết về Bác với những câu thơ chứa chan cảm xúc:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
(Theo chân Bác)
3. Phân tích bài Chiều tối của Hồ Chí Minh, mẫu số 3 (Chuẩn)
“Bác Hồ, Người là tình yêu thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại”. Trong cuộc sống đời thường, Bác giản dị với nếp sống thanh cao. Trong công việc, Bác là người nghiêm túc và chu toàn. Đến với thơ ca, tâm hồn và vẻ đẹp của Bác được thể hiện rõ nét qua những vần thơ với sức truyền cảm mạnh mẽ .
“Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
Thơ Bác đâu chỉ hãy thôi mà còn đẹp nữa, đẹp bởi chính hồn thơ, bởi chính tinh thần “thép” trong thơ và bởi chính tình ý của thơ. Chiều tối là một bài thơ tiêu biểu cho thơ Bác, thể hiện rõ sự kết hợp giữa nét cổ điển và tinh thần hiện đại, một tác phẩm thành công của nền văn học nước nhà.
Bài thơ chiều tối được sáng tác vào năm 1943, trong khoảng thời gian Bác bị chính sách quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, chịu nhiều đày ải, khi chuyển từ nhà giam Tĩnh Tây đến nhà giam Thiên Bảo, lấy cảm hứng từ buổi chiều chuyển lao. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, tứ thơ độc đáo, vận động một cách tài tình. Người tù đang bị áp giải giữa núi rừng bạt ngàn, chiều dần buông xuống khiến lòng người thấp thoáng nỗi buồn chơi vơi. Có lẽ, trong các khoảng khắc thời gian của một ngày, thì buổi chiều là lúc con người chất chứa nhiều tâm trạng và nỗi lòng nhất, cũng bởi vậy mà trong thơ cổ thường dùng cánh chim chiều hoàng hôn để gợi nỗi buồn.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Cảnh được gợi lên bằng bút pháp ước lệ tượng trưng quen thuộc trong thơ xưa, cánh chim mòn mỏi chiều tà gợi sự xót xa, thương cảm.”Cô vân mạn mạn”, giữa vô vàn chòm mây trên bầu trời thì có một chòm mây lại cô độc, đơn lẻ giữa khoảng không. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho người tù bị lưu đày nơi đất khách quê người, dường như giữa cảnh vật và con người có sự đồng điệu, cảm thông, hoà quyện giữa hồn và cảnh. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, cảnh vật thể hiện tâm trạng, có chút gì đấy lẻ loi, mủi lòng sâu thẳm nơi đáy lòng người chiến sĩ. Hai câu thơ mang phong vị Đường thi nhưng vẫn chất chứa nét riêng trong thơ Bác.Thiên nhiên phảng phất nét buồn nhưng không bi lụy. Mỏi mệt thì nghỉ ngơi để rồi ngày mai lại bắt đầu cuộc hành trình mới, một cuộc sống mới. Đó là sự nỗ lực, là tâm hồn hướng tới sự sống, khát khao thoát khỏi những tù túng, vươn tới tự do như cánh chim ngang trời, nhẹ nhàng mà an nhiên.
Bài văn Phân tích bài thơ Chiều tối ngắn gọn
Nếu hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên cao rộng thì dòng cảm xúc hai câu cuối là bức tranh sinh hoạt đời thường
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”
Hình ảnh người con gái được thể hiện nhiều trong thơ ca, nếu trong văn học trung đại, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng yếu đuối và số phận đầy long đong, lận đận, chìm nổi,trong thơ lãng mạn họ phảng phất nét buồn thì trong thơ Bác đó là con người giản dị, bình thường, công việc tuy vất vả nhưng đáng yêu và đáng trân trọng. Hình ảnh”cô em” nổi bật trước thiên nhiên, con người đang làm chủ cuộc sống, trẻ trung và đầy khoẻ khoắn, làm việc hăng say thật đáng quý biết bao. Bức tranh thiên nhiên hoà quyện hình ảnh con người dường như càng sinh động, ấm áp hơn. “Ma bao túc….bao túc ma hoàn”, sự sáng tạo trong điệp ngữ vòng tạo nên sự nhịp nhàng trong vòng quay của công việc. Không gian từ trời đất cao rộng, bao la dần thu hẹp lại bên không gian sinh hoạt gia đình-bếp lửa “Xay hết lò than đã rực hồng” . Chỉ bằng một từ “hồng”, được coi là nhãn tự bài thơ cùng bút pháp điểm xuyết khiến cho bao nhiêu cảm xúc ý tứ dường như được dồn nén, chất chứa bấy lâu được bung toả. “Hồng” – đó là ánh sáng của niềm tin, hy vọng, là ngọn lửa của ánh sáng xua tan bầu trời đêm, là ngọn lửa của hơi ấm xua tan đi lạnh lẽo, cô độc, là ngọn lửa của niềm vui, niềm lạc quan của tan nỗi buồn, mệt nhọc của thực tại. Tâm hồn thi sĩ giờ đây chất chứa tình yêu, niềm thương mến hướng về đất nước, về mong ước ngày dân tộc hoà bình, thứ ánh sáng ấy to lớn và cao đẹp biết nhường nào. Bác vẫn như thế, dẫu thực tại có gian khổ đến đâu, Người vẫn luôn hướng về thiên nhiên, vẫn đau đáu nỗi lo cho cuộc sống ấm no của dân tộc.
Bằng biện pháp kết hợp hài hoà hình ảnh cổ điển và tinh thần hiện đại, cách diễn đạt cô đọng mà hàm súc, cảm xúc dồn nén vào bên trong ý tưởng. Bút pháp gợi với những hình ảnh quen thuộc bình dị mà giàu cảm xúc, bài thơ Chiều tối đã thể hiện được tâm hồn Bác, con người dù trong đau khổ trong xiềng xích vẫn vững niềm tin phía trước, vẫn giữ tinh thần thép trong cuộc sống. Đồng thời thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước và ý chí sắt đá của người chiến sĩ. Đồng thời, bài thơ cũng minh chứng cho nét độc đáo trong phong cách thơ Bác như một nhà thơ từng nhận định rằng “Thơ Bác đi từ ngôn ngữ đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng, tương lai”.
4. Phân tích bài Chiều tối, mẫu số 4 (Chuẩn)
Trong tập Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại, giữa tâm hồn của người chiến sĩ và thi sĩ luôn luôn được thể hiện một cách tinh tế, sâu sắc và thấm thía qua nhiều thi phẩm. Nhưng tiêu biểu và độc đáo nhất có lẽ vẫn là ở tứ thơ Chiều tối, đây là bài thơ có vị trí rất quan trọng trong toàn bộ tập thơ Nhật ký trong tù, là một phần quan trọng trong bức tranh chân dung tự họa của Hồ Chí Minh, thể được cái tinh thần lạc quan, luôn hướng về sự sống dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào khắc nghiệt đi chăng nữa.
Chiều tối (Mộ) là bài thơ số 31 trong 134 bài thơ của tập Nhật ký trong tù. Được sáng tác vào cuối thu năm 1942, khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo (Trung Quốc). Chiều tối là nỗi lòng của Hồ Chí Minh trong một lần chuyển ngục nhân cảnh trời chuyển tối. Bài thơ được viết bằng chữ Hán, thuộc thể thơ tứ tuyệt, tiêu biểu cho thơ trữ tình của Hồ Chí Minh. Nhà thơ không trực tiếp bộc lộ những cảm xúc nội tâm mà thông qua cách cảm nhận hình ảnh và cảnh vật để bày tỏ tình cảm của mình.
Hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên núi rừng vào lúc chiều tối:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Bài thơ viết về một thi đề hết sức cổ điển và quen thuộc đó là cảnh chiều tối, đã từng xuất hiện nhiều trong thi ca từ xưa đến nay, ví như cảnh “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà” trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hay trong câu “Nhật mộ yên quang hà xứ thị?/Yên ba giang thượng sử nhân sầu” trong Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Cùng với thi đề cổ điển, trong bài còn xuất hiện các thi liệu cổ điển, cũng thường xuất hiện trong nhiều bài thơ, đó là hình ảnh cánh chim, góc rừng, gốc cây cổ thụ, đám mây, bầu trời, xóm núi nghèo, … Những thi liệu ấy có thể coi là chút hương xưa của đất nước, là nỗi niềm hoài cổ của Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn trân trọng và lưu giữ trong thơ mình, đó còn là những sợi dây nối cánh diều thơ của Bác với cội nguồn thi ca truyền thống.
Tuy mang trong mình nhiều nét cổ điển truyền thống, nhưng thơ của Bác vẫn mang hơi hướng hiện đại, tinh thần thời đại rất sâu sắc. Câu “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”, ở đây cánh chim của Bác không phải là cánh chim lạc lõng, không định hướng trong thơ cổ, mà là một cánh chim mỏi mệt sao ngày dài vất vả cực nhọc kiếm ăn, nay tìm về rừng tìm chỗ trú ngụ. Từ đó, ta liên tưởng đến cảnh ngộ thực tế của Bác, Bác bị áp giải, phải đi một chặng đường dài băng rừng vượt suối, nên cũng như cánh chim kia Bác mong muốn được dừng chân nghỉ ngơi, để xua tan đi cái mệt đang hành hạ, đó là chất hiện đại trong thơ. Hình ảnh chòm mây trôi lững lờ trên tầng không, thể hiện được cái phong thái ung dung, tản mạn, tự do của tâm hồn người thi sĩ tương tự với nhiều cách diễn đạt cổ điển, nhưng cũng lại mang nét hiện đại, điều đó đối chiếu vào tâm trạng người tù lúc này đây. Hình ảnh đám mây lạc lõng, chính là tâm trạng cô đơn, lẻ loi của nhà thơ trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ nơi xứ người. Tổng hòa lại, hai câu thơ đầu nói lên nỗi mệt mỏi, cô đơn, mất phương hướng và kèm theo đó là lòng yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả, thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình để truyền đạt cảm xúc.
Hai câu thơ tiếp, Chiều tối không còn là bức tranh thiên nhiên chỉ có cảnh vật nữa, mà ở đây là bức tranh cuộc sống, sinh hoạt, có sự sống của con người, hơi ấm tình thương đã bắt đầu xuất hiện.
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng”
Ở đây có sự vận động, dịch chuyển của thời gian rất rõ nét, từ chiều tối sang tối hẳn, từ khung cảnh thiên nhiên mang tính ước lệ đã chuyển sang bức tranh đời sống rất gần gũi và chân thực, từ không gian rừng núi lạnh lẽo sang không gian làng xóm ấm áp. Hình ảnh con người – trung tâm của bức tranh là thiếu nữ xóm núi đang xay ngô, tỏa sáng lấp lánh ba vẻ đẹp. Đầu tiên là vẻ đẹp của tuổi trẻ căng tràn sức sống, vẻ đẹp của công việc lao động đời thường bình dị. Nếu khi xưa hình ảnh người thiếu nữ thường gắn liền với chốn khuê phòng, trướng rủ màn che, là phận liễu yếu đào tơ, thì trong thơ Bác hình ảnh thiếu nữ lại hiện lên thật khác thật mới, cô gái bên cối xay ngô, làm một công việc lao động tay chân khỏe khoắn, bừng lên vẻ đẹp của sức mạnh tuổi trẻ, chạy đua với thời gian, xay cho kịp trước khi trời tối. Cuối cùng là vẻ đẹp của mối quan hệ mỹ học mới mẻ giữa con người với thiên nhiên, so sánh với thơ xưa, con người thường xuất hiện thật nhỏ bé, mất tăm mất hút giữa thiên nhiên, thường mang nỗi sầu muộn trước thiên nhiên, gửi gắm vào thiên nhiên. Nhưng trong thơ Bác, con người xuất hiện giữa thiên nhiên, với vị trí trung tâm nhất, nổi bật lên hẳn so với thiên nhiên, con người và thiên nhiên giao hòa với nhau.
Hình ảnh sự sống ở hai câu thơ được kết hợp giữa hai nét vẽ cổ điển và hiện đại. Đầu tiên nét vẽ cổ điển thể hiện ở việc Bác đã dùng bút pháp lấy cái sáng để tả cảnh tối, vốn là một loại bút pháp rất cổ điển của thơ ca phương Đông. Lấy hình ảnh “lò than đã rực hồng”, lấy cái màu hồng rực để làm nổi bật lên sự chuyển đổi của thời gian, trời đã tối hẳn thế nên lò than mới sáng rực lên như thế. Nét vẽ cổ điển ấy lại được đan xen, trộn lẫn giữa những nét vẽ hiện đại, mà tựu chung lại chỉ ở một chữ “hồng” nơi cuối bài. Nếu như tất thảy 27 chữ đầu đều chỉ tập trung nói về cảnh chiều, mang cái không khí lạnh lẽo, thì buổi tối với cái màu “hồng” của lò than đã đem lại một cảm giác ấm áp của lò than, của tình người. Chuyển đổi từ cảm giác cô đơn, mỏi mệt sang cảm giác sum vầy của bếp lửa gia đình, từ nỗi buồn phảng phất chuyển sang niềm vui tỏa sáng. Cũng chính là sự vận động từ tối sang sáng, là nhân sinh quan rất tích cực của người chiến sĩ cách mạng, thể hiện sự lạc quan, tin tưởng và cuộc sống. Dù trong những tháng ngày khổ lao, mòn mỏi, trong sự hoang mang vì không biết sẽ bị giam giữ đến bao giờ nhưng Hồ Chí Minh vẫn rất lạc quan, quan sát vẻ đẹp của thiên nhiên và quan tâm đến cuộc sống của người dân Trung Quốc, thể hiện tư cách của một vĩ nhân, một con người luôn có tình thương yêu với nhân dân dù là quốc gia nào đi chăng nữa.
Qua bài thơ Chiều tối, từ bức tranh thiên nhiên, từ bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người, ta thấy nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh. Đó là một tâm hồn luôn luôn hướng về sự sống và ánh sáng dù trong bất cứ tình huống nào, chủ nghĩa lạc quan luôn luôn gắn liền với lòng nhân ái và tình yêu thiên nhiên tha thiết của người chiến sĩ đồng thời cũng là một thi sĩ xuất sắc. Về nghệ thuật, bút pháp gợi tả thiên nhiên tinh tế và giản dị, kết hợp với bút pháp tả cảnh ngụ tình, có sự kết hợp rất nhuần nhuyễn giữa tính cổ điển và hiện đại trong từng vần thơ, từng hình ảnh thơ, tất cả đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc mang dấu ấn đậm nét của vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh.
5. Phân tích bài Chiều tối, mẫu số 5 (Chuẩn):
Chủ tịch Hồ Chí Minh – không chỉ là một người con vĩ đại của dân tộc mà khi nhắc đến cái tên ấy trong lòng mỗi người đều có những cảm xúc riêng. Bác không chỉ là một nhà chính trị tài ba lỗi lạc, một vị cha già giàu lòng nhân ái, yêu thương mà Bác còn nhà một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Tố Hữu từng viết:
“Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
Thật vậy, thơ Bác là sự kết tinh tình cảm của một trái tim lớn thiết tha với dân tộc. Bài thơ “Chiều tối” là một bài thơ như thế, tiêu biểu cho phong cách thơ của Người.
Phải đặt bài thơ trong hoàn cảnh khi Bác đang bị bắt và giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo mới thấy được hết giá trị của nó.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây lơ lửng giữa tầng không”
Những buổi hoàng hôn thường mang dư vị buồn, bởi vậy, những con người xa quê mang nỗi nhớ da diết khi chiều tối lại càng thêm nhớ thêm thương. Cánh chim trên bầu trời kia sau ngày dài kiếm ăn mỏi mệt, bay nặng nề trên không trung về tổ ấm của mình để nghỉ ngơi. Chòm mây cũng nhỏ bé vô định giữa khoảng không bao la rợn ngợp. Chòm mây lơ lửng trôi nhẹ nhàng, bình yên đến vậy mà sao gợi nỗi buồn mênh mang. Phải chăng thiên nhiên ấy đang chất chứa nỗi lòng của người tù cách mạng đang một mình đơn độc giữa núi rừng bạt ngàn nơi đây, lấy cánh chim với đám mây kia làm người bạn tâm giao gửi gắm nỗi lòng. Thiên nhiên dường như mang hồn cốt nỗi lòng của thi nhân, có khi cũng mỏi mệt đó nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là khát khao trở lại quê hương như cánh chim kia tự do bay về tổ ấm của mình sau hành trình dài mỏi mệt.
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Nếu hai câu trên là khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, cô đơn, lẻ loi, thì hai câu cuối mang dáng dấp của sự sống con người. Bức tranh ấy được trọn vẹn và sống động hơn bao giờ hết. Cảnh vật và con người hoà quyện vào nhau. Giữa núi rừng ấy là hình ảnh người con gái xay ngô tối đầy tập trung, siêng năng, miệt mài. Bên ánh lửa giữa bầu trời đêm, cô gái hăng say làm việc. Một bức tranh sinh hoạt bình dị, đời thường mà khoẻ khoắn, gợi nét sinh động trong đời sống nhân dân. Giữa thiên nhiên bao la, cô em trở nên nổi bật và hấp dẫn lạ thường. Phải chăng đó là niềm mong ước của Bác gửi gắm vào những vần thơ về niềm tin vào một ngày đất nước hoà bình, nhân dân được bình yên, tự do lao động, tăng giá sản xuất chẳng còn nỗi lo mất nước.
“Xay hết lò than đã rực hồng”
Chữ “hồng” trở thành nhãn tự của bài thơ, chỉ một từ thôi mà nó chất chứa bao nhiêu ý nghĩa. Ánh than hồng xua tan đi màn đêm giá lạnh, xua tan nỗi cô độc của người tù nhân chốn xa xôi. Ánh than hồng là ánh sáng của cách mạng, là niềm tin vào tương lai, ánh than hồng chất chứa niềm hy vọng, sưởi ấm, thắp lên ngọn lửa tin yêu, lòng yêu nước thiết tha, hướng về sự sống, về ngày mai tốt đẹp. Ánh than hồng thật ấm áp, thân thương như tấm lòng Bác vậy.
Bài thơ chỉ bốn câu thôi mà sao nhiều ý vị đến vậy. Từ trong gông cùm, trong đau thương nhọc nhằn, Bác vẫn không hề bi quan, chán nản mà trái lại rất lạc quan, luôn hướng đến niềm vui, hướng đến sự sống với bao hy vọng. Bác không ngại vất vả gian nan, quên đi đau khổ của thực tại mà viết nên những vần thơ quá đỗi đẹp đẽ và thương yêu.
Nếu trong văn chính luận, văn phong Bác sắc sảo, chắc chắn, giàu sức thuyết phục với những lý lẽ chính xác, khách quan thì trong thơ Bác lay động lòng người bởi sự bình dị mà sâu sắc. Sự kết hợp vô cùng nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cổ điển và nét hiện đại giúp thơ Bác mang một phong cách riêng, độc đáo, tài hoa. Đọc bài thơ “Chiều tối”, em càng thêm khâm phục Bác, càng trân quý tự do và hoà bình hôm nay. Và tự hứa với lòng, dù trong khó khăn thử thách của cuộc sống vẫn không nản chí, giữ vững tinh thần lạc quan và niềm tin tất thắng ngày ngày phấn đấu nỗ lực hơn để xứng đáng là thế hệ trẻ bản lĩnh, tài năng như cách sống của Người.
Chiều tối là bài thơ đặc sắc trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh ghi lại cảnh thiên nhiên và con người mà Người bắt gặp trên đường chuyển tù từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Khám phá bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống cũng như tinh thần lạc quan ngời sáng của Bác, các em có thể tham khảo thêm: Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ Chiều Tối, Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong Chiều tối và Từ ấy, Bình giảng bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh, Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp