Non Binary là gì?
Non-binary hay còn gọi là phi nhị nguyên giới. Đây là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả một người rơi vào một quang phổ tâm lý và xã hội giữa nam và nữ. Có thể nói, một người non-binary (phi nhị nguyên) là những người nhìn nhận bản thân mình không phải là nam, cũng không phải là nữ. Họ nhìn nhận mình là một giới khác.
Thuật ngữ non binary được sử dụng để mô tả một số khái niệm khác nhau và nó thường được sử dụng thay thế lẫn nhau với các từ khác như genderqueer. Điều này tạo ra một số nhầm lẫn về ý nghĩa của các thuật ngữ này và cách chúng được áp dụng.
Người chuyển giới – transgender, là người không xác định được giới tính sinh học mà họ sinh ra. Nhiều người non binary sẽ xác định là người chuyển giới, nhưng những người khác vẫn có thể xác định giới tính sinh học của họ ở một mức độ nào đó.
Non-conforming là gì?
Đây là thuật ngữ chỉ một bản dạng giới khác. Những người này thường có xu hướng đi ngược lại với vai trò giới và được hình thành từ rất lâu. Nói cách khác những người này không tuân theo quy chuẩn về giới tính. Ví dụ con gái thích chơi siêu nhân hoặc con trai lại thích chơi búp bê. Tiếng anh là “gender nonconforming”.
Đối với những người có bản dạng giới khác với giới tính sinh học của họ thường sẽ muốn thay đổi cơ thể của mình bằng cách dùng liệu pháp về hoócmôn, đi phẫu thuật, hay dùng các phương pháp khác để có một cơ thể giống nhất với giới tính mà họ muốn. Quá trình chuyển đổi thông qua các can thiệp về y học như vậy thường được gọi là quá trình chuyển đổi giới tính Transgender.
Genderqueer là gì?
Vốn ban đầu, từ “queer” được dùng để miệt thị công đồng LGBT+. Nhưng về sau, cộng đồng LGBT+ muốn lấy “queer” mang một ý nghĩ tự hào, đứng lên chống lại những định kiến xã hội.
Thuật ngữ “queer” được sử dụng để chỉ chung các nhóm tính dục thiểu số hay những nhóm cảm thấy mình ở ngoài rìa những chuẩn mực chung của xã hội về giới và tính dục. Và genderqueer cũng có thể hiểu là một khái niệm rất rộng, bao trùm tất cả những nhóm bản dạng giới không thuộc vào chuẩn mực giới của xã hội.
Phân biệt Non Binary, Non-conforming và Genderqueer
Sau khi đã giải thích được non-binary là gì, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu kĩ hơn về sự khác nhau giữa ba bản dạng giới này. Non binary, nonconforming và genderqueer chỉ tương tự nhau chứ không giống nhau hoàn toàn. Chẳng hạn, non binary có thể dùng để mô tả cách một người định danh về giới lẫn thể hiện giới, còn non-conforming chỉ được dùng để mô tả cách một người thể hiện giới tính.
Có thể thấy, ba từ này có thể được dùng thay phiên nhau, nhưng không phải trường hợp nào cũng thế. Nhiều người dùng chung một thuật ngữ để miêu tả bản thân nhưng chưa hẳn họ đã có trải nghiệm giống nhau. Theo Lou Himes – nhà tâm lý học lâm sàng ở New York cho biết: “Những thuật ngữ này đều xuất phát từ những trải nghiệm cá nhân.”
Ví dụ, không phải tất cả những người chuyển giới đều là non-conforming. Hay non-conforming có thể dùng cho cả những người hợp giới và non-binary. Tương tự, nhiều người genderqueer có thể là những người hợp giới nếu họ muốn dùng từ này để miêu tả bản thân.
Biểu tượng của phi nhị nguyên giới
Vào năm 2014, Kye Rowan thiết kế lá cờ Phi nhị nguyên giới
Lá cờ này bao gồm 4 sọc, theo thứ tự từ trên xuống dưới:
- Vàng đại diện cho những người nằm ngoài hê nhị phân giới.
- Màu trắng đại diện cho những người có nhiều hay tất cả các giới.
- Tím đại diện cho những người cảm thấy giới của họ có sự pha trộn giữa nam và nữ.
- Màu đen cuối cùng đại diện cho những người không có giới.
Lịch sử của phi nhị nguyên giới
Thomas Hall (1603 – sau 1629) là một người hầu Anh quốc tại vùng thuộc địa Virginia. Hall được nuôi dạy như một người con gái, sau đó hiện diện như một người đàn ông nhằm tham gia vào quân đội. Sau khi rời khỏi quân đội, Hall thay đổi thể hiện giới của mình giữa tính nam và tính nữ theo từng ngày, cho tới khi Hall bị buộc tội đã quan hệ tình dục với cả đàn ông lẫn đàn bà. Tùy thuộc vào việc một người là nam hay nữ sẽ phải nhận các hình thức phạt khác nhau. Qua nhiều lần giám định, kết quả về giới tính của Hall qua mỗi lần đều mâu thuẫn với nhau, từ đó kết luận rằng Hall là một người liên giới tính. Vào thời đó, luật pháp yêu cầu nếu tòa kết luận một người là liên giới tính thì người đó sẽ phải sống như một người nam hoặc nữ, tùy thuộc vào việc cơ quan của họ tương đồng với cơ quan của giống đực hay giống cái nhất. Trong trường hợp này, toà án kết luận rằng “anh ta là một người đàn ông và phụ nữ”, và đưa ra chỉ thị rằng Hall sẽ phải mặc quần áo nam và quần áo nữ cùng lúc. Tuy nhiên, liên giới tính không có quan hệ gì với phi nhị nguyên giới, và như vậy người liên giới tính có thể nhận diện bản thân là một người nam, nữ hoặc một hay vài giới nào khác. Hall dường như là một người liên giới tính không nhận diện bản thân hoàn toàn là nam hay nữ, có thể hiện giới linh hoạt và được công nhận là người mang hai giới tính.
Public Universal Friend (1752 – 1819) là một người truyền giáo vô giới, đã di chuyển xuyên suốt phía đông của Hoa Kỳ để tuyên truyền thuyết thần học dựa trên Giáo Hữu hội, nhóm mà vẫn luôn tích cực chống lại chế độ nô lệ. Friend tin rằng Chúa đã tái sinh mình từ một cơn ốm nặng ở tuổi thứ 24 với một linh hồn mới không có giới. Friend từ chối việc được gọi bằng tên khai sinh, ngay cả trong giấy tờ pháp lý, và yêu cầu mọi người không dùng bất kì đại từ xưng hô nào để chỉ mình. Những người đi theo tôn trọng những yêu cầu này, tránh đi việc sử dụng đại từ xưng hô ngay cả trong nhật ký riêng tư, và chỉ gọi là “the Public Universal Friend”, hay ngắn gọn lại thành “the Friend”, hay “P.U.F”. Friend mặc quần áo mà theo như thời điểm đó mô tả là trung tính, thông thường là áo choàng đen. Những người đi theo của Friend thường được biết tới là “Society of Universal Friend”, và bao gồm người da đen, và những người phụ nữ không kết hôn thực hiện đảm nhận các vai trò và công việc được cho là của nam giới trong cộng đồng của họ.
Jens Andersson là một người phi nhị nguyên giới sinh ra vào khoảng năm 1760 tại Gran, Na Uy với tên khai sinh là Marie Andersdotter và được chỉ định là nữ sau sinh. Người này sau đó chuyển tới Strømsø, Na Uy, vào năm 1778 và hiện diện như một người nam. Vào năm 1781, Andersson kết hôn với Anne Kristine Mortensdotter tại nhà thờ Strømsø gần Drammen. Sau hôn lễ, cô dâu bí mật nói với cho mục sư rằng cô nghĩ chồng của cô có thể là một người phụ nữ. Ngay lập tức, hôn lễ bị hủy bỏ, đồng thời Andersson cũng bị buộc tội thông dâm. Điều này được cho là “sự gian dâm chống lại quy luật của tự nhiên”, tức bao gồm vô số những hình thức tình dục bị ngăn cấm khác, trong đó gồm hành vi tình dục giữa hai người phụ nữ. Theo pháp luật thời đó, bất kì hình thức thông dâm nào đều sẽ bị xử phạt bởi ngọn lửa thiêng. Andersson bị giám định, bị bỏ tù, bị tra hỏi. Vụ án được gọi là “Hiện tượng hèn hạ chống lại tự nhiên”. Trong phiên tòa, Andersson được hỏi rằng: “Anh là đàn ông hay đàn bà?”. Câu trả lời được ghi lại rằng: “Hand troer at kunde henhøre til begge Deele” (“Anh ấy nghĩ rằng mình là cả hai”, hoặc “Anh ấy tin rằng mình thuộc về cả hai giới”). Bằng một cách nào đó, Andersson vượt ngục thành công, vậy nên phiên tòa không thể đưa ra được lời tuyên án cuối cùng. Ngoài ra, không có bất kì thông tin gì thêm về cuộc sống của người này.
Romaine-la-Prophétesse là thủ lĩnh của một nhóm nô lệ bạo loạn trong khoảng 1791 – 1792. Romaine nhận diện là một nữ tiên tri, ăn mặc như một người phụ nữ, và cho rằng bị ám bởi một linh hồn nữ giới, nhưng đồng thời cũng nhận diện bản thân là con trai của Đức Mẹ Đồng Trinh, và sử dụng đại từ xưng hô chỉ nam để mô tả bản thân trong những lá thư ra lệnh. Theo những học giả thời nay, Romaine có thể là một người linh hoạt giới hay chuyển giới, hoặc cũng có thể là một người song giới.
Jennie June đã viết ba tác phẩm tự truyện: “The Autobiography of an Androgyne” (xuất bản năm 1918), “The Female-Impersonators” (xuất bản năm 1922), và “The Riddle of the Underworld” (được sáng tác vào năm 1921, tuy nhiên bị mất và được tìm thấy vào năm 2010). Mục tiêu của June trong việc viết những cuốn sách này nhằm tạo nên một môi trường cho lớp thanh niên không tuân theo quy chuẩn về giới và tính dục, đồng thời nhằm ngăn cản lớp trẻ khỏi việc tự sát.
Trong thời kì Chiến tranh Thế giới Thứ hai, một nghệ sĩ siêu thực người Do Thái Claude Cahun (người mô tả giới của họ là trung lập: “Nam? Nữ? Cũng còn tùy vào hoàn cảnh nữa. Chỉ có ‘trung lập’ là nhãn giới tôi thấy phù hợp nhất với mình”) cùng với bạn đời của mình, Marcel Moore (cũng là một người nghệ sĩ Do Thái chọn cho mình một cái tên trung tính) tham gia vào phong trào kháng chiến và hoạt động chống lại quân phát xít trong thời Pháp chiếm đóng nước Đức. Vào năm 1944, Cahun và Moore bị bắt bởi quân phát xít và bị tuyên án tử hình, tuy nhiên bản án không hề được diễn ra bởi vì hòn đảo nơi họ sống tách biệt hoàn toàn với phạm vi vùng của Đức bị chiếm đóng.
Vào thế kỉ thứ 17, quy luật tiếng Anh đôi lúc quy cho những người có giới không thuộc hệ nhị phân sử dụng danh xưng “nó” (it/its), mặc dù đây là một cách chỉ mang tính miệt thị, nhưng đây lại được quan niệm là danh xưng phù hợp với ngữ pháp tiếng Anh nhất vào thời đó. Đây là một ví dụ về sự công nhận pháp lý của những người nằm ngoài hệ nhị phân giới.
“They” đã được dùng làm danh xưng trung tính phù hợp với ngữ pháp tiếng Anh trong hàng trăm năm. Tuy nhiên, vào năm 1745, những người đề ra quy tắc ngữ pháp cho rằng điều này đã không còn phù hợp nữa. Lý do họ đưa ra đó là do danh xưng trung tính không tồn tại trong ngôn ngữ Latin (ngôn ngữ được cho là tốt hơn tiếng Anh), vậy nên tiếng Anh cũng không nên dùng. Thay vào đó, họ đề xuất nên sử dụng danh xưng chỉ nam (he/him) làm danh xưng trung tính. Điều này đã khơi mào những tranh cãi xoay quanh những vấn đề về sự chấp nhận danh xưng trung tính trong tiếng Anh và đã được kéo dài trong suốt nhiều thế kỉ liền.
Vào năm 1990, Bản tuyên ngôn về tính dục song tính (The Bisexual Manifesto) được xuất bản trong tạp chí dành cho cộng đồng song tính “Anything That Moves” khẳng định sự tồn tại của các bản dạng phi nhị giới: “Tính dục song tính là một xu hướng tính dục linh hoạt và bao quát. Đừng mặc định rằng tính dục song tính về bản chất mang tính nhị nguyên: rằng tính dục của chúng ta có hai mặt và chúng ta phải tham gia với cả hai giới cùng một lúc để trở thành một con người đúng nghĩa. Thật ra thì, đừng mặc định rằng chỉ có mỗi 2 giới tồn tại”.
Vào năm 1992, ngay sau sự xuất bản của “Transgender Liberation: A Movement Whose Time Has Come” bởi Leslie Feinberg, thuật ngữ transgender đã được mở rộng ra và trở thành một thuật ngữ cho mọi sự đa dạng của giới nói chung. Điều này được nêu bật vào năm 1994, khi mà nhà hoạt động quyền Kate Bornstein có viết rằng: “Tất cả các hạng mục của transgender có một điểm chung, đó là chúng phá vỡ một hay nhiều các quy luật về giới: “Điểm chung của tất cả chúng ta chính là ta đều là những người nằm ở bên ngoài các quy luật về giới, từng người một chúng ta”.
Thuật ngữ “Genderqueer” bắt đầu được sử dụng vào giữa những năm 1990s bởi các nhà hoạt động quyền. Riki Anne Wilchins thường được gắn với thuật ngữ này và họ cũng là người nhận bản thân đã đặt ra thuật ngữ ấy. Wilchins sử dụng thuật ngữ này trong một bài viết vào năm 1995 được in trong ấn phẩm đầu tiên của In Your Face nhằm để mô tả những người không tuân theo vai trò giới. Họ cũng là một trong số những người đóng góp chính trong tuyển tập Genderqueer: Những Tiếng Nói Vượt Ra Ngoài Hệ Nhị Phân được ra đời vào năm 2002. Wilchins cũng khẳng định bản thân là một người Genderqueer trong tự truyện của mình được xuất bản vào năm 1997.
Mạng internet đã phổ biến thuật ngữ này, khiến một lượng lớn người biết tới vô cùng nhanh chóng. Vào năm 2008, tờ The New York Times đã sử dụng thuật ngữ Genderqueer. Vào những năm 2010s, thuật ngữ này còn được phổ biến hơn khi càng nhiều người nổi tiếng công khai nhận dạng bản thân là những người không tuân theo vai trò giới. Vào năm 2012, dự án Intersex & Genderqueer Recognition chủ trương tán thành việc mở rộng các lựa chọn về giới trên giấy tờ pháp lý. Vào năm 2016, Jamie Shupe trở thành người đầu tiên được công nhận là phi nhị giới trên giấy tờ pháp lý tại Hoa Kì.
Ngày Quốc tế Phi nhị giới lần đầu được tổ chức vào ngày 14 tháng 7 năm 2012 với mục đích nhằm tôn vinh và tập trung vào những người phi nhị giới, sự thành công và những đóng góp của họ, đồng thời nâng cao nhận thức về sự tồn tại của họ cũng như những vấn đề mà họ phải đối mặt. Katje của Fierce Femme’s Black Market, người đã đề xuất ngày này chọn ngày tháng như vậy bởi vì ngày 14 tháng 7 chính xác là ngày nằm giữa ngày Quốc tế Đàn ông và ngày Quốc tế Phụ nữ.
Vào năm 2017, tại nước Mỹ, bang California đã thông qua bộ luật Gender Recognition Act để “đảm bảo rằng người liên giới tính, người chuyển giới và người phi nhị nguyên đang gặp phải vấn đề về giấy tờ có được sự công nhận pháp lý về bản dạng giới chính xác của họ”.
Vào năm 2018, bang Washington đã cho phép giới “X” được ghi trên giấy tờ, với luật đã khẳng định rằng:
“X có nghĩa một giới nào đó mà không phải nam hay nữ, bao gồm, nhưng không chỉ giới hạn ở những giới sau: liên giới tính, vô giới, amalgagender, androgynous, song giới, bán giới, chuyển giới nam, linh hoạt giới, đa dạng giới, chuyển giới nữ, neutrois, phi nhị nguyên giới, toàn giới, giới tính thứ ba, chuyển giới, transsexual, Two Spirit và không xác định.”
Vào năm 2019, từ điển Collins thêm một mục cho từ “Non-binary”.
Ngày Quốc tế Phi nhị nguyên giới
Ngày Quốc tế Phi nhị giới (tiếng Anh: International Nonbinary People’s Day) được tổ chức vào ngày 14 tháng 7 hàng năm. Mục đích của ngày này là để nâng cao sự nhận thức về sự hiện diện cũng như những vấn đề mà người phi nhị giới phải đối mặt quanh thế giới. Ngày này được tổ chức đầu tiên vào năm 2012.
Một số bài hát nổi tiếng của cộng đồng LGBTQ+
Sam Smith, vốn được biết đến như một giọng ca đến từ Anh Quốc gây dấu ấn với khán giả từ những ngày đầu tiên của sự nghiệp nhờ những bản tình ca u buồn cùng hình ảnh chàng trai ánh mắt lúc nào cũng đượm buồn đầy thu hút.
Love goes
I hope you understand
That I have to send you away
You may not understand
But I know that you will one day
You’re broken, I know this
And if you knew it
You would love me a whole different way
But that’s how love goes, goes
That’s how love goes, goes, goes, goes
That’s how love goes
I tried to change you
Tried to make you into someone else (someone else)
I guess the only one I’m fooling
Is my stupid self
You’re broken, we know that
And if you knew it
You won’t fight me when I say farewell
That’s how love goes, goes
That’s how love goes, goes, goes, goes
That’s how love goes, goes, goes, goes
That’s how love goes, goes, goes, goes
That’s how love
Say one day I’ll be back
Don’t hold your breath
Just know I hold a place
For you always
‘Cause that’s how love goes, goes
That’s how love goes, goes, goes, goes
That’s how love goes, goes, goes, goes
That’s how love goes, goes, goes, goes
That’s how love (goes)
Yeah, yeah
Oh
That’s how love goes, yeah (ooh, whoa)
I’m not the only one
You and me we made a vow
For better or for worse
I can’t believe you let me down
But the proof is in the way it hurts
For months on end I’ve had my doubts
Denying every tear
I wish this would be over now
But I know that I still need you here
You say I’m crazy
‘Cause you don’t think I know what you’ve done
But when you call me baby
I know I’m not the only one
You’ve been so unavailable
Now sadly I know why
Your heart is unobtainable
Even though Lord knows you kept mine
You say I’m crazy
‘Cause you don’t think I know what you’ve done
But when you call me baby
I know I’m not the only one
I have loved you for many years
Maybe I am just not enough
You’ve made me realize my deepest fear
By lying and tearing us up
You say I’m crazy
‘Cause you don’t think I know what you’ve done
But when you call me baby
I know I’m not the only one
You say I’m crazy
‘Cause you don’t think I know what you’ve done
But when you call me baby
I know I’m not the only one
I know I’m not the only one
I know I’m not the only one
And I know, and I know, and I know
And I know, and I know, and I know, know
I know I’m not the only one.
No Tears Left to Cry
Right now, I’m in a state of mind
I wanna be in like all the time
Ain’t got no tears left to cry
So I’m pickin’ it up, pickin’ it up
I’m lovin’, I’m livin’, I’m pickin’ it up
I’m pickin’ it up, pickin’ it up
I’m lovin’, I’m livin’, I’m pickin’ it up (Oh, yeah)
I’m pickin’ it up (Yeah), pickin’ it up (Yeah)
Lovin’, I’m livin’, so we turnin’ up
Yeah, we turnin’ it up
Ain’t got no tears in my body
I ran out, but boy, I like it, I like it, I like it
Don’t matter how, what, where, who tries it
We out here vibin’, we vibin’, we vibin’
Comin’ out, even when it’s rainin’ down
Can’t stop now, can’t stop so shut your mouth
Shut your mouth, and if you don’t know
Then now you know it, babe
Know it, babe, yeah
Right now, I’m in a state of mind
I wanna be in like all the time
Ain’t got no tears left to cry
So I’m pickin’ it up, pickin’ it up (Oh, yeah)
I’m lovin’, I’m livin’, I’m pickin’ it up
Oh, I just want you to come with me
We on another mentality
Ain’t got no tears left to cry (To cry)
So I’m pickin’ it up, pickin’ it up (Oh, yeah)
I’m lovin’, I’m livin’, I’m pickin’ it up
Pickin’ it up (Yeah), pickin’ it up (Yeah)
Lovin’, I’m livin’, so we turnin’ up (We turnin’ it up)
Yeah, we turnin’ it up
They point out the colours in you, I see ’em too
And, boy, I like ’em, I like ’em, I like ’em
We’re way too fly to partake in all this hate
We out here vibin’, we vibin’, we vibin’
Comin’ out, even when it’s rainin’ down
Can’t stop now, can’t stop, so shut your mouth
Shut your mouth, and if you don’t know
Then now you know it, babe
Know it, babe, yeah
Right now, I’m in a state of mind
I wanna be in like all the time
Ain’t got no tears left to cry
So I’m pickin’ it up, pickin’ it up (Oh, yeah)
I’m lovin’, I’m livin’, I’m pickin’ it up
Oh, I just want you to come with me
We on another mentality
Ain’t got no tears left to cry (To cry)
So I’m pickin’ it up, pickin’ it up (Oh, yeah)
I’m lovin’, I’m livin’, I’m pickin’ it up
Comin’ out, even when it’s rainin’ down
Can’t stop now (Hmm, oh)
Shut your mouth
Ain’t got no tears left to cry
Oh yeah, oh yeah
Oh, I just want you to come with me
We on another mentality
Ain’t got no tears left to cry (Cry)
So I’m pickin’ it up (Yeah), pickin’ it up (Oh yeah)
I’m lovin’, I’m livin’, I’m pickin’ it up
Pickin’ it up, pickin’ it up
Lovin’, I’m livin’, so we turnin’ up
Yeah, we turnin’ it up.
The Greatest – Sia
Uh-oh, running out of breath, but I
Oh, I, I got stamina
Uh-oh, running now, I close my eyes
Well, oh, I got stamina
And uh-oh, I see another mountain to climb
But I, I got stamina
And uh-oh, I need another love to be mine
Cause I, I got stamina
Don’t give up; I won’t give up
Don’t give up, no no no
Don’t give up; I won’t give up
Don’t give up, no no no
I’m free to be the greatest, I’m alive
I’m free to be the greatest here tonight, the greatest
The greatest, the greatest alive
The greatest, the greatest alive
Well, uh-oh, running out of breath, but I
Oh, I, I got stamina
Uh-oh, running now, I close my eyes
But, oh, I got stamina
And oh yeah, running to the waves below
But I, I got stamina
And oh yeah, I’m running and I’m just enough
And uh-oh, I got stamina
Don’t give up; I won’t give up
Don’t give up, no no no
Don’t give up; I won’t give up
Don’t give up, no no no
I’m free to be the greatest, I’m alive
I’m free to be the greatest here tonight, the greatest
The greatest, the greatest alive
The greatest, the greatest alive
Oh-oh, I got stamina
Oh-oh, I got stamina
Oh-oh, I got stamina
Oh-oh, I got stamina
Hey, I am the truth
Hey, I am the wisdom of the fallen; I’m the youth
Hey, I am the greatest; hey, this is the proof
Hey, I work hard, pray hard, pay dues, hey
I transform with pressure; I’m hands-on with effort
I fell twice before; my bounce back was special
Letdowns will get you, and the critics will test you
But the strong will survive; another scar may bless you, ah
Don’t give up (no no)
I won’t give up (no no)
Don’t give up, no no no (nah)
Don’t give up; I won’t give up
Don’t give up, no no no
I’m free to be the greatest, I’m alive
I’m free to be the greatest here tonight, the greatest
The greatest, the greatest alive
(Don’t give up, don’t give up, don’t give up, no no no)
The greatest, the greatest alive
(Don’t give up, don’t give up, don’t give up, no no no)
The greatest, the greatest alive
(Don’t give up, don’t give up, don’t give up; I got stamina)
The greatest, the greatest alive
(Don’t give up, don’t give up, don’t give up; I got stamina)
The greatest, the greatest alive
(Don’t give up, don’t give up, don’t give up; I got stamina)
The greatest, the greatest alive
(Don’t give up, don’t give up, don’t give up; I got stamina)
The greatest, the greatest alive
(Don’t give up, don’t give up, don’t give up; I got stamina)
The greatest, the greatest alive
Don’t give up, don’t give up, don’t give up; I got stamina)
The greatest, the greatest alive
(Don’t give up, don’t give up, don’t give up; I got stamina)
The greatest, the greatest alive
(Don’t give up, don’t give up, don’t give up; I got stamina)
********************
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp