Bài dự thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gồm 5 mẫu, giúp các em tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thành bài dự thi cho mình.
Để hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, hàng năm các đơn vị, tổ chức, trường học tổ chức cuộc thi “Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Vậy mời các bạn cùng tham khảo 5 mẫu bài dự thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong bài viết dưới đây:
Bài dự thi Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở trại Kim Đồng
Kính thưa ban giám khảo, ban tổ chức quý thầy cô cùng toàn thể các bạn học sinh. Lời đầu tiên em xin được gửi lời cảm ơn đến ban tổ chức vì đã tạo điều kiện cho em được nói lên tình cảm nồng ấm của mình với Bác Hồ kính yêu. Em xin được tự giới thiệu về mình. Em tên …đến từ đơn vị lớp …
Bạn đang xem: Bài dự thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (5 mẫu) Bài dự thi kể chuyện về Bác Hồ năm 2021
Thưa các thầy cô cùng toàn thể các bạn học sinh chắc hẳn ai cũng biết Bác Hồ nhà lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Trong suốt thời gian công tác cách mạng Bác đã thể hiện mình là một con người sống có hoài bão, có lý tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc nhất là đối với những người, bị áp bức bóc lột bác là một con người mẫu mực về đạo đức cách mạng. Tác phong bình dị chân thành, khiêm tốn hòa bình với quần chúng có sức mạnh quá lớn đối với mọi người. Có câu chuyện đã nói lên tình cảm chân thành sự quan tâm lo lắng của Bác với những em bé bất hạnh, những mầm non của đất nước. Đó là câu chuyện: BÁC HỒ ĐẾN VỚI CÁC CHÁU MỒ CÔI Ở TRẠI KIM ĐỒNG.
Chuyện kể rằng:
Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu ở trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với các cán bộ phụ trách giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía:
– Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các chú lại rào dây thép gai như một nhà tù thế này?
Chú Thuận – phụ trách trại trẻ thưa:
– Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ!
Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai của các cháu.
Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui chơi. Bác khen: “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn – Bác hỏi cán bộ phụ trách trại – còn thế nào, các cô, các chú biết không?
Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp:
– Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ.
Bác Hồ mỉm cười:
– Chú nói mới đúng có một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu mồ côi, điều lớn nhất là phải bù đắp tình thương. Các cháu đã không còn bố, mẹ thì các cô, các chú ở đây là bố, là mẹ của các cháu. Các cô, các chú nuôi dạy các cháu phải đem cả tấm lòng làm mẹ, làm cha mà cư xử, mà săn sóc, mà dạy bảo. Bác thấy ở đây, đối với các cháu, còn cái vẻ “trại lính”, thiếu cái ấm cúng của gia đình. Dạy cho các cháu vào khuôn phép, sống có kỷ luật, trật tự là đúng. Nhưng không được để các cháu mất cái hồn nhiên, mất cái vui tươi, thoải mái. Đừng biến các cháu thành các “ông cụ non”. Các cô, các chú phải làm sao cho các cháu thấy trại Kim Đồng là gia đình của các cháu, đi xa các cháu nhớ, lúc ở nhà các cháu vui. Được như vậy thì cần gì phải rào dây thép gai, phải canh phòng nghiêm ngặt với các cháu?
Bác lại hỏi:
– Những cháu kém có nhiều không?
– Thưa Bác, còn nhiều lắm ạ.
– Nhiều là bao nhiêu?
Đồng chí phụ trách hơi bối rối. Bác nói ngay:
– Quản lý các cháu thì cần biết cụ thể từng cháu một, biết chắc chắn cái dở, cái hay của mỗi đứa. Có như vậy thì dạy mới có kết quả tốt.
Bác bảo chú Thuận đứng bên:
– Cho Bác gặp cháu nào kém nhất trại.
Em Quốc đứng khoanh tay trước mặt Bác, Bác cúi xuống vuốt ve nhè nhẹ tóc em. Bác hỏi:
– Tên cháu là gì?
– Thưa Bác, tên cháu là Quốc lủi ạ!
Bác nhìn em, ái ngại:
– Ai đặt cho cháu cái tên ấy?
– Dạ thưa, các bạn gọi cháu thế ạ.
– Vì sao các bạn gọi cháu là Quốc lủi?
– Thưa Bác… Cháu… Cháu hay trốn trại. Cháu chui qua hàng rào, lủi và các ngõ phố ạ.
Sao cháu không chịu ở trong trại mà lại trốn ra bên ngoài?
– Thưa Bác… ở trong trại khổ cực lắm ạ.
– Khổ cực như thế nào?
– Dạ chúng cháu bị gò bó đủ thứ ạ.
– Cháu nói rõ sự gò bó cho Bác nghe nào?
– Thưa Bác…
Quốc nhìn Bác Hồ mà nước mắt trào ra, nghẹn ngào không nói lên lời. Bác xoa đầu em, Bác đã hiểu thấu tất cả, dù em chưa nói ra được những điều muốn thưa với Bác, Bác khuyên Quốc: “Từ nay cháu phải phấn đấu bỏ cái tên “lủi”, giữ lại cái tên Quốc…”. Nước mắt càng giàn giụa trên hai má Quốc.
Bác Hồ cầm tay em Quốc đi ra chỗ cả trại đang tập hợp đón đợi Bác. Bác thân mật kể cho các em nghe một số gương tốt của thiếu nhi trong kháng chiến chống Pháp, gương tốt của thiếu nhi ở Liên Xô và các nước bạn. Các em đã không cầm được nước mắt khi nghe Bác kể về thời niên thiếu của Bác, Bác đã từng thèm một cái đồ chơi, ước ao một bộ quần áo mới để mặc Tết. Bác cũng đã mồ côi mẹ từ năm lên chín, lên mười. Bác đã phải bế em trèo trẹo bên hông đi xin sữa cho em sau ngày mẹ qua đời.
Bác căn dặn các em như ông dặn cháu:
– Các cháu phải vâng lời các cô, các chú phụ trách. Thiếu nhi thì phải ngoan, phải thật thà, lễ phép với người lớn, kính trọng người già, giúp đỡ người tàn tật yếu đau. Các cháu ở trong tập thể với nhau càng phải thương yêu nhau như anh chị em ruột thịt. Và phải dũng cảm sửa chữa những khuyết điểm, những thói hư tật xấu để lớn lên làm người chủ của đất nước, đừng để mình là cái gánh nặng của xã hội…
Rồi Bác bảo:
– Các cháu có hứa làm được điều Bác căn dặn không nào?
Một tiếng “có” vang lên, đều khắp và sôi nổi. Bác còn dặn thêm các em là, noi gương dũng cảm của liệt sĩ Kim Đồng trong học tập và rèn luyện, em nào đạt kết quả tốt, được ban phụ trách báo lên Bác, Bác sẽ gửi phần thưởng. Và Bác thân mật hẹn: “Nếu cả trại cùng tiến bộ vượt bậc, Bác sẽ còn về thăm các cháu nhiều lần nữa”.
Ngày hôm ấy, Bác đã để lại rất nhiều quà để chia cho các em. Nhận phần quà của Bác cho, nhiều em đã không ăn, cất làm kỷ niệm.
Từ hôm đó trong từng đôi mắt của các em, ngời lên niềm vui nhận quà Bác. Em Quốc không lủi ra ngoài trại nữa mà giữ gìn mình như giữ gìn kỷ niệm của Bác trong trái tim.
Những câu chuyện về Bác kể mãi không bao giờ hết, mỗi câu chuyện nhỏ về Bác luôn nhắc nhở mỗi chúng ta phải có tình thương yêu đồng chí, đồng bào, yêu thương và quý trọng con người. Trong cuộc sống hàng ngày, chính Người đã lấy tình thương của mình để che chở, nâng đỡ mọi người, thương yêu con người phải tin vào con người, với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc, với người khác thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, kể cả những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm khuyết điểm.
Người dành tình thương cho tất cả, chia sẻ với mỗi người những nỗi đau: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có nỗi đau riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì trở thành nỗi đau khổ của tôi”. Chính tình yêu thương bao la của Bác đã tạo nên một huyền thoại về lòng nhân ái Hồ Chí Minh!
Câu chuyện ngắn, thoáng qua như một hình ảnh chợt gặp, một ấn tượng chợt đến nhưng để lại những rung cảm thật sâu lắng. Sự rung cảm ấy không phải bởi tình huống hấp dẫn, hồi hộp của câu chuyện mà chính là sự “truyền lửa” từ trái tim đến trái tim, từ tình yêu thương bao la của một tâm hồn vĩ đại đến những tâm hồn của trẻ thơ và có sự rung động nào chân thành hơn khi nó được bắt đầu từ một trái tim!
Bài dự thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Kính thưa quý vị đại biểu!
Kính thưa các đồng chí!
Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc. Suốt cuộc đời Người đã hy sinh cống hiến cho sự nghiệp cách mạng và giải phóng dân tộc. Vì độc lập tự do, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân Người đã dành tất cả tình yêu bao la cho đồng bào, đồng chí…
“Ôi! trái tim Bác mênh mông quá.
Ôm cả non sông vạn kiếp người…”
Trong cuộc sống cũng như công việc. Người luôn coi trọng cả tài lẫn đức, song đức là gốc. Chính vì vậy sinh thời Người đã từng viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông.
Đất có bốn phương: Đông, tây, nam, bắc
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người”.
Mỗi bài nói, mỗi bài viết, lời căn dặn. Buổi gặp gỡ, chuyến công tác của Người đều chứa đựng ý nghĩa, hành vi và quan niệm đạo đức sáng ngời đó là, “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, đó là “Nhân, nghĩa, dũng, trí, tín”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta, là tấm gương sáng ngời để mọi người Việt Nam học tập và noi theo.
Kính thưa các đồng chí!
Trong cuộc vận động học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đang được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hưởng ứng sâu rộng bằng những hành động cụ thể và thiết thực. Đây là cuộc vận động lớn, đối tượng rộng, thời gian dài nhằm mục đích tạo ra sự chuyển biến về mặt nhận thức trong toàn xã hội, góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng. Đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội. Đợt vận động học tập tấm gương đạo đức HCM là tập trung vào các phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân”, “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, ý thức tổ chức kỷ luật, trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng và lãng phí.
Vâng, thưa các đồng chí.
Cả cuộc đời của Người là một “kho tàng” chuyện kể về tấm gương sáng ngời cho chúng ta học tập. Trong khuôn khổ hôm nay, tôi cùng kể cho các đồng chí mẫu chuyện nói về tấm gương giản dị tiết kiệm của Bác “theo chuyện kể những người giúp việc Bác Hồ trích trong cuốn” một số lời dạy và mẫu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Làm việc ở văn phòng Bác Hồ là chính, nhưng đôi khi tôi đảm nhiệm việc khâu vá quần áo, chăn màn, áo gối cho Bác. Công việc này giúp tôi có điều kiện được gần Bác Hồ và học tập được rất nhiều, học Bác được tính giản dị, tiết kiệm. Áo Bác rách có khi vá đi vá lại Bác mới thay. Tôi nhớ mãi chiếc áo gối màu xanh hoà bình của Bác, anh Cần (người phục vụ của Bác) đưa tôi vá đi vá lại, miếng vá nọ chồng lên miếng vá kia, cầm chiếc áo gối của Bác, tôi rưng rưng nước mắt nói với anh Cần:
– Thôi, anh đừng bắt tôi vá áo gối cho Bác nữa tôi thương Bác lắm. Anh thay chiếc áo gối khác cho Bác dùng, anh Cần nói:
– Tôi đã đề nghị với Bác thay áo gối mới, nhưng Bác chưa đồng ý. Chị chịu khó vá giúp tôi.
Tay cầm kim mà tôi không đưa nổi mũi kim. Tôi xúc động và thương Bác quá chừng, Bác giản dị và tiết kiệm quá, chắt chiu như người cha lo cho gia đình lớn, như cảnh nhà đông con mà vẫn còn túng thiếu.
Lúc ở Việt Bắc có một buổi Bác Hồ đi công tác về muộn, về qua văn phòng Bác nghỉ một lát vì mệt, anh Kháng nói với tôi:
– Bác mệt không ăn được cơm, cô nấu cho Bác bát cháo.
Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền nhổm dậy nói với tôi:
– Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội ấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi phải phí cơm thừa.
Tôi lặng đi, thương Bác vô cùng, đã mệt không ăn được mà lại nấu cháo bằng cơm nguội, cháo nấu bằng cơm nguội ăn không ngon nhưng biết làm thế nào, tôi đành phải chấp hành, nếu không làm theo lời Bác dặn sẽ bị phê bình.
Tiết kiệm là một trong những đức tính của Bác, theo Bác tiết kiệm không phải là bủn xỉn.
Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm.
Cần với kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của con người.
Thưa các đồng chí, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên, thanh niên bị xuống cấp về đạo đức, lối sống, chạy theo đồng tiền, nước ta đang còn nghèo, ăn chơi sa đoạ, sống xa hoa, tiêu xài hoang phí là một thực trạng báo động. Là Đảng viên, cán bộ công chức nhà nước, chúng ta phải học tập đức tính tiết kiệm không chỉ ở gia đình mà còn ở cơ quan, xã hội. Chỉ cần tiết kiệm một việc nhỏ nhưng góp lại thành nhiều sẽ trở thành có ích cho xã hội.
Có thể dẫn ra nhiều nữa những ví dụ về cách chi tiêu sử dụng tiền bạc, cơ sở vật chất của Bác, rất “Mâu thuẫn, thống nhất”: chắt chiu, tằn tiện nhưng vẫn rộng rãi, không hoang phí mà cũng không keo kiệt “ki bo”.
Thế giới loài người tự hào về Bác, là người Việt Nam đồng hương của Bác, chúng ta càng tự hào biết bao! Cách ứng xử của Bác, với tiền tài, với cái ăn, cái mặc, với cơ sở vật chất nói chung đâu có phải là cao quá mà chúng ta không học tập được, đâu có phải là một tòa thánh cấm uy nghiêm mà chúng ta không đặt chân lên được thềm bậc, dù là bậc thềm thứ nhất.
Kính thưa các đồng chí! Tình cảm của Bác, con người của Bác đã giành trọn và hiến dâng cả cuộc đời cho dân tộc. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Mỗi chúng ta được sống trong thời đại mới hãy xem cuộc đời hoạt động của Bác là một bài học lớn, lấy cái thiện làm đầu, lấy cái đức làm trọng, lấy cái tài phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ Quốc trở thành một con người tốt trong xã hội.
Xin chân thành cảm ơn sự lắng nghe của quý vị đại biểu, các đồng chí!
Xin trân trọng kính chào.
Bài thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Kính thưa quý vị Đại biểu!
Kính thưa ban Giám khảo, ban Tổ chức và toàn thể Hội thi “Kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh!”
Em rất vinh dự được góp mặt trong Hội thi hôm nay. Xin kính chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Kính thưa quý vị cùng các bạn học sinh thân mến! Xin thưa những tấm lòng tề tựu về đây để được cùng nhau hướng về Bác. Hồ Chí Minh! Ba tiếng ấy xiết bao thiêng liêng, thân thiết trong lòng bao thế hệ người Việt. Giờ đây, trong nhịp đập của mỗi trái tim chúng ta đều trào dâng những nỗi niềm xúc động, thành kính tự hào, biết ơn vị Cha già dân tộc.
Trong không khí đặc biệt này, xin cho phép em được chia sẻ với mọi người một câu chuyện nhỏ để tất cả cùng thổi bùng lên ngọn lửa khát vọng – khát vọng SỐNG, CHIẾN ĐẤU, LAO ĐỘNG, HỌC TẬP THEO GƯƠNG BÁC HỒ VĨ ĐẠI!
Thưa quý vị cùng các bạn HS thân mến!
Nghe theo lời Bác dạy: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ – Tùy theo sức của mình”, rất nhiều thế hệ học sinh chúng ta đã thực hiện phong trào Nghìn việc tốt. Mấy chục năm qua cho đến bây giờ, đã có cả một vườn hoa việc tốt dâng lên Bác Hồ như một lời tri ân thành kính của tuổi thơ Việt Nam. Và thuở sinh thời, Bác Hồ đã rất vui khi được dâng tặng những bông hoa tươi thắm như thế. Niềm xúc động và lời căn dặn chí tình của Bác trong một lần Người ghé thăm quê hương nghìn việc tốt cách đây hơn bốn mươi năm sẽ là câu chuyện nhỏ mà giàu ý nghĩa đối với tuổi nhỏ chúng ta ngày nay.
Bây giờ, em xin được gởi đến Hội thi nội dung câu chuyện Bác Hồ thăm vườn hoa nghìn việc tốt mà em tham khảo được ở tư liệu 117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh do ban Tuyên giáo Trung ương phát hành (trang 107,108).
Thưa quý vị và các bạn!
Trên mảnh đất cong cong hình chữ S của chúng ta, quả là đâu đâu đâu cũng đẹp, đúng như lời thơ ngân nga: Có gì đẹp hơn? – Tên sông, tên núi, tên người Việt Nam! Cái tên Tam Sơn, Bắc Ninh không chỉ trứ danh với những làn điệu dân ca quan họ mượt êm mà còn nổi tiếng là quê hương nghìn việc tốt. Và xứ sở Kinh Bắc tươi đẹp ấy đã vinh dự được đón Bác Hồ – một người Việt Nam cao đẹp nhất trên đời.
Đó là một buổi sáng đẹp như mơ. Sáng mồng một Tết Đinh Mùi (9/2/1967), Bác Hồ về Tam Sơn gặp mặt đại biểu các dân tộc Hà Bắc họp ở chùa Cảm Ứng.
Xe Bác vừa tiến vào sân trường, Nguyễn Thế Hải, học sinh lớp một đang nô đùa cùng bạn, bỗng reo lên:
– Bác Hồ! Bác Hồ!
– Bác Hồ về thăm quê hương nghìn việc tốt.
Cả đám thiếu nhi dừng chơi, xúm lại quây quanh xe Bác.
Đồng chí cần vụ từ trong xe bước ra nhắc nhở các em rồi mở cửa, mời Bác xuống.
Bác tươi cười nhìn các em rồi hỏi:
– Các cháu đang chơi Tết?
– Thưa Bác vâng ạ!
– Thưa Bác, năm mới, chúng cháu kính chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu!…
Các em đua nhau nói những điều từ lâu mong được thưa với Bác, nhưng hồi hộp quá, nói không được nhiều…
Bác Hồ rất vui . Nghe các em nói xong, Bác bảo:
– Các cháu làm nghìn việc tốt, có nhớ và làm theo những điều Bác dặn không ?
– Thưa Bác có ạ! – Nguyễn Thế Hải đứng nghiêm đọc liên hồi 5 điều Bác Hồ dạy như đọc đồng thanh ở lớp:
Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt, lao động tốt
Giữ gìn vệ sinh thật tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.
Tất cả đều cười. Nhưng ai cũng vui vì Hải đã trả lời đúng.
Khi Bác cùng các đồng chí lãnh đạo bước lên chùa, Đội thiếu nhi danh dự đã dâng hoa tặng Bác, Bác nhận bó hoa từ tay Liên đội trưởng Nguyễn Toàn Thắng rồi trao cho đồng chí cần vụ.
Bác hỏi Thắng:
– Cháu học có giỏi không? Có được phần thường của bác không?
– Thưa Bác có ạ!Cháu được nhận phần thưởng của Bác hai lần: Một lần một cuốn sổ , một lần hai quả cam.
– Cháu đã được phần thưởng của Bác, cháu phải giúp đỡ các bạn học thật giỏi, lao động thật giỏi … để nhiều người cùng được phần thưởng của Bác, thế mới tốt!
– Thưa Bác vâng ạ!
Chuyện Bác Hồ thăm vườn hoa nghìn việc tốt đã khép lại nhưng chắc chắn là tự trong tâm mỗi chúng ta đều muốn thưa với Bác rằng tất cả học sinh chúng cháu đều nguyện hứa như người Liên đội trưởng ở Tam Sơn, Bắc Ninh năm xưa. “Thưa Bác vâng ạ! Thưa Bác vâng ạ! Thưa Bác vâng ạ!” Chúng cháu xin khắc ghi và thực hiện tốt 5 điều Bác dạy. Chúng cháu sẽ nhắc nhở, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để không phụ lòng mong đợi, kỳ vọng của Bác:
Bác mong con cháu mau khôn lớn
Nối gót ông cha bước kịp mình.
Kính thưa Bác Hồ – Bác Hồ ngàn lần yêu quý của chúng cháu! Riêng cháu, cháu thay mặt tuổi nhỏ Trường Tây Giang, xin gởi lòng mình vào bài ca: Hoa thơm dâng Bác.
Những chiếc khăn thắm hồng mang niềm tin rực cháy như những bông hoa tươi hoa đẹp trăm miền. Cùng về đây khoe sắc thắm, cùng về đây ngát hương thơm. Bông hoa nghìn việc tốt bông hoa học hành chăm, bông hoa xây dựng Đội để xứng đáng mang tên cháu ngoan Bác Hồ.
Thi đua nghìn việc tốt, thi đua học hành chăm, thi đua xây dựng Đội để xứng đáng mang tên cháu ngoan Bác Hồ.
Kính thưa quý vị và các bạn! Tiếng hát tha thiết ấy sẽ đồng hành cùng em, sẽ sóng bước cùng tuổi thơ Tây Giang trên con đường học tập, rèn luyện, thi đua để mai sau góp phần xây dựng cho mảnh đất bên bờ sông Côn thơ mộng – nơi đã từng có vinh dự được Bác Hồ ghé chân trước khi lên đường bôn ba hải ngọai để cứu nước, cứu dân; cũng là nơi cụ Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh của Người – đã một thời nổi danh là một ông quan yêu nước, thương dân ; góp phần vào công cuộc đổi mới đi lên cho một nước Việt Nam “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Bài dự thi “Chủ tịch nước cũng không có đặc quyền”
(Theo: Dương Thị Thu Thuỷ)
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Ngay từ thuở còn ấu thơ tôi đã được nghe những lời ru ngọt ngào của mẹ:
“Tháp Mười đẹp nhất bông sen,
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Vâng! Chủ tịch Hồ Chí Minh – một con người sinh ra từ chân lí – người Việt Nam đẹp nhất. Người đã đi xa “Phòng lặng rèm buông tắt ánh đèn” nhưng cuộc đời, sự nghiệp và tấm gương đạo đức của Người đã trở thành bất tử. Người là kết tinh và toả sáng những gì ưu tú nhất, tốt đẹp nhất của trí tuệ và đạo đức Việt Nam. Phẩm chất và đạo đức của Người mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho dân tộc Việt Nam noi theo.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Đạo đức là cái quý nhất, là linh hồn của một con người, một xã hội, một chế độ, một nền văn minh”. Trong suốt cuộc đời của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức của người cách mạng. Tư tưởng đạo đức của Người bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc đã được hình thành trong suốt chiều dài của lịch sử, kế thừa những tinh hoa đạo đức của nhân loại để lại. Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng và cùng Đảng ta dày công xây dựng bồi đắp đó chính là “Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư”. Người coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông núi. Bởi lẽ con đường giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước không phải là một đại lộ thẳng tắp, nó đầy chông gai và gian khổ đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mọi người, mọi thế hệ. Việc chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng là công việc làm thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, và toàn xã hội.
Ngạn ngữ có câu. “Mọi việc bắt đầu từ lời nói”. Đại thi hào Gớt lại viết: “Khởi thủy là hành động”. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh lời nói luôn đi đôi với hành động, điều đó đã trở thành một nguyên tắc sống. Người không chỉ là nhà giáo dục đạo đức mà còn là biểu tượng cao đẹp của đạo đức. Gần nửa cuộc đời bôn ba tìm đường cứu nước, chịu bao đắng cay gian khổ Người vẫn một lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân, sống giản dị, thanh bạch, gần gũi yêu thương con người. Cuộc đời của Người, tấm lòng của Người với quê hương đất nước là câu chuyện sinh động nhất về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong vô vàn những mẩu chuyện về Người, tôi thực sự tâm đắc và thấm thía trước bài học đạo đức lớn về tấm lòng trung hiếu, nhân nghĩa của Người qua câu chuyện: “Chủ tịch nước cũng không có đặc quyền”.Câu chuyện được kể lại theo lời kể của đồng chí Nguyễn Dung in trong cuốn: “Bác Hồ với chiến sĩ”
PHẦN II: NỘI DUNG CÂU CHUYỆN
Chủ tịch nước cũng không có đặc quyền
“Đầu năm 1946, cả nước ta tiến hành cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên. Gần đến ngày bầu cử, tại Hà Nội là nơi Bác Hồ ra ứng cử có 118 vị Chủ tịch Uỷ Ban nhân dân và đại biểu các giới hàng xã, đã công bố một bản đề nghị: “Yêu cầu Cụ Hồ Chí Minh không phải ứng cử trong cuộc tổng tuyển cử sắp tới. Chúng tôi suy tôn và ủng hộ vĩnh viễn Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” Từ nhiều nơi trong cả nước đồng bào viết thư đề nghị Bác không cần ra ứng cử ở một tỉnh nào, nhân dân cả nước đồng thanh nhất trí cử Bác vào quốc hội.Trước tình cảm tin yêu đó của nhân dân, Bác viết một bức thư ngắn cảm tạ đồng bào và đề nghị đồng bào để Bác thực hiện quyền công dân của mình: “Tôi là công dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà nên tôi không thể vượt khỏi thể lệ của tổng tuyển cử đã định, tôi đã ra ứng cử ở Hà Nội nên tôi không thể ra ứng cử ở nơi nào nữa. Xin cảm tạ đồng bào đã có lòng yêu tôi và yêu cầu toàn thể đồng bào hãy làm tròn nhiệm vụ người công dân trong cuộc tổng tuyển cử sắp tới”.
Sau ngày hoà bình lập lại, có lần Bác đi thăm một ngôi chùa cổ. Hôm ấy là ngày lễ, các vị sư, khách nước ngoài và nhân dân đi lễ rất đông. Bác vừa vào chùa vị sư cả liền ra đón Bác và khẩn khoản xin Người đừng cởi dép nhưng Bác không đồng ý. Đến thềm chùa Bác dừng lại để dép ở ngoài như mọi người song mới bước vào và giữ đúng mọi nghi thức như người dân đến lễ. Trên đường từ chùa về, khi vào đến thành phố xe Bác đến một ngã tư thì vừa lúc đèn đỏ bật. Sợ phố đông xe dừng lâu, đồng chí bảo vệ định chạy lại đề nghị đồng chí công an bật đèn xanh để Bác đi. Bác hiểu ý ngăn lại: “Các chú không được làm thế phải tôn trọng và gương mẫu chấp hành luật lệ giao thông, không được bắt luật pháp dành quyền ưu tiên riêng cho mình”.
(Theo Nguyễn Dung – Trong Bác Hồ với chiến sĩ – Tập 1 – NXBQĐ 2001)
PHẦN III: PHÂN TÍCH Ý NGHĨA VÀ KẾT LUẬN
Một câu chuyện nhỏ nhưng lại là một bài học đạo đức lớn đã để lại trong tôi biết bao suy nghĩ và cảm xúc. Tôi chợt nhớ tới câu nói nổi tiếng của một nhà hiền triết phương đông: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” có nghĩa là Dân là qúy, Nhà nước là thứ yếu, Vua là không đáng kể. Tiếp thu tư tưởng dân là quý, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì qúy bằng nhân dân”. Có thể nói đó chính là tư tưởng dân chủ của Người, nó đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.Dân chủ không chỉ là một phạm trù chính trị mà còn là một phạm trù đạo đức bởi nó gắn với lý tưởng nhân văn, tôn trọng con người, tất cả vì con người và do con người. Cả cuộc đời của Bác là một tấm gương mẫu mực về dân chủ. Từ công việc quốc gia đại sự đến những việc làm trong cuộc sống hàng ngày Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc thực hành dân chủ. Là Chủ tịch nước, là lãnh tụ cao nhất của Đảng ở cương vị đầy quyền lực nhưng Người không bao giờ nghĩ đến việc dùng quyền lực. Người luôn coi mình là nô bộc của dân và luôn tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt là quyền dân chủ chính trị được thể hiện rõ trong tổng tuyển cử. Không đặt mình ở cương vị là Chủ tịch nước mà hơn tất cả với tư cách là một công dân có quyền bầu cử, ứng cử. Người nói: “Tôi là công dân của một Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà nên tôi không thể vượt khỏi thể lệ của tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ra ứng cử ở Hà Nội nên cũng không thể ra ứng cử ở nơi nào nữa” và Người yêu cầu nhân dân hãy thực hiện quyền công dân của mình để đảm bảo tự do dân chủ thực sự.
Trong tư tưởng dân chủ của mình Bác cho rằng dân chủ phải gắn với quyền hạn. Quyền hạn đi đôi với nghĩa vụ cũng có nghĩa là dân chủ phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Sống trong một xã hội dân chủ ai cũng phải tuân theo những quy tắc chung. Xã hội dân chủ là một đất nước có trật tự kỷ cương đảm bảo cho mọi người cùng có quyền tự do dân chủ như nhau. Đứng đầu Nhà nước, Người rất nghiêm khắc đòi hỏi mọi tổ chức Đảng cùng tuân thủ pháp luật, không ai được đứng trên hay ngoài pháp luật. Đó chính là tư tưởng “phụng công thủ pháp”. Sự thi hành pháp luật còn quan trọng hơn là tạo ra nó, chính vì thế là một lãnh tụ được dân qúy dân yêu nhưng không bao giờ Người cho phép mình đứng trên nhân dân, không bao giờ Người đòi hỏi cho mình bất cứ một ngoại lệ nào có tính chất đặc quyền đặc lợi. Bước chân vào ngôi chùa cổ Người đã tuân theo đúng quy định với khách thập phương: cởi dép vào lễ chùa. Đó là một cử chỉ giản dị mà vô cùng cao đẹp thể hiện cái tâm trong sáng thành kính của Người trước sự linh thiêng chốn chùa chiền. Đứng trước một ngã tư đèn đỏ, Người đã nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ giao thông như bao người dân khác. Chỉ vậy thôi cũng đủ cho ta thấy cái lớn lao vĩ đại của một con người luôn tôn trọng kỷ cương phép nước không nhận bất cứ một ngoại lệ, một đặc quyền nào cho riêng mình.
Không chỉ vậy Người còn luôn tôn trọng và đề cao quyền tự do dân chủ của con người. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Người đã nhắc lại lời tuyên bố trong Tuyên ngôn Nhân quyền-Dân quyền 1791 của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do bình đẳng về quyền lợi” và Người khẳng định : “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Lẽ phải đó đã được Người thực hiện bằng chính cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh không theo một tôn giáo nào, nhưng không vì thế mà Người không coi trọng vấn đề tôn giáo. Người chủ trương thực hiện dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo. Dù theo đạo Phật hay đạo Thiên chúa hay bất cứ một tôn giáo nào đều giáo dục con người ta hướng tới cái thiện cái đẹp. Chính vì thế khi bước chân vào ngôi chùa cổ Người thực sự như một phật tử thành tâm hướng thiện. Trước con mắt của du khách nước ngoài, của các vị tăng ni phật tử và bà con, một vị Chủ tịch nước gần gũi hoà mình với nhân dân, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đã khiến họ vô cùng cảm phục.
Đất nước ta đã hội nhập và đang trên đà phát triển. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được chúng ta không thể phủ nhận những tồn tại yếu kém cũng như những khó khăn thử thách ở phía trước. Vẫn còn đó một số ít cán bộ chưa thực sự gương mẫu, tham ô tham nhũng tài sản của nhà nước, quan liêu hách dịch, cậy thế ỷ quyền nhũng nhiễu nhân dân. Mặt khác các thế lực thù địch trong và ngoài nước với những âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm hạ thấp uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với sự nghiệp cách mạng, luôn đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta thực hiện vấn đề dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo. Đứng trước các con số khổng lồ về số vụ tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay, tôi thiết nghĩ câu chuyện trên sẽ là bài học đạo đức lớn cho chúng ta noi theo. Vào những năm đầu khi đất nước ta mới giành được độc lập, tuy là một nhà nước còn non trẻ nhưng Bác đã rất chú trọng đến các vấn đề thiết thực trong đời sống như dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo và an toàn giao thông.Việc Bác gương mẫu thực hiện đúng những quy định về bầu cử, về luật lệ giao thông đã thể hiện được cái tâm và cái tầm của một người lãnh đạo hết lòng lo cho dân cho nước.Và tôi chợt hiểu:
“Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên Người: Hồ Chí Minh
Như một niềm tin như dũng khí,
Như lòng nhân nghĩa đức hi sinh”
Những mẩu chuyện không xa vời, huyễn hoặc mà rất gần gũi thiết thực đã trở thành một di sản tinh thần quý báu của dân tộc. Đó chính là nhân cách Hồ Chí Minh mà ngày nay đã trở thành nhân cách dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam trong thời đại mới. Vượt qua lửa đạn của chiến tranh, vượt qua quy luật khắc nghiệt của thời gian, những bài học đạo đức của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Mọi thế hệ người Việt Nam đã và đang nguyện suốt đời học tập rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Có biết bao con người đã dành trọn cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nêu gương đạo đức Hồ Chí Minh cho tất cả chúng ta học tập. Trong vô vàn những con người ấy phải kể đến người học trò xuất sắc của Hồ Chí Minh: cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Con người ấy, cuộc đời ấy đã làm xúc động hàng triệu trái tim người Việt Nam bằng tấm gương đạo đức, bằng sự cống hiến hết mình cho quê hương đất nước.
Tiếp nối truyền thống đạo đức của dân tộc và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh- Người thầy vĩ đại của mọi thời đại- là một giáo viên, một cán bộ đảng viên tôi đã và đang không ngừng rèn luyện để có được những phẩm chất đạo đức cách mạng không thể thiếu của người cộng sản. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi giáo dục là quốc sách hàng đầu, khi toàn xã hội thực hiện cuộc vận động “hai không” với bốn nội dung nhằm chấn hưng nền giáo dục Việt Nam, tôi đã, đang và sẽ không ngừng trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để trở thành một tấm gương đạo đức và tự học. Là giáo viên chúng tôi không chỉ dạy chữ, đem tri thức của nhân loại đến cho các em mà còn dạy các em nhân cách làm người. Đó là một nhiệm vụ vô cùng cao cả và thiêng liêng, chính vì thế tôi luôn cố gắng rèn mình, sửa mình từ lời nói, cử chỉ, hành động cho đến những việc làm để có thể nêu gương tốt trước học sinh. Là một nhà giáo trẻ, tôi nguyện suốt đời sống, chiến đấu, học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giáo dục những lớp người có thể kế tục sự nghiệp quang vinh mà Người để lại.
Từ những bài học đạo đức của Người, đặc biệt qua câu chuyện tôi vừa kể trên đây, tôi thực sự xúc động và kính phục trước cuộc đời của một vị lãnh tụ vĩ đại, một tấm gương mẫu mực của mọi thời đại. Tôi luôn thầm hứa và nhắc nhở mình phải sống xứng đáng với danh hiệu cao cả: Người giáo viên nhân dân.
Có thể nói cuộc đời và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử và đời sống tâm hồn dân tộc Việt Nam. Đó sẽ là một dòng máu đỏ tươi chảy trong huyết quản của mỗi người dân đất Việt. Đó chính là chất người cộng sản toả ánh hào quang soi đường chỉ lối cho mọi thế hệ người Việt, cho bạn, cho tôi và cho tất cả chúng ta. Qua những câu chuyện kể về Người có thể mỗi người sẽ có những cảm nhận khác nhau nhưng bao trùm lên tất cả là tình cảm trân trọng biết ơn. Xin phép được mượn những câu thơ của Tố Hữu để bày tỏ tấm lòng thành kính của con với Người:
“Cảm ơn Người, Hồ Chí Minh vĩ đại.
Bốn nghìn năm ta lại là ta
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Hôm nay mười tuổi cầm hoa tặng Người”.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay đã là Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với sáu mươi ba mùa xuân rực rỡ, kết thành đóa hoa kính dâng lên Người.
Bài dự thi “Vàng là ở hai bàn tay lao động”
Trong số các học trò của Bác trong thời gian Bác dạy học ở trường Dục Thanh Phan Thiết, Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi có kể lại:
Tôi còn nhớ mãi buổi học đầu tiên của thầy Thành:
Núi kia là núi của ai
Sông xanh nước biếc chảy dài đi đâu?
Thầy giáo Thành bảo núi thì có rừng. Trên rừng rất nhiều gỗ quý, nhiều cây thuốc quí và muông thú quý. Trong núi có nhiều khoáng sản, dưới sông có nhiều cá ngon, nước sông có nhiều phù sa. Tổ tiên ta kiên cường, giang sơn ta gấm vóc.
Ông Chi học xong rồi Ông thắc mắc tại sao thầy giáo Nguyễn Tất Thành dạy rừng núi, sông ngòi, đất đai là của ta, thế mà bây giờ Tây nó lại lấy. Đời sống của người lao động thì khổ cực, nghèo đói. Ông chỉ suy nghĩ và càng thấm thía những lời giảng của thầy giáo Thành gieo vào lòng tuổi trẻ nhiều ý nghĩa. Ông và các bạn ở trường Dục Thanh cũ dần dần ghét Tây.
Từ đó, ông bắt đầu đi tìm cách mạng và ông cũng như nhiều bạn bè khác trở nên người Công sản.
Những bài học gần gũi của Bác ngày ấy đã góp phần gieo những hạt giống cách mạng cho ngày sau.
Rời Phan Thiết, Bác Hồ đi vào Sài Gòn học nghề rồi Bác xin vào làm dưới tàu chuyên chở thực phẩm cho Pháp ở thuộc địa. Khi Bác rủ thêm một người bạn cùng đi Pháp, Người bạn đó trả lời:
Ta đi Pháp sẽ chết đói thôi, bởi vì chúng ta không có tiền.
Bác đã giơ tay ra và nói:
– Tiền là ở đây, vàng là ở đây. Chúng ta còn trẻ. Chúng ta sẽ làm lụng để sống.
Với Câu hỏi Tại sao Bác Hồ lại nghĩ sang Pháp tìm đường cứu nước? Trong cuốn lược dịch “Binh thư Tôn Tử” của Bác cho chúng ta thấy đó là chiến lược của Bác. Bác vẫn thường dạy học trò rằng “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, chúng ta càng thấy rõ việc Bác đi Pháp là suy nghĩ chín chắn. Bác thấy những từ Pháp “Tự do, bình đẳng, bác ái rất hay, Bác muốn biết đằng sau những từ ấy ẩn giấu cái gì…”
Bác đã đi khắp năm châu, bốn bể trải qua nhiều nghề vất vả. Bác làm việc rất khẩn trương để có đủ tiền sống. Ngoài việc, dành nhiều thời gian vào thư viện đọc sách, Bác còn tranh thủ đi nghe người ta giảng thuyết để học tập. Ở Pháp, Bác tham gia phong trào của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp rồi Bác vào đảng xã hội Pháp.
Khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Bác vui mừng, phấn khởi.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản thành lập, Lênin có đọc bản luận cương về cách mạng thuộc địa. Khi tiếp thu bản luận cương ấy, Bác đã nói:
Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất xúc động, phấn khởi sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng phát khóc, ngồi một mình trong phòng mà nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày, đây là cái cần thiết cho chúng ta?
Bác tiếp thu điều này rất sâu sắc, từ đó Bác tìm ra con đường đúng đắn để giành độc lập tự do cho dân tộc. Báo Gramma Cuba đã viết: “Nhân loại tiến bộ trên thế giới đời đời mắc nợ nhân dân Việt Nam”. Dư luận nhiều nước trên thế giới nêu rõ: Các Mác đề ra chủ nghĩa xã hội khoa học, Lênin là người tổ chức thực hiện. Lênin là người đề ra cách mạng ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh là người tổ chức thực hiện và rút ra những kinh nghiệm quý báu.
Lời Bác dạy:
Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên.
Chỉ có hai bàn tay trắng mà Bác xây dựng cả sơn hà.
Vàng là ở đôi bàn tay lao động, như thế đấy!
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp