Đồng bào là gì?
“Đồng bào là một cách gọi giữa những người Việt Nam, có ý coi nhau như con cháu của cùng tổ tiên sinh ra. Từ đồng bào được sử dụng dựa trên truyền thuyết Trăm trứng nở trăm con. Truyền thuyết kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ và sinh ra một bọc trứng và nở ra một trăm người con là dân tộc Việt Nam ngày nay.”
Đồng bào đơn giản chỉ có nghĩa là người dân có cùng quốc tịch, là công dân của cùng một nước.
Vì sao người Việt Nam ta gọi nhau là đồng bào?
– Việc người Việt thân mật gọi nhau là đồng bào là để chỉ mối quan hệ thân thiết, từ đồng bào có nghĩa là cùng một bào thai, tức là cùng một mẹ sinh ra như câu chuyện cái bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ vậy. Việc gọi nhau như vậy cũng đã thể hiện người Việt đã xem nhau là anh em trong đại gia đình Việt Nam.
– Hai tiếng đồng bào thể hiện sự yêu thương, đùm bọc, đoàn kết, giúp đỡ nhau của tất cả các dân tộc sống trên dãy đất Việt Nam từ Nam chí Bắc, từ đồng bằng đến miền núi, từ miền đất liền đến miền hải đảo xa xôi.
– Vì vậy, từ đồng bào rất hay được sử dụng trong văn nói và văn viết.
Ví dụ: Trong thời khắc rất đỗi thiêng liêng của buổi sáng ngày 02-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời, đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, Người đã hỏi hàng vạn nhân dân đang dự buổi công bố Tuyên ngôn độc lập là: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”.
Về hai chữ Đồng bào Bác Hồ sử dụng
Hai chữ “đồng bào” chiếm vị trí đặc biệt trong tác phẩm của Hồ Chí Minh. Hai chữ này chính là một mã văn hoá đặc biệt biểu hiện tư tưởng đoàn kết – tư tưởng cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khảo sát trong Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, 2011), hai chữ này xuất hiện khoảng trên 2000 lần. Trong các lá thư và trong các lần nói chuyện Bác Hồ đều dùng “đồng bào”, như: đồng bào Công giáo, đồng bào Mán, đồng bào hậu phương, đồng bào tản cư, đồng bào Nam bộ…Trong 2 năm 1945, 1946 Người có 20 lá thư có tiêu đề “gửi đồng bào”:
- Thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp “Tuần lễ Vàng” (17/9/1945).
- Gửi đồng bào Nam bộ (26/9/1945).
- Lời cảm ơn đồng bào Công giáo (14/10/1945).
- Lời kêu gọi đồng bào Nam bộ (29/10/1945).
- Gửi đồng bào ngoại thành Hà Nội (15/12/1945).
- Lời cảm ơn đồng bào (14/2/1946)…
Bác Hồ dùng từ “nhân dân” trong hoàn cảnh đối thoại với thế giới, nên Lời kêu gọi nhân dân thi hành đúng bản Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp (16/3/1946) Bác dùng từ “nhân dân” chứ không dùng “đồng bào”. Thế nên ta hiểu với người nước ngoài Bác dùng từ “nhân dân” hoặc dân chúng: Lời phát biểu với nhân dân Pháp qua Đài phát thanh Pari (15/9/1946); Điện gửi nhân dân Pháp nhân ngày 19/12/1948…Nhưng trong bối cảnh lời tuyên bố cần sự trang trọng Bác dùng “quốc dân”: Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về (23/10/1946). Nếu lời tuyên bố này dùng “đồng bào” thân tình gần gũi thì sắc thái trang trọng bị giảm đi nhiều. Với người Hoa Kiều, Bác gọi “anh em” nên: Thư gửi anh em Hoa Kiều (2/9/1945 và 28/12/1946). Điều này được Bác giải thích: “Chúng ta phải nhớ rằng: Việt và Hoa là hai dân tộc anh em” trong bài báo Hoa Việt tinh thành đoàn kết in trên báo Cứu quốc ngày 28/11/1945.
Với người trong nước Bác Hồ dùng “đồng bào”, nhất là trong những lá thư gửi “đồng bào Công giáo” vì Người rất quan tâm tới sự “đoàn kết lương giáo”. Nhìn chung hai chữ “đồng bào” luôn là sự ấm áp cũng là nỗi trăn trở trong suy nghĩ của Bác Hồ. Trong Thư gửi đồng bào toàn quốc in trên báo Cứu quốc ngày 15/11/1946 chỉ hơn 100 chữ nhưng có 05 lần hai chữ “đồng bào”. Trong Lời cảm ơn đồng bào in trên báo Sự thật ngày 23/9/1949 chưa đầy 200 chữ nhưng “đồng bào” được nhắc lại 09 lần…
Theo Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu thì “đồng bào” có nghĩa cùng là con cháu một ông tổ sinh ra. Có ý kiến cho rằng truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ xuất hiện thời Xích Quỷ. Khoảng 2.200 năm TCN, do nhà Hạ lấn chiếm, nhà nước Xích Quỷ tan rã, bộ phận người Việt vẫn giữ truyền thuyết nguồn gốc của mình. Nhưng cách phổ biến thì được hiểu theo lối chiết tự đồng nghĩa là cùng, bào nghĩa là bọc, “đồng bào” là cùng chung một bọc từ câu chuyện. Lạc Long Quân – một thần thoại cổ xưa nhất ca ngợi nòi giống cao quý của tổ tiên dân tộc Việt: Lạc Long Quân giống rồng kết duyên cùng Âu Cơ giống tiên. Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra một trăm người con. Ý nghĩa câu chuyện nhắc nhở cháu con dù nơi miền biển, dù triền núi cao cũng đều là con Hồng cháu Lạc chung một nguồn cội tổ tiên. Để rồi Việt Nam hôm nay tự hào là nước duy nhất trên thế giới có tín ngưỡng thờ vua Tổ: “Dù ai buôn đâu bán đâu/ Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba”.
Nhiều truyện cổ các dân tộc Việt Nam có môtíp giải thích nguồn gốc các dân tộc chung từ “quả bầu mẹ”. “Quả bầu” chính là “hình thức phái sinh” của “cái bọc trăm trứng”. “Bầu” là thứ cây gần gũi quen thuộc vùng cư dân nông nghiệp, miền núi cũng sẵn, đồng bằng cũng nhiều, dễ trồng, dễ chăm và rất tiện dụng, có thể ăn lá, ăn quả…Bầu leo trên giàn, ngọn nọ ngọn kia quấn quýt, nâng đỡ nhau gợi liên tưởng về sự giao hoà, đoàn kết, tương thân tương ái…Một hình tượng thật hay để nói về sự yêu thương, keo sơn, gắn bó!
Trong từ vựng tiếng Việt chữ “đồng” (cùng) làm thành hệ thống từ ghép đồng nghĩa phong phú bậc nhất (so với từ vựng các nước khác): đồng bào, đồng tâm, đồng chí, đồng ý, đồng tình, đồng lòng, đồng hương, đồng cảm, đồng điệu, đồng hành, đồng đội, đồng hao, đồng môn, đồng nghiệp, đồng khởi, đồng diễn, đồng ca…
Có biết bao nhiêu thành ngữ, tục ngữ, ca dao nói về sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau: “Chị ngã em nâng”, “Tay đứt ruột xót”, “Lá lành đùm lá rách”, “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”…
Trong ngày Lễ 2-9-1945 Bác Hồ dùng chữ “đồng bào” thật tinh tế, hướng cả dân tộc về nguồn cội tổ tiên đồng lòng nhất trí dựng xây và bảo vệ nước Việt Nam độc lập. Trước đó, năm 1942 Người viết Lịch sử nước ta kêu gọi dân ta đoàn kết: “Dân ta xin nhớ chữ đồng/ Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Trong kiệt tác này Người chứng minh và khẳng định chân lý lịch sử: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Đó cũng là chân lý thời đại.
Hội nghị Diên Hồng nhà Trần khích lệ tướng sỹ đoàn kết như tình cha con quyết đuổi giặc Mông Nguyên hung hãn giành lại non nước cha ông!
Thời Lê Lợi – Nguyễn Trãi “tướng sỹ một lòng phụ tử”, ngọt ngào “nước sông chén rượu” mang về độc lập giang sơn!
Trong Thư gửi đồng bào tản cư Hồ Chí Minh khẳng định con cháu của dòng giống anh hùng thì không bao giờ chịu khuất phục trước gian nan thử thách: “Con cháu Lạc Hồng, bao giờ cũng quật cường, không bao giờ sợ khổ”. Người lại có Thư gửi đồng bào hậu phương căn dặn họ phải giúp đỡ đồng bào tản cư như người trong một nhà:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng”…
Mỗi một đồng bào phải sẵn lòng bác ái, phải cư xử cho xứng đáng là con Rồng cháu Tiên”.
Kháng chiến chống Pháp đang trên đà thắng lợi, Hồ Chí Minh kêu gọi nguỵ binh quay về với Tổ quốc để đất nước sớm hoà bình. Người mượn lời ca dao và thành ngữ quen thuộc nói về tổ tiên: “Tôi thiết tha kêu gọi các người mau mau quay về với Tổ quốc,…
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Con Hồng cháu Lạc phải thương nhau cùng”.
Đường lối đoàn kết toàn dân nhằm một mục đích tổ quốc độc lập nhân dân được tự do, hạnh phúc của Hồ Chí Minh luôn tạo ra một sức mạnh tổng hợp của toàn dân: “Hễ là con Hồng cháu Lạc, người có lương tâm, thì chắc ai cũng tán thành và ủng hộ mục đích cao cả ấy. Cho nên chúng ta đoàn kết rộng rãi tất cả những người Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu hoà bình, yêu thống nhất trong cả nước và ở nước ngoài”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn, yêu thương con người, vì con người, không chỉ với anh em, đồng chí, đồng bào mình mà còn mở lòng với những người lầm đường lạc lối: “…tôi thiết tha kêu gọi những đồng bào vì một cớ gì mà lầm đường lạc lối hãy kịp trở về với Tổ quốc. Dù sao các người cùng là ruột thịt. Tôi tin rằng các người không thể nỡ lòng giúp địch làm cho đồng bào Việt Nam ta khổ nhục mãi; tôi rất đau lòng thấy cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn”. Chỉ trong ba câu ngắn mà có hai lần dùng ”đồng bào”, nhất là câu giữa ”Dù sao các người cùng là ruột thịt” thật thấm thía, ân tình!
Tình dân tộc, nghĩa đồng bào
Tinh thần tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau đã trở thành truyền thống quý báu, nét đẹp văn hóa của dân tộc ta từ bao đời nay. Ðó là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt với sự đoàn kết cộng đồng từ những ngày bình minh của lịch sử dân tộc đến những cuộc kháng chiến chống quân xâm lược và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Ðặc biệt, càng đứng trước những khó khăn, gian nan, thiên tai, dịch bệnh… thì tình dân tộc, nghĩa đồng bào lại càng rõ nét.
Truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Nhìn lại lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, có thể thấy sức mạnh của tình đoàn kết, bùm bọc, yêu thương lẫn nhau có vai trò hết sức quan trọng. Ðiều này không chỉ cho thấy chiều sâu, bản sắc văn hóa của dân tộc mà còn là sức mạnh nội sinh để đất nước vượt qua biết bao gian nguy, thử thách. Và tinh thần tương thân tương ái ấy như sẵn có, vẫn luôn bền bỉ chảy trong dòng máu mỗi người Việt Nam. Trên dải đất bên bờ biển Ðông đã trải qua vô vàn gian nan, thử thách đã tôi luyện và hun đúc tinh thần đoàn kết cộng đồng, gắn kết với nhau bởi hai tiếng đồng bào. Ðể truyền thống ấy được tiếp nối, lan tỏa, ngay từ những khúc hát ru lúc mới lọt lòng đến khi làm quen với con chữ, mỗi người chúng ta đều thấm nhuần những câu ca dao, tục ngữ như “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”; “Lá lành đùm lá rách” hay “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”…
Sự sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau thể hiện rõ nét nhất khi đất nước phải đối mặt với những khó khăn, khi đứng trước những mất mát, đau thương bởi đói nghèo, chiến tranh, thiên tai hay dịch bệnh… Trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, trước những thiếu thốn, gian khổ, đói rét ấy, tình đồng chí, đồng đội, đồng bào lại thắm đượm khi đồng cam cộng khổ, “củ sắn chia đôi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”…
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước ta đã trở thành một nước độc lập. Chính quyền cách mạng non trẻ của nước ta ra đời trong thế “ngàn cân treo sợi tóc” vừa “thù trong, giặc ngoài” vừa nạn đói hoành hành. Trước tình thế đó, trong bức thư gửi đồng bào toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng”. Rồi Bác kêu gọi: “Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước: Cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Ðem gạo đó để cứu dân nghèo”. Lời kêu gọi của Người đã nhanh chóng được nhân dân khắp cả nước hưởng ứng, cùng gom góp, chia sẻ để vượt qua nạn đói. Từ “hũ gạo cứu đói” của Bác, rất nhiều mô hình sẻ chia, giúp đỡ người khó khăn, hoạn nạn được ra đời, duy trì cho đến ngày nay. Mỗi giai đoạn, bối cảnh, những phong trào hỗ trợ người khó khăn có khác nhau về tên gọi, hình thức song bản chất vẫn là tinh thần tương thân tương ái, sự đùm bọc, gắn kết lẫn nhau.
Sức mạnh trong cuộc chiến chống Covid-19
Những ngày này, dịch bệnh Covid-19 đang là nỗi ám ảnh của toàn thế giới khi con số người nhiễm bệnh đã lên đến trên 180 triệu người. Ðất nước ta cũng đang trong những ngày căng mình chống lại đại dịch Covid-19 khi số ca nhiễm trong cộng đồng đang có xu hướng tăng lên. Dịch bệnh đã và đang ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội, và những người có hoàn cảnh khó khăn, yếu thế trong xã hội lại càng dễ bị tác động, tổn thương. Ðây cũng là thách thức, khó khăn lớn nhất mà đất nước ta phải trải qua trong thời điểm này. Trước cuộc chiến đầy cam go với dịch bệnh và lời hiệu triệu “chống dịch như chống giặc”, một lần nữa truyền thống quý báu tương thân tương ái của dân tộc lại trỗi dậy, mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Ðó là những hy sinh, vất vả của lực lượng tuyến đầu chống dịch, sẵn sàng “chia lửa” với những địa phương đang là tâm dịch; là việc san sẻ đồ ăn, thức uống cho người dân trong các khu cách ly, phong tỏa; là cùng nhau hỗ trợ tiêu thụ nông sản cho bà con những địa phương có dịch hay những đóng góp thiết thực cho Quỹ Vacine phòng, chống Covid-19 từ những doanh nghiệp lớn, nhỏ đến những học sinh, người lao động…
Trong quá trình phát triển của đất nước, cùng với những thành tựu sẽ luôn có không ít khó khăn, thách thức đan xen và tinh thần đoàn kết dân tộc vẫn là sức mạnh nội sinh cần thiết. Với cuộc chiến chống dịch Covid-19 đang “nóng” từng ngày, cùng với các giải pháp, chiến lược trong chống dịch và phát triển kinh tế của Chính phủ, ngành y tế thì tinh thần sẻ chia, tương thân tương ái sẽ góp thêm sức mạnh để đẩy lùi dịch bệnh, để nhân dân cả nước trở về với cuộc sống bình yên, an toàn.
********************
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp