Đề bài: Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối được Thạch Lam miêu tả trong truyện ngắn Hai đứa trẻ và phát biểu cảm nhận của mình
Dàn ý, bài văn mẫu phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối được Thạch Lam miêu tả trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
I. Dàn ý Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện Hai đứa trẻ (Chuẩn)
1. Mở bài
– Đi từ lí luận văn học
– Giới thiệu tác giả tác phẩm: “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam
– Giới thiệu vấn đề cần phân tích: Bức tranh cuộc sống phố huyện nghèo khi chiều buông xuống
2. Thân bài:
* Khái quát chung:
– Hoàn cảnh ra đời tác phẩm: khi tác giả sống ở quê ngoại Cẩm Giàng đã có cơ hội quan sát, thấu hiểu con người nơi đây.
– Xuất xứ: in trong tập: “Nắng trong vườn”
* Phân tích, cảm nhận:
a. Bức tranh cuộc sống phố huyện khi chiều tàn
– Chợ chiều: hình ảnh + mùi vị:
+ vãn từ lâu, người về hết, tiếng ồn ào cũng mất
+ mùi âm ẩm bốc lên
+ chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi,…
– Con người:
+ mẹ con chị Tí
+ chị em Liên
+ những đứa trẻ
→ Nghèo khổ, đơn điệu, thưa thớt, lẻ loi
+ Bà cụ Thi điên: nghiện rượu, tiếng cười khanh khách…
→ Tiêu biểu cho kiếp người tàn
⇒ Bức tranh tiêu điều, mỗi người một cảnh nhưng đều giống nhau ở cái nghèo, mệt mỏi, buồn chán
b. Bức tranh cuộc sống phố huyện khi đêm về:
– Tượng trưng: kiếp người sống chìm khuất
“ Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng hơn”
– Nhịp sống, cuộc sống:
+ Mẹ con chị Tí
+ Bác Siêu
+ Gia đình bác Xẩm: chủ yếu sống bằng sự thương hại của người đời
+ Chị em Liên: ngồi chõng, tính tiền hàng,…
→ Nghèo nàn, nhưng cũng đáng trọng và vẫn có niềm khao khát
c. Bức tranh cuộc sống phố huyện khi chuyến tàu đêm đi qua:
Ý nghĩa:
– Là hoạt động cuối cùng của đêm, mạnh mẽ, sôi động, xóa đi sự tịch mịch của phố huyện dù chỉ trong chốc lát.
– Ánh sáng đoàn tàu xóa đi sự mờ ảo, lẻ loi ở phố huyện.
– Chính chuyến tàu đi qua mà Liên thấy rõ hơn sự ngưng đọng, tù túng của cuộc sống đầy bóng tối nghèo nàn của cuộc đời mình và mọi người xung quanh.
* Đánh giá
– Nghệ thuật, nội dung tác phẩm: sử dụng bút phát lãng mạn, thủ pháp tương phản → bức tranh cuộc sống phố huyện
3. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị tác phẩm
– Mở rộng: lí luận văn học.
II. Bài văn mẫu Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện Hai đứa trẻ
1. Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong Hai đứa trẻ, mẫu số 1 (Chuẩn):
Có một nhà văn đã từng khẳng định: “Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác.” Thật vậy, mỗi người nghệ sĩ khi đứng trên văn đàn văn học cần phải có một phong cách riêng, một “giọng nói riêng” hay một “đôi mắt” khác người thì tác phẩm của họ mới để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả. “Một khi phong cách trở thành máu thịt của nhà văn sẽ tạo nên sắc điệu thẩm mĩ riêng biệt, không thể trộn lẫn với bất kỳ ai”. Và Thạch Lam đã hoàn thành xuất sắc thiên chức của mình. Ở “Hai đứa trẻ”, ông tạo cho người đọc một cảm giác khác lạ, hoàn toàn không giống với những tác phẩm cùng thời ông. Đặc biệt ông phát hiện bức tranh đời sống phố huyện nghèo khi chiều buông xuống.
Đến với “Hai đứa trẻ” chắc ai cũng không khỏi tò mò tại sao một nhà văn lại có thể len lỏi vào giữa những phố huyện nghèo như vậy mà tìm hiểu cặn kẽ? Câu trả lời thật dễ dàng khi ta nhìn lại tiểu sử của ông: thuở nhỏ Thạch Lam sống ở quê ngoại thuộc phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương… Có lẽ chính trong khoảng thời gian này đã giúp Thạch Lam thấu hiểu và đồng cảm với con người và nhịp sống nơi đây. Ở đó không chỉ là bức tranh thiên nhiên với cảnh vật u ám, tiêu điều mà còn là bức tranh cuộc sống nơi phố huyện nghèo khổ, mệt mỏi… Bên cạnh đó, in trong tập ”Nắng trong vườn”, “ Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm mang sự hòa quyện của hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình.
Trước hết là bức tranh cuộc sống phố huyện nghèo lúc chiều tà. Hình ảnh chợ chiều nghèo nàn, xơ xác “chợ họp giữa phố vãn từ lâu”. Mọi người trong phiên chợ cũng đã về hết và không còn tiếng ồn ào. Chỉ còn lại là “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Đặc biệt là mùi vị nơi đây, một mùi vị đặc trưng mà không pha lẫn được với vùng miền nào: “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Hình ảnh con người cũng được phác họa nhưng nghèo khổ, thưa thớt và đơn điệu. Đó là những đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi trên mặt đất, “nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được”; đó là chị em Liên; là mẹ con chị Tí… Đặc biệt là bà cụ Thi điên nghiện rượu, tiếng cười khanh khách. Hình ảnh cụ “đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng” khiến cho ta liên tưởng đến một sự quẩn quanh và không lối thoát. Cụ Thi chính là đại diện cho một kiếp người tàn, những con người đáng thương nhất. Như vậy, bằng vài nét phác họa Thạch Lam đã cho độc giả thấy được một bức tranh đời sống phố huyện nghèo khổ, tiêu điều, mỗi người một cảnh nhưng đều giống nhau ở cái nghèo, sự mệt mỏi và buồn chán. Ngoài ra, tác giả còn thể hiện cảm xúc của mình qua tâm trạng Liên “Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó”. Đây chính là tình người, lòng trắc ẩn của một con người. Hay qua lời hỏi thăm, lo lắng của Liên với mẹ con chị Tí cho ta thấy được sự quan tâm, động viên, hỏi han của những con người cùng khổ. Thực trong mọi hoàn cảnh, nhất là hoàn cảnh đáng thương chúng ta cần phải quan tâm chia sẻ lẫn nhau. Qua đây, tác giả cũng như đánh thức chúng ta về lòng trắc ẩn, về tâm hồn tinh tế, nhạy cảm…
Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong Hai đứa trẻ
Theo dòng thời gian, tiếp theo chính là bức tranh đời sống phố huyện khi đêm về. Đầu tiên là qua bút pháp tượng trưng ở cảnh vật và không gian phố huyện tác giả đã làm bật lên những kiếp người sống chìm khuất đồng thời cũng miêu tả cuộc sống con người tù đọng, tăm tối nhưng ở họ vẫn le lói những tia sáng “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Nhịp sống, cuộc sống nơi đây lúc nào cũng tẻ nhạt, đều đặn: mẹ con chị Tí ngày nào cũng dọn hàng “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”, bác Siêu gánh phở ra đầu làng rồi lại gánh về, gia đình bác Xẩm chủ yếu sống bằng sự thương hại của người đời; chị em Liên hôm nào cũng phải tính tiền hàng, ngồi chõng tre,… Cuộc sống lặp đi lặp lại thật tù túng và đơn điệu! Có thể thấy dù nghèo khó nhưng người ta vẫn lao đầu bằng những gì vốn có, chân chính nhất.
Cuối cùng chính là bức tranh phố huyện khi chuyến tàu đêm đi qua. Hình ảnh đoàn tàu đặc biệt được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ, kỹ lưỡng, theo đúng trình tự từ khi tàu sắp đến, tàu đến và cho đến khi tàu đi qua. Đoàn tàu đi qua như là hoạt động cuối cùng đêm mạnh mẽ, sôi động, phá toang đi sự tịch mịch của phố huyện. Hình ảnh này là thế giới khác hẳn thế giới ở phố huyện, giống như một con thoi xuyên thủng màn đêm, ánh sáng đoàn tàu có thể xóa đi những ánh sáng mờ ảo, lẻ loi nơi phố huyện. Âm thanh đoàn tàu mạnh mẽ đủ sức át bản hòa tấu đều đều, đơn điệu! Chị em Liên cũng vì chờ đợi chuyến tàu mà buồn ngủ nhưng vẫn gượng thức cho thấy sự mong mỏi, khát khao được chứng kiến hoạt động cuối chở đầy hy vọng ấy. Bên cạnh đó, chuyến tàu đi qua cũng là đánh thức thế giới kỷ niệm đẹp của một thời đã qua “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chị được hưởng những thức quà ngon, lạ – bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền – được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Chính chuyến tàu khơi gợi, dấy lên khát vọng, ước mơ về một thế giới, tương lai tốt đẹp hơn. Có thể nói, nhìn thấy đoàn tàu không chỉ thỏa mãn thị giác mà nó còn là tư tưởng của Liên, nó lấp đầy khoảng trống mênh mông trong tâm hồn chị em Liên bằng những hoài niệm và ước mơ. Chính chuyến tàu đêm này mà Liên thấy rõ hơn sự ngưng đọng, tù túng của cuộc sống đầy bóng tối nghèo nàn của cuộc đời mình và những người xung quanh. Như vậy, “Hai đứa trẻ” là bức tranh hiện thực của một thời đã qua, cuộc sống phố huyện chỉ sáng lên một khoảnh khắc. Bằng tài năng, bằng “con mắt” riêng của mình Thạch Lam đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh cuộc sống phố huyện từ khi chiều xuống.
Qua đó, bằng việc sử dụng bút pháp lãng mạn; các hình ảnh tương phản, đối lập tác giả đã làm nổi bật cuộc sống của phố huyện. Có thể nói, trang văn của Thạch Lam rất đẹp. Cái đẹp được tỏa ra từ hình ảnh gợi hình, gợi cảm; tình người với trái tim rất đỗi nhân hậu. Ngòi bút Thạch Lam , lời văn giàu bản sắc: nhẹ nhàng, khách quan, ẩn hiện lòng thương với những con người phố huyện, ông vẫn phát hiện ra khát vọng của họ.
“Hai đứa trẻ” là kết quả của quá trình sáng tạo và chắt lọc những tinh hoa cuộc sống, những xúc cảm thẩm mỹ của Thạch Lam. Khác với các nhà văn Tự lực văn đoàn, Thạch Lam quan niệm “Đối với tôi, văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Với ông, văn chương chân chính là văn chương phục vụ con người, vì con người mà cất lên tiếng nói, văn chương “vị nhân sinh” chứ không phải văn chương “vị nghệ thuật”. Có thể nói, “nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo”. Vì vậy “nó đòi hỏi phải có phong cách tức là phải có nét gì đó mới mẻ, riêng biệt thể hiện trong tác phẩm của mình”. Và Thạch Lam đã xuất sắc khi làm điều đó. Nhà văn đã mang tiếng nói riêng của mình để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người.
—————— Hết bài 1 ——————–
Bên cạnh nội dung đã học, để nắm vững kiến thức và học tốt môn Ngữ Văn 11, các em cần chuẩn bị bài học sắp tới với phần Phân tích tâm trạng của Chí Phèo khi bị Thị Nở từ chối chung sống, phân tích cảnh cho chữ, Soạn bài Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài hoặc phần phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương,…
2. Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”. Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân trong Tự lực văn đoàn, Nguyễn Tuân đã khẳng định mình thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm thắm trong những trang văn Thạch Lam.
Truyện của Thạch Lam không có chuyện, mỗi tác phẩm như một bài thơ văn xuôi, thấm đẫm chất trữ tình, man mác xót thương. Đó là loại truyện tâm tình nồng nàn ý vị. “Dưới bóng hoàng lan”, “Nhà mẹ Lê”, “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ” … là những truyện ngắn rất hay của Thạch Lam. Truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”, nhà xuất bản “Đời tay”, Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Thạch Lam, khai thác những mẫu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh đời nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm.
Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến lúc chuyến tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngắm nhìn cảnh vật và cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn ở nước ta những năm đầu thế kỉ XX mà Tú Xương có nói đến: “Phố phường tiếp giáp với bờ sông” … Cảnh một chiều hè muộn ở đồng quê. “phương Tây đỏ rực như trời cháy…”, “Một chiều êm ả như ru” có tiếng trống thu không, tiếng ếch nhảy kêu ran ngoài đồng. Màn đêm dần dần buông xuống, tiếng muỗi kêu vo ve trong các cửa hàng hơi tối. Cảm xúc của nhà văn như tràn ra câu chữ, biểu lộ một tấm lòng sâu nặng gắn bó với quê hương. Bức tranh quê hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của Thạch Lam trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị mà nên thơ.
Hướng dẫn Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong Hai đứa trẻ
Nhưng “Hai đứa trẻ” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết còn là bức tranh đời sống. Đó là bức tranh đời sống của phố huyện nghèo ngày xưa lúc chiếu tối và đêm xuống, được quan sát và cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ nhạy cảm của hai đứa trẻ – hai chị em Liên và An. Trước cái giờ khắc của ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy quá thuốc sơn đen, cô thấy “lòng buồn man mác”, đôi mắt “bóng tối ngập đầy dần” và cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa vào tâm hồn ngây thơ của cô. Trời nhá nhem tối, các nhà đã lên đèn: “Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách…”. Cát trên phố “lấp lánh từng chỗ”, đường “mấp mô thêm” trong cảnh tranh sáng tranh tối. Chợ “vãn từ lâu” là một cảnh buồn và xơ xác của bức tranh đời sông phố huyện nghèo lúc buổi chiều tối. Không một tiếng ồn ào, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, bã mía và rác rưởi còn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lom khom đi lại tìm tòi “nhặt thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chúng đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ. Thấy chúng nó, Liên động lòng thương nhưng chị cũng không có tiền mà cho chúng nó. Cái nghèo là cảnh đời chung cua mọi người, mọi nhà, và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là “mùi riêng của đất, của quê hương”. Đó chính là mùi vị của cái “Ao đời”, của lầm than và nghèo khó. Bóng tôi như phủ đầy thiên truyện, phủ mờ cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của những con người “bé nhỏ” nơi phố huyện nghèo xác xơ. Cửa hàng bé xíu phên nứa dán giấy nhật trình, chiếc chõng tre nơi chị em Liên ngập đầy bóng tối. Càng về đêm “đường phố và các ngõ con dán dần chứa đầy bóng tối”. Con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Tiếng trống cầm canh, tiếng ếch nhái kêu ran từ đồng xa vọng đến tiếng động khẽ của hoa bằng rụng xuống vai Liên, tiếng đòn gánh kĩu kịt của người bán quà rong, tiếng cười “giòn giã” của bà cụ Thi… tất cả mọi âm thanh ấy “chìm ngay vào bóng tối”. Phố huyện càng về đêm càng tịch mịch và đầy bóng tối.
Trong cảnh xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối hiện lên những mảnh đời lầm lũi, đáng thương. Cuộc đời mẹ con chị Tí như gắn liền với màn đêm bóng tối. “Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng và trong ngõ đi ra”. Mẹ của nó, chị Tí đi theo sau “đội cái chõng trẽn đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc…”. Ngày thì mò cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm” mà “chả kiếm được bao nhiêu!”. Hình ảnh hai mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái Hiên trong truyện “Gió lạnh đầu mùa” : mẹ thì mò cua bắt ốc, con thì áo rách phong phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh… Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ nghèo, những em bé nghèo khổ nhiều trắc ẩn, xót thương! Hình ảnh bà cụ Thi hơi điên “tiếng cười khanh khách”, tay cầm cút rượu soi lên rồi cười giòn giã, “vừa đi vừa ngửa cổ ra đằng sau”, dốc cút rượu uống một hơi cạn sạch, chép miệng “lảo đảo” trong bóng tối… cũng gợi cho ta nhiều thương xót về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện nghèo. Cảnh gia đình bác Xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật, ngồi trên manh chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt trắng, thằng con ngồi trên đất “nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Và bác bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được. Đòn gánh bác kêu “kĩu kịt”, bóng bác “mênh mang ngã xuống được một vùng…”. Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác, những kiếp sống lầm than, tàn tạ và cơ cực.
Có thể nói, hai chị em Liên là hình ảnh trung tâm của bức tranh đời sống của phố huyện nghèo. Cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quẽ, mẹ làm hàng xáo. Hai chị em được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, vách dán giấy nhật trình, bán lèo tèo vài bao diêm, dăm miếng xà phòng, một ít rượu. Liên là một cô gái mới lớn, biết làm dáng, cô hãnh diện với cái dây xà tích bạc ở thắt lưng. Từ ngày xa Hà Nội “một vùng sáng rực và lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá”. Liên quen dần với bóng tối nơi phố huyện nghèo. Ngọn đèn của Liên… “từng hột sáng lọt qua phên nứa”, đèn hoa kì leo lét trong căn nhà ông Cửu, quầng sáng ngọn đèn “lay động trên chõng hàng chị Tí” chấm lụa nhỏ và vàng “lơ lửng” nơi gánh phở bác Siêu… từ đêm này qua đêm khác. Liên vẫn ngồi trên chõng ngắm nhìn. Càng về khuya, “tâm hồn Liên yên tĩnh ăn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Đêm nào cũng vậy, An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng vẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Liên đón nhìn con tàu từ xa “ngọn lửa xanh biếc, nát mặt đất như ma trơi”, tiếng còi tàu vang lại kéo dài ra theo gió xa xôi đoàn tàu đến gần, vụt qua “các toa đèn sáng trưng”, rồi nó “đi vào đêm tối. để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”. Tàu đã chạy xa mà hai chị em Liên còn nhìn theo “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng…”. Với nhiều man mác bâng khuâng. Chuyến tàu đêm như một niềm an ui, mội nỗi khao khát mơ hồ, một ước mơ không bao giờ tắt, một chút tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày. Chuyến tàu đêm “như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Chờ tàu đến, nuối tiếc con tàu chạy qua. Rầm rộ lên chốc lát. lừng sáng lên khoảnh khắc, đế rồi sau đó, “tử phía ga, bóng đêm lồng với bóng người đi về”. Chuyến tàu đêm đã thành một biến cố trọng đại nơi phố huyện nghèo: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một điều gi tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.
Bức tranh đời sống phố huyện nghèo sau khi con tàu chạy vụt qua, đêm khuya dần càng trở nên yên tĩnh mênh mông. Chỉ có đêm khuya, “tiếng trống ấm canh và tiếng chó cắn”. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác xẩm đã ngủ gục trên mành chiếu. Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh “tịch mịch và đầy bóng tối” như đêm yên tĩnh trong phố hụyện nghèo. Cảnh phố huyện nghèo với những mảnh đời quanh quẩn và lầm than, nghèo khổ và tối tăm. Chị em Liên, mẹ con chị Tí, bà cụ Thi hơi điên, bác Siêu bán phở rong, vợ chồng bác xẩm héo hon, những phu gạo, phu xe ngồi hút thuốc ! Bấy nhiêu con người nhỏ bé đáng thương. Thạch Lam đã miêu tả cả phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người, những chi tiết rất chân thật và cảm động. Ông đã dành cho con người quê hương, những con người nghèo khổ, tăm tối một sự cảm thông và xót thương nồng hậu. Cảnh phố huyện nghèo vừa hiện thực vừa chứa chan tinh thần nhân đạo. Trong “Thay lời bạn” – Tuyển tập Thạch Lam, Nhà xuất bản Văn học, năm 1988, nhà văn Nguyễn Tuân viết: “Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về dĩ vãng, đồng thời cũng đóng lên một cái gì còn ở trong tương lai… Nơi thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín.
3. Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Thạch Lam, với giọng văn điềm tĩnh, sâu lắng, Hai đứa trẻ đã để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc. Câu chuyện miêu tả về bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối, nói lên cái nghèo khổ của người dân trong xã hội lúc bấy giờ. Tuy sống trong nghèo khổ nhưng họ luôn mơ ước có cuộc sống tươi đẹp hơn trong tương lai.
Một trong những nét đặc trưng của truyện Hai đứa trẻ là truyện ngắn không có cốt truyện. “Hai đứa trẻ” ngồi trên chiếc chõng nát trước cửa hàng của một phố huyện, ngắm cảnh phố xá lúc chiều muộn đi vào đêm; tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm đi qua, rồi mới khép cửa hàng đi ngủ… Với lối miêu tả chầm chậm, giản dị, không có những biến cố, nhưng Hai đứa trẻ không hề nhạt nhẽo, vô vị, mà trái lại, rất thấm thía, nhiều dư vị, dư vang. Câu chuyện bắt đầu với khung cảnh chiều muộn ở một miền quê nghèo, “một chiều êm ả như ru”. Rồi màn đêm dần dần buông xuống, “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoáng qua gió mát…”. Dưới ngòi bút tinh tế và nặng lòng gắn bó với quê hương của Thạch Lam, “bức tranh quê” ở đây rất bình dị mà rất đỗi thân thiết và nên thơ.
Thạch Lam đã vẽ lên bức tranh đời sống phố huyện qua cái nhìn, cái cẩm nhận của một tâm hồn ngây thơ bé nhỏ là bé Liên, đó là cách xây dựng truyện tinh tế, sắc sảo, để người đọc thấy được cuộc sống chân thực hơn, sống động hơn. Chính bức tranh đời sống vừa rất mực chân thực vừa thấm đượm cảm xúc trữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day dứt là cảm giác chủ yếu của người đọc sau khi gấp trang sách. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát lên từ bức tránh đời sống, phố huyện nghèo đó. Buổi chiều thường gợi cho người ta buồn và có nhiều suy tư, hai đứa trẻ đứng trước cảnh chiều tàn đó, cũng có những cảm nhận về cuộc sống xung quanh mình. Có cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ “đã vãn từ lâu”. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn càng phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện nghèo: “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Và cái mùi vị riêng rất quen thuộc mà chị em Liên có cảm tưởng là “mùi riêng của đất của quê hương này” – chính là mùi vị của nghèo khổ, lầm than: mùi âm ẩm bốc lên lẫn mùi cát bụi, rác rưởi… của cái chợ nghèo.
6 bài văn mẫu Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện Hai đứa trẻ
Hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác, của phố huyện hiện dần ra, trước khung cảnh của phố : “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi, nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”; mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng, xách diếu đóm ra dọn hàng, “ngày chị đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nước này (…) chị chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối đến nửa đêm”, nhưng “Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì!”; “gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”, “thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường…”. Và hai chị em Liên, với “cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở thì thầy Liên mất việc”. Rồi hình ảnh bà cụ Thi hơi điên, mua rượu uống và cười khanh khách, lảo đảo đi vào bóng tối… Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Tại cửa hàng nhà mình, với ánh đèn leo lét, Liên ngắm nhìn mọi vật xung quanh và cảm nhận về bức tranh đời sống tại phố huyện của mình. Khắp phố huyện lúc này chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, cái bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của Liên…, tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù. Những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện trở nên sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối càng thêm mịt mùng, dày đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” ấy trở đi trở lại tới 7 lần trong truyện, là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi leo lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời. Truyện kết thúc cũng với hình ảnh ngọn đèn tù mù của chị Tí đi vào giấc ngủ chập chờn của cô bé Liên.
Không phải chỉ có chiều tối hôm nay mọi vật mới diễn ra buồn như vậy, mà cảnh đó, diễn ra hàng ngày, nhưng hôm nay hai chị em Liên mới thể hiện cảm nhận của mình. Bởi vì chiều tối nào cũng vậy, mẹ con chị Tí lại lễ mễ dọn hàng; chị em Liên lại đếm những phong thuốc lào, những bánh xà phòng, tính tiền hàng và tối nào cũng “ngồi trên chõng tre dưới gốc bàng” để ngắm nhìn phong cảnh ngoài phố; tối nào bác phở Siêu cũng gánh hàng ra và thổi lửa, bác Xẩm cũng rải chiếu và bày cái thau sắt… Mọi người lại chờ đợi những điều mọi ngày họ vẫn chờ đợi: mấy chú lính trong huyện hay người nhà cụ thừa, cụ lục đi gọi người đánh tổ tôm rẽ vào uống nước, hút thuốc… Nhịp sống ấy cứ lặp đi lặp lại ngày này sang tháng khác, đơn điệu, uể oải, buồn tẻ. Nhưng biết làm sao được! Không phải những con người khốn khổ ấy không hi vọng – không hi vọng thì làm sao sống được? “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Có điều, sự mong đợi ấy thật tội nghiệp: “một cái gì tươi sáng” ấy là “một cái gì?” thật mơ hồ; và biết đến bao giờ nó mới đến?Tuy còn là một đứa trẻ ngây thơ, nhưng Liên đã hiểu được cuộc sống nơi đây thật là nghèo túng, em đã biết so sánh với cuộc sống đủ đầy nơi phố thị đông đúc. Điều đó thể hiện khát vọng với một cuộc sống tươi đẹp hơn trong tâm hồn đứa trẻ thơ ngây ấy. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng, mù tối ấy mà Liên đêm đêm cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm đi qua. Chuyến tàu đêm rầm rộ với “cái toa đèn sáng trưng” là hình ảnh cụ thể của “một cái gì tươi sáng” mà cô mong đợi. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.
Bức tranh về đời sống của phố huyện nghèo hiện lên trong con mắt của Liên thật chân thực. Thể hiện niềm cảm thông với những con người lao động nghèo khổ, họ không tìm cho mình được lối thoát, phải chịu cảnh nghèo khó triền miên, bế tắc, tác giả đã khắc họa lên hình ảnh phố huyện nghèo, miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ.
4. Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối truyện ngắn Hai đứa trẻ, mẫu số 4:
Trong Tự Lực văn đoàn, nhà văn Thạch Lam đứng thành một dòng riêng biệt. Nhất Linh với Khái Hưng còn có thể viết tiểu thuyết chung nhưng Thạch Lam thì không. Giọng điệu của Thạch Lam nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, sâu lắng, nhiều dư vị, có sức truyền cảm đặc biệt. Thạch Lam lại hướng về các nhân vật bé nhỏ ở tầng lớp dưới của xã hội. Trong khi đó, các nhà văn khác của Tự lực văn đoàn lại hướng về các nhân vật thượng lưu. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam, cho khuynh hướng tư tưởng của Thạch Lam, hướng về cuộc đời, hướng về cái Thiện, cái Mĩ.
Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.
Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong Hai đứa trẻ đầy đủ, chi tiết
Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.
Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế. Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những **** sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những **** sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.
Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại. Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người **** khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.
5. Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, mẫu số 5:
Có ai đọc truyện ngắn của Thạch Lam mà lại quên được hình ảnh cô hàng xén đẹp người đẹp nết, tần tảo, chịu khó? Có ai mà lại quên được hương thơm hoàng lan của cuộc sống bình dị ? Và có ai mà lại quên được nét vẽ giản dị mà tinh tế của ông, quên được khát vọng của những mầm cây muốn vươn ra ánh sáng? Bỗng một cơn gió mùa hạ thoảng qua mát lạnh và êm như nhung, tôi ngỡ đang trên chuyến tàu của Thạch Lam, chuyến tàu đến với trang sách giàu cảm xúc của “Hai đứa trẻ”.
Bất cứ ai từng đọc những thiên truyện của Thạch Lam, đều không khỏi ấn tượng bởi những trang viết về bóng tối như “Tối ba mươi”, “Cô hàng xén”,… nhưng có lẽ chỉ khi đến với “Hai đứa trẻ”, bóng tối đêm đen mới hiện ra với đủ hình hài, cung bậc của nó. Trời nhá nhem tối, trời đã bắt đầu đêm. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Giữa bóng tối dày đặc âm u, mênh mông thăm thẳm không phải không có những nguồn sáng nhưng những nguồn sáng ấy nhỏ nhoi, mờ nhạt, yếu ớt. Trong các cửa hàng còn thức chỉ hé ra một khỏang ánh sáng. Những con đom đóm bay là là mặt đất để lại những vệt sáng nhỏ. Nhìn từ xa, cái bếp lửa của bác Siêu chỉ là chấm lửa nhỏ, lúc ẩn, lúc hiện. Ánh sáng chỉ là quầng, là khe, là chấm, là vệt và cuối cùng là hột sáng. Ánh sáng chỉ trực tắt đi, càng khơi sâu trong tâm hồn người đọc, càng bật lên cái không cùng thăm thẳm của bóng tối. Trong văn học, không ít những nhà văn tương quan đối lập bóng tối với ánh sáng nhưng hiếm có trăng viết nào bóng tối hiện lên rõ nét như trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Đặc biệt không phải ngẫu nhiên hình ảnh ngọn đèn leo lét của chị Tý được trở đi trở lại năm lần trong truyện, Ngọn đèn leo lét của chị Tý đã trở thành biểu tượng cho những kiếp sống lay lắt, nhỏ nhoi của những người cùng khổ trong đêm đen mênh mông của cuộc đời
Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện Hai đứa trẻ lớp 11
Điển hình trong kiếp sống lay lắt, ngoi ngóp của phố huyện này trước hết phải kể đến mẹ con chị Tí. “Ngày lặn lội mò cua bắt ốc, đêm lầm lũ dọn hàng nước nơi góc phố huyện nghèo. Gánh hàng của chị chỉ vài thứ đồ lặt vặt, sơ sài…Tất cả cái của hàng mà hai mẹ con dọn ra vẫn nhẹ tênh tênh”. Khách hàng của chị toàn những người làm thuê dưới đáy xã hội, vừa làm thuê, làm mướn hoặc đi ở. Dẫu chả kiếm được bao nhiêu nhưng hôm nào, hai mẹ con vẫn dọn hàng từ chấp tối tới đêm khuya. Hình ảng chị Tí phe phẩy cành chuối khô, đuổi ruồi bó trên mấy thức hàng mòn mỏi chờ mong những khách hàng quen trong vô vọng gieo vào lòng người một nỗi buồn không sao tả siết. Đọc đến đây, người đọc bỗng đặt ra câu hỏi “Mẹ con chị Tí đang sống đó ư?”. Có lẽ không phải, đó đâu phải là sống, đó chỉ là sự cầm cự với sự sống, cầm cự trong vô vọng. So mới mẹ con chị Tí, gánh hàng phở của bác Siêu có phần khá khẩm hơn nhưng lại đứng trước nguy cơ phá sản bởi lẽ, trong phố huyện nghèo này, phở là một thức quà xa xỉ. Cuộc sống của chị Tí, bác Siêu đã cơ cực là vậy, nhưng tận cùng của sự khốn cùng là gia đình bác Sẩm. Gia tài chỉ vẻn vẹn một manh chiếu, một thau sắt trắng méo mó, cây đàn bầu cũ kĩ, bác sống bằng nghề hát rong. Một cư dân đặc biệt của phố huyện nghèo mà ta không thể không nói đến, một bà già điên ngày nào cũng đến của hàng Liên mua rượu. Mua rượu xong, ngay tại của hàng của Liên, bà cụ uống một hơi cạn sạch. Cách bà cụ uống thật là lùng. Uống như bõ hờn, bõ tức, uống để nhấn chìm sầu tủi đắng cay. Có ý kiến cho rằng hình ảnh bà cụ Thi là hệ qua đau đớn, tất yếu của cuộc sống tàn lụi, tăm tối, mỏi mòn nơi phố huyện. Hình ảnh bà cụ Thi vừa gợi một cái gì đó thuộc về quá khứ, vừa dóng lên một cái gì ở trong tương lai. Nhìn vào cuộc sống từng cư dân nơi phố ta thật thấy cảm động mà xót xa.
Không giống như những nhà văn cùng thời thường hay miêu tả nhân vật đặt trong hoành cảnh điển hình, Thạch Lam hay đặt nhân vật của mình trong một khoảng khắc nào đó. Có lẽ đây là “cái tạng riêng” của Thạch Lam như nhà văn Nguyễn Tuân đã nói “Tôi quan niệm đã viết văn phải cố viết cho hay và viết đúng cái tạng riêng của mình Văn chương cần có sự độc đáo hơn trong bất kỳ lĩnh vực khác”. Đến với “Hai đứa trẻ”, ta có thể thấy dù chỉ miêu tả bức tranh phố huyện lúc trời nhá nhem tối trong một lát cắt thời gian rất ngắn: từ chiều muộn đến đem khuya nhưng bằng ngòi bút tài hoa, Thạch Lam đã gợi lên được nhịp sống đơn điệu, triền miên ở nói này. Phố huyện này chẳng khác nào một vũng tù đọng, một miền đất chết. Dõi theo nhịp sống nơi phố huyện nghèo, người đọc chợt nhớ đến những câu thơ trong bài thơ quẩn quanh của Huy Cận – nhà thơ ảo não nhất trong phong trào thơ mới:
Quanh quẩn mãi cũng vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chưa thấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại vẫn ngần ấy chuyện
Bằng ngòi bút tài hoa mà tinh tế, mộc mạc mà giản dị, bằng cái nhìn trìu mến, yêu thương, Thạch Lam đã dựng nên bức tranh chân thực đầy xúc cảm về cuộc sống đói nghèo tăm tối nơi phố huyện. Qua đó, ta đã thấy được tấm lòng nhân hậu và tràn đầy tình yêu của ông. Đồng thời, ông cũng thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng kiếp người nhỏ bé, tâm hồn trẻ thơ trong sáng.Dù ra đời cách đây nhiều năm, nhưng ngày nay đọc “Hai đứa trẻ” ta vẫn thầy đầy đủ “cái dự vị và nhã thú của một tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”(Nguyễn Tuân)
6. Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, mẫu số 6:
Đến với Thạch Lam ai cũng biết ông là một cây bút tài hoa xuất sắc của văn học Việt Nam, là nhà văn lãng mạn thuộc thành viên của nhóm “tự lực văn đoàn” nhưng văn của Thạch Lam lại nghiêng về cuộc sống cơ cực, bế tắc, vất vả của những người nông dân, tiểu tư sản, thị dân nghèo. Vì vậy trong sáng tác của Thạch Lam xuất hiện chất hiện thực và trữ tình hòa quyện đan cài tạo nên nét đặc sắc trong cách nghệ thuật. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đã biểu hiện được phẩm chất đó. Hiện lên trong tác phẩm là bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống, bức tranh tâm trạng của con người.
Có lẽ điều mà mỗi bạn đọc khi đến với “Hai đứa trẻ” của Thạc Lam phải cảm nhận được ngay đó là bức tranh thiên nhiên, cảnh hoàng hôn của thiên nhiên nơi phố huyện nghèo khi một ngày đã tàn. Bức tranh ấy có cả màu sắc, âm thanh rất đặc trưng của thôn quê Việt Nam. Bức tranh đó được tác giả đặt trong ba thời điểm :chiều tàn, buổi tối và đêm khuya. Cả ba thời điểm ấy như tàn dần đi theo thời gian và không gian.
Trước hết người đọc phải thấy được cảnh chiều tàn, cảnh chiều ấy có cả màu sắc của mặt trời “phương Tây đỏ rực như lử cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Và hình ảnh bóng tối ập đến “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Tất cả những thứ màu sắc ấy như báo hiệu một ngày đã hết, thời gian mà con người sống thực với bản thân mình đã đến. Bức tranh ấy có cả âm thanh, thứ âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều” thứ âm thanh ấy nghe sao mà nhẹ nhàng, chậm chạp nặng nề buồn tê cả lòng người. Tiếng thu không ấy khác chi tiếng trống trong bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương.
” Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”
Cũng là tiếng trống buồn rầu, chậm chạp đến đáng sợ ấy. Hay những thứ âm thanh như “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió đưa vào”,”tiếng muỗi vo ve” đó là những âm thanh quen thuộc mà vùng quê nào cũng có. Tiếng chõng tre kêu cót két như bản nhạc buồn vang lên trong buổi chiều tàn. Đối với Liên chị làm sao quên được “mùi ẩm mốc bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Tất cả những thứ âm thanh, màu sắc, mùi vị ấy như hòa quyện vào nhau đưa vào lòng người đọc một vùng quê êm đềm nhẹ nhàng. Buổi chiều tàn ấy như nhường cho thời gian đêm tối tràn đến. Cảnh đêm tối ấy như gợi lên cho người đọc được sắc màu, màu của bóng tối như bao chùm lên tất cả nơi phố huyện này “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Cái bóng tối đáng sợ ấy như ám ảnh con người nơi đây, nó thống trị tất cả từ con người đến cuộc sống. Ánh sáng không phải không có, nhưng nó nhỏ bé leo lét không đủ sức để xé tan màn đêm. Thứ ánh sáng ấy như càng làm cho bóng tối trở nên mênh mông hơn, tối tăm hơn. Đó chính là khung cảnh chung của làng quê Việt nam lúc bấy giờ. Trong màn đêm tĩnh lặng ấy người ta có thể nghe thấy cả tiếng lá bàng rơi rụng xuống vai Liên khe khẽ, từng loạt một. Tiếng động ấy không đủ sức ngân vang rồi chìm ngày vào đêm tối. Lúc đó ta mới thấy giá trị của ánh sáng, nó trở nên vô giá và rất quý báu. Cảnh đêm về lại càng làm cho không gian trở lên vắng lặng hơn. Và tất cả chỉ mong đợi chuyến tàu đêm hoạt động cuối cùng trong ngày đi qua.
Những bài văn Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong Hai đứa trẻ tuyển chọn
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy đã diễn ra hoạt động đời sống của con người. Đó là khung cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn “trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lúa úa”. Đó là tất cả những gì còn lại của phiên chợ tàn, hình ảnh ấy gợi ra đó là những món quà quê rẻ tiền. Từ đó cũng đã thấy được cuộc sống nghèo nàn còn nhiều thiếu thốn của người dân nơi đây. Tác giả đã chọn thời điểm cuối ngày đó là lúc chiều tàn cho đến đêm khuya để làm nổi bật cuộc sống của con người tàn tạ, bế tắc héo úa. Tại sao tác giả lại chọn hình ảnh phiên chợ tàn mà không chọn hình ảnh khác? Phải chăng chỉ có phiên chợ tàn ấy mới gợi ra được cuộc sống tàn tạ bế tắc trong đêm tối không chút ánh sáng, không chút tương lai ở phía trước. Những kiếp người tàn tạ ấy đang hiện lên trong cái nhìn của Liên tại phiên chợ tàn. Phải chăng nhân vật Liên có cái nhìn tinh tế lắm? Khác với người phương Tây, người Việt Nam ta thường có tính chậm chạp, cũng như ở tác phẩm chợ đã tàn nhưng ” một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa”. Còn ngoài đường “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi, chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hanh bất cứ cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đến những đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi học mà cũng phải tham gia vật lộn hy sinh vất vả để kiếm cái ăn hằng ngày cho bản thân cho gia đình. Ngay cả An với Liên dù khá giả hơn chúng cũng phải giúp mẹ trông hàng. Kiếp người ấy đâu chỉ là những đứa trẻ mà còn là chị Tí với đứa con của mình. Chị kiếm sống bằng công việc ngày đi mò cua bắt ốc, tối chị bá hàng nước. Hàng hóa chị bán là những thứ rẻ tiền, cả cửa hàng như vậy chị chỉ gánh một lần trên vai là hết. Những người khách của chị là “mấy người phục vụ gạo hay phu xe, mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa”. Số khách vốn đã ít ỏi nay lại không ổn định ngày nhiều ngày ít”. Tất cả như dự báo cái nghèo sẽ đeo bám gia đình chị. Câu trả lời của chị Tí với Liên như tiếng thở dài của số phận của cuộc đời “ôi chao! Sớm với muộn mà có ăn thua gì” nó thể hiện tâm trạng ngao ngán không thể trông chờ vào quán nước này mà mưu sinh được nữa. Có lẽ trong cái phố huyện nghèo này thì gia đình bác Siêu là gia đình có kinh tế khá giả nhất. Nhưng khách hàng của bác cũng ngày ít đi, khách của bác phải là những người có điều kiện về kinh tế. Bởi món hàng của bác là món hàng sa sỉ nhiều tiền. Dự báo cuộc sống của bác sẽ phá sản vì những người đi tàu chỉ mua bao thuốc…đâu có để ý đến phở của bác. Hay gia đình bác Sẩm chỉ biết góp vui bằng tiếng đàn bầu. Trong cuộc sống nghèo khổ ấy đâu ai còn tiền để nghe bác hát.những đứa con nghịch ngợm bò ra ngoài mảnh chiếu rách. Kiếp người ấy cũng chính là bà cụ Thi, dù chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng cũng để lại ám ảnh trong lòng người đọc. Từng ngôn ngữ của chỉ của bà cụ chứng tỏ bà vẫn nhận thức được cuộc sống “A em Liên thảo nhỉ? Hôm nay lại rót đầy cho chị cơ đấy”. Bà không hoàn toàn mất đi mọi cảm giác, nhưng điều đau xót nhất là bà nghiện rượu, bà luôn trong trạng thái bất bình thường với ” tiếng cười khanh khách” khác chi tiếng cười của một đứa trẻ con. Ta không hiểu tại sao bà lại rơi vào trạng thái không bình thường như vậy, nhưng nó dấy lên một điều lo sợ mơ hồ. Liệu trong cuộc sống khốn khổ ấy sẽ thêm một bà cụ Thi nữa hay không?
Sự đồng cảm của nhà văn được thể hiện qua cách nhìn, cách cảm nhận của nhân vật Liên, qua đó ta thấy được nỗi lòng xót thương, xót xa những mảnh đời đầy bất hạnh của thời gian: vượt lên trên tất cả cả hoàn cảnh sống nhưng trong họ luôn giàu lòng yêu thương giữa con người với con người. Đối với Liên một cô bé mới lớn khi nhìn thấy “những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mảnh đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì” cô lại động lòng thương và muốn cho chúng tiền nhưng bản thân cô lại không có. Hay khi bà cụ Thi vào uống rượu cô chỉ “lẳng lặng rót một cút rượu ti đầy đưa cho cụ”. Cố sợ không dám nhìn cụ, nhưng cô lại thương cụ rót cụ thêm tí rượu để làm thỏa mãn nhu cầu của cụ. Còn đối với mẹ con chị Tí và mọi người xung quanh thì Liên ân cần, nhẹ nhàng, chu đáo hỏi thăm. Nhưng cuộc sống không cho họ những gì họ mong muốn mà còn đẩy đưa số phận của họ vào những con đường tăm tối với cuộc sống bần hàn khổ cực. Trước hoàn ảnh ấy, tác giả đã thể hiện sự cảm thông xót xa cho những mảnh đời nghèo khổ, cơ cực, không có tương lai, không chút ánh sáng của những con người nơi phố huyện này. Đó là ai? Chính là gia đình Liên, mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, gia đình bác Sẩm và cả những đứa trẻ nghèo kia. Tất cả họ chỉ sống quẩn quanh trong phố huyện nghèo nàn này, muốn thoát ra cũng không được. Thấu hiểu điều đó tác giả đã thắp lên cho cuộc sống của họ những ước mơ, khát khao cháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó cũng chính là ước mơ của họ “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ” cái ước mơ ấy không chỉ về giá trị vật chất mà còn tinh thần. Ước mơ ấy được tác giả gửi gắm vào hình ảnh đoàn tàu vì đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Hơn thế nữa chuyến tàu xuất hiện hàng đêm đó như mang đến một thế giới khác với cuộc sống nghèo nàn, tăm tối mà Liên với những người khác đang sống. Khi “đèn rọi đã ra” hai chị em Liên đứng hẳn lên để nhìn cho rõ. Hai chị em Liên háo hức mong đợi chuyến tàu đi qua. Khi đoàn tàu đi qua hai chị em đứng hẳn lên để nhìn cho kĩ. Chuyến tàu ấy mang đến cho phố huyện tối tăm một chút ánh sáng của một thế giới vị thành có “các toa đèn sáng trưng, toa hạng sang trọng, đồng và kền lấp lánh, các cửa kính sáng”. Khi đoàn tàu đi qua để lại bao nuối tiếc trong Liên đầy mơ mộng về một Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo mà khi cô còn sống ở đó. Đó là hoài niệm của một quá khứ rực rỡ “Liên được uống những cốc nước lạnh xanh, đỏ, đi chơi bờ Hồ” nhưng hiện tại Liên không thể có được.
Phải chăng để vẽ được một bức tranh thiên nhiên, bức tranh của cuộc sống con người nơi phố huyện nghèo này với sự đồng cảm sâu sắc thì Thạch Lam phải có ngòi bút vô cùng tinh tế? Thạch Lam là nhà văn lãng mạn vậy nên cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” rất tinh tế và nhạt cảm. Tác giả lấy điểm nhìn từ buổi chiều tàn “chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”. Câu văn như gieo vào lòng người đọc sự êm ả nhẹ nhàng, nhưng cũng từ đó mới gợi được ra cuộc sống tàn tạ bế tắc. Và khung cảnh đêm buông xuống cũng đầy nhẹ nhàng như vậy “trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Tất cả gợi cái hồn quê tĩnh lặng, thanh bình, yên ả đều được đặt dưới cái nhìn tinh tế sâu lặng đầy cảm xúc. Điều đó đã được hà văn gửi gắm qua nhân vật Liên-một cô gái mới lớn có tâm hồn phong phú tinh tế và giàu lòng yêu thương.
Chất thơ vẻ đẹp lãng mạn trong truyện được cảm nhận qua cách nhìn về thời gian. Thời gian trong truyện không được miêu tả thoáng nhanh mà thật chậm dãi qua quan sát của Liên. Đã tạo lên những giai điệu ngân nga lắng sâu vào trong lòng người đọc “chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru” nó thể hiện cái nhìn mượt mà, êm ái, nhẹ nhàng. Hay “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng vang ra để gọi buổi chiều”. Câu văn như gợi một cái gì đó êm ả, dịu dàng, thời gian cứ trôi đi chầm chậm theo từng bước nhịp của cơn gió “trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”, những câu văn mượt mà thấm đẫm chất thơ, uyển chuyển khiến người đọc khó có thể cưỡng lại được cảm xúc tươi mới khiến lòng người tươi mới, thanh sạch hơn.
Nhưng có lẽ điều mà tạo nên vẻ đẹp lãng mạn trong truyện chính là không gian đậm chất quê yên bình lặng lẽ của Việt Nam. Những tiếng âm thanh của muỗi bắt đầu vo ve, hay tiếng thu không trên cái chòi của huyện nhỏ. Âm thanh “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Những âm thanh ấy mang đậm chất hồn quê Việt Nam, tâm trạng u buồn như thấm đẫm vào tâm trạng bạn đọc. Mỗi vùng quê trầm lặng, đơn điệu cùng những thứ âm thanh rời rạc. Hình ảnh bóng tối chính là không gian của nghệ thuật. Mở màn là cảnh ngày tàn kết thúc là đêm tĩnh mịch đầy bóng tối. Xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm chủ yếu là không gian bóng tối. Tiếng trống đánh tung lên một tiếng rồi chìm sâu vào đêm tối. Hay hình ảnh đoàn tàu kêu xa dần rồi chìm vào bóng tối. Phải chăng hình ảnh bóng tối ấy đâu phải là bóng tối của thiên nhiên mà là bóng tối của cuộc đời con người? Hình ảnh bóng tối ấy như ám ảnh con người nơi đây gợi lên cuộc sống cơ cực, không lối thoát không tương lai. Nhưng dưới cái nhìn của Liên đã trở thành “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Lên ngồi lặng lẽ bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”. Liên “thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Những câu văn ấy gợi lên chất thơ, lắng lại những cảm xúc trong lòng người đọc.
Vẻ đẹp lãng mạn của truyện được nhà văn Thạch Lam miêu tả, xây dựng khi miêu tả ánh sáng trong truyện. Cảm xúc tinh tế của tác giả đã bắt gặp cái nhìn đồng điệu của nhân vật. Để phát hiện ra ánh sáng hiếm hoi trong ánh lên nhịp sống của con người. Đó là những hột sáng, khe sáng, chấm sáng, quầng sáng, vùng sáng, vầng sáng. Thậm chí còn phát hiện ra hòn đá bên sáng bên tối. Phải tinh tế lắm tác giả mới phát hiện ra thứ ánh sáng quý giá như vậy? Chất thơ trong truyện được thể hiện qua sự nhìn nhận của Liên “vòm trời ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây”. Từ đó người đọc thấy được vẻ đẹp thơ mộng đến tĩnh lặng.
Truyện ngắn của Thạch Lam thường không chỉ dừng lại ở cuộc sống bế tắc, tù túng, bần hàn. Mà con người nơi phố huyện này còn mang vẻ đẹp đậm nét của con người Việt Nam. Dù nghèo khổ nhưng luôn cần cù, chịu thương chịu khó, sống luôn có tình cảm chan hòa ấm áp. Đó chính là tình cảm bằng hành động quan tâm của Liên với những đứa trẻ, bà cụ Thi hay chính mẹ con chị Tí. Sự quan tâm ấy không chỉ giúp họ về vật chất mà còn về cả tinh thần giúp cuộc sống của họ được cải thiện. Hình ảnh chuyến tàu là hoạt động duy nhất còn lại trong ngày nó mang giá trị tinh thần to lớn. Đó là niềm háo hức mê say đối với hai chị em Liên. Khi đoàn tàu đến hai chị em Liên đứng lên để nhìn thật kĩ. Hình ảnh các khoang tàu lối đuôi nhau chạy, ánh sáng thì kém hơn mọt lần, người cũng ít hơn. Tàu đi đã để lại nhiều kỉ niệm về Hà Nội xa xăm, đông vui và náo nhiệt. Gợi về quá khứ hạnh phúc mà Liên không còn có được.
Nếu “thơ là hiện thực, là cuộc đời và còn là thơ nữa” thì “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam là một tác phẩm như vậy. Truyện không chỉ về cuộc đời mà còn chính là thơ. Chất thơ thể hiện cái nhìn của Liên, ở giọng văn của Thạch Lam bàn bạc trong khắp thiên chuyện. Và nói như Thạch Lam “văn chương làm cho lòng người thêm thanh sạch và phong phú hơn” thì có lẽ “Hai đứa trẻ” của ông đã đáp ứng được những đòi hỏi đó. Vì vậy tác phẩm không chỉ có giá trị với riêng văn học giai đoạn 1930-1945 mà nó còn khẳng định chỗ đứng của mình trong mãi sự nghiệp văn học nước nhà sau này.
——————— Hết ———————–
Trên đây, đã chia sẻ cho bạn chi tiết cách phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tà trong truyện ngắn Hai đứa trẻ. Hy vọng những thông tin trong bài viết này sẽ giúp các em hiểu rõ hơn về nội dung, giá trị nội dung, giá trị tư tưởng trong bài và làm tốt hơn các đề văn liên quan đến truyện ngắn Hai đứa trẻ sau này. Ngoài ra, nếu muốn tìm hiểu tài liệu học tốt môn Ngữ văn lớp 11, các em không thể bỏ qua danh sách các bài văn hay lớp 11 của Taimienphi.vn.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp