Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng (3 mẫu)

0
119
Rate this post

Cùng tìm hiểu các bài văn mẫu Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng hay nhất.

Dàn ý Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng

Mẫu dàn ý 1

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều

– Giới thiệu đoạn trích Chí khí anh hùng

II. Thân bài

1. Khát vọng lên đường của Từ Hải (4 câu thơ đầu)

a. Hoàn cảnh chia tay:

– Thời gian

+ “Nửa năm”: Khoảng thời gian Kiều và Từ Hải chung sống.

+ “Hương lửa đương nồng”: Tình yêu nồng nàn, say đắm của Thúy Kiều – Từ Hải.

=> Thời điểm Từ Hải ra đi lập nên sự nghiệp lớn cũng chính là lúc cuộc sống lứa đôi với Thúy Kiều mới đang bắt đầu và vô cùng mặn nồng hạnh phúc

=> Ý chí quyết tâm, khí chất anh hùng.

b. Hình ảnh Từ Hải

* Lí do ra đi:

– “Trượng phu”: Là từ chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm nghĩa khâm phục, ngợi ca.

=> Cách nói này thể hiện thái độ trân trọng với các vị anh hùng, dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một tướng võ.

– “Thoắt”: là nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ.

=> Nó cho thấy cách nghĩ, cách xử sự dứt khoát, khác thường của Từ Hải. Đó chính là tính cách của người anh hùng.

– “Động lòng bốn phương”: Chỉ chí khí anh hùng, khát khao tung hoành.

=> Đó cũng là lí tưởng anh hùng thời đại, không bị ràng buộc bởi vợ con, gia đình mà để ở bốn phương trời, ở không gian rộng lớn, quyết mưu sự nghiệp phi thường.

* Tư thế ra đi

– “Trông vời trời bể mênh mang”: cụm từ mang cảm hứng vũ trụ.

=> Tầm nhìn xa trông rộng và suy nghĩ phi thường.

– “Thanh gươm yên ngựa”: một mình, một gươm, một ngựa

=> Tư thế hiên ngang, dũng mãnh, phóng khoáng

– “Lên đường thẳng rong”: đi liền một mạch, không lưu luyến, bịn rịn.

=> Tư thế oai phong, hào hùng sánh ngang với trời đất.

=> Từ Hải là con người của khát vọng, công danh phi thường.

2. Cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải (12 câu thơ tiếp)

a. Lời của Kiều

– Xưng hô: “chàng- thiếp” → dịu dàng, ân cần.

– “Phận gái chữ tòng”: Ý thức bổn phận

– “Một lòng xin đi”: quyết tâm theo Từ Hải

=> Thúy Kiều kính trọng và hết mực yêu thương chồng. Xứng danh là tri kỷ của Từ Hải.

b. Lời của Từ Hải

* Lời đáp

– “Tâm phúc tương tri”: Coi Kiều là tri kỉ, hiểu mình hơn ai hết.

– “Nữ nhi thường tình”: Người phụ nữ ủy mị, yếu đuối

=> Khuyên Kiều vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng làm vợ một anh hùng.

* Lời hứa

– Mười vạn tinh binh”, “Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”: tương lai thành công.

– “Rõ mặt phi thường”: chứng tỏ được tài năng xuất chúng

=> Từ Hải nói lên niềm tin tưởng sắt đá vào tương lai, sự nghiệp

– “Rước nàng nghi gia”: cho Kiều danh phận, cuộc sống viên mãn

=> Từ Hải là người anh hùng có chí khí, thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ.

* Lời khuyên

– “Bốn bể không nhà”: thực tế khó khăn, gian nan.

– “Theo càng thêm bận”: việc lớn sẽ bị ảnh hưởng, không quan tâm, lo cho Kiều được

– “Đành lòng chờ đó ít lâu”: an ủi, mong Kiều bằng lòng chờ đợi.

– “Một năm sau”: thời gian cụ thể. Hứa hẹn sẽ thành công

=> Từ Hải là người chồng tâm lí – người anh hùng nhưng rất vẫn đời thường, gần gũi, chân thực.

=> Từ Hải là người anh hùng có khát vọng lớn lao, tin tưởng vào tương lai lại là người tâm lí, rất đời thường.

3. Quyết tâm ra đi của Từ Hải (2 câu thơ cuối)

– Hành động: Quyết lời, dứt áo ra đi

=> Thái độ, hành động dứt khoát, không hề do dự, bịn rịn.

– Hình ảnh ẩn dụ: “chim bằng”: Là loài chim quý tượng trưng cho người anh hùng.

=> Khẳng định Từ Hải chính là bậc anh hùng cái thế, có tầm vóc phi thường, sánh ngang với đất trời, vũ trụ

=> Từ Hải là người anh hùng có tài năng, bản lĩnh, chí khí, ước mơ công lí.

4. Nghệ thuật

– Sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ tượng trưng

– Lời đối thoại bộc lộ tính cách.

– Nghệ thuật xây dựng hình tượng người anh hùng qua dáng vè, hành động.

III. Kết bài

– Khái quát lại vấn đề.

Mẫu dàn ý 2

1. Mở bài:

  • Tác giả: Đại thi hào Nguyễn Du, là danh nhân văn hóa Việt Nam.
  • Tác phẩm: Trích truyện Kiều nói lên tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải.

2. Thân bài:

* Tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải:

– Sống với Kiều được nửa năm thì Từ Hải đã nghĩ đến nghiệp lớn

– “Động lòng bốn phương” công việc và chí lớn của người nam nhi

-“ trượng phu” là để chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm hàm nghĩa khâm phục, ca ngợi.

– “thoắt”sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải.

-> Từ Hải đã thoát khỏi tình cảm cá nhân nhanh chóng đi làm việc lớn của cuộc đời.

– “Mênh mang” càng lộ ra độ rộng và cao của trời đất càng bật lên tư thế của chàng giữa vũ trụ rộng lớn.

-“trông vời” cái nhìn rộng lớn, sáng suốt.

-Từ Hải một mình cưỡi ngựa lên đường thẳng rong, cho thấy ý chí quyết tâm và bản lĩnh của người anh hùng.

– Từ Hải ra đi không lưu luyến, bịn rịn tình cảm. Chàng coi Kiều như tâm phúc của mình nhưng không thể để tình cảm cá nhân ảnh hưởng đến nghiệp lớn.

* Lời hứa của Từ Hải với Kiều:

  • Chàng hứa Kiều khi nào “bao giờ mười vạn tinh binh”, “ tiếng chuông ngập đất bóng tinh rợp đường”, “ Làm cho rõ mặt phi thường” sự nghiệp ổn định sẽ cưới nàng cho nàng cuộc sống hạnh phúc ấm no.
  • Sự tự tin và khẳng định của Từ Hải: một năm sau sẽ mang vinh quang về, chàng rất tự tin và chắc chắn về chiến thắng của mình.

* Sự dứt khoát của Từ Hải:

  • Chim bằng là loài chim của sự dũng mãnh, ý chí tác giả ví với Từ Hải, đã đến lúc chàng tung bay đôi cánh để tìm khát vọng của bản thân.
  • “ Dứt”, “quyết” khẳng định ý chí quyết tâm của Từ Hải.

* Nghệ thuật:

– Tính chất ước lệ tượng trưng theo lối văn học cổ trung đại, lời thơ sâu sắc.

3. Kết bài:

Đoạn trích Chí khí anh hùng là đoạn trích hay và ý nghĩa. Ca ngợi chí làm trai, chí khí của bậc đại trượng phu, lí tưởng về người anh hùng mang lại ánh sáng tươi đẹp cho đời và tình cảm sâu sắc của Từ Hải và Kiều, những ước vọng đẹp cho tương lai.

Mẫu dàn ý 3

1. Mở bài:

Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích

2. Thân bài:

* Khái quát chung

– Vị trí: từ câu 2213 đến câu 2230 của “Truyện Kiều”, sau khi bị bán vào lầu xanh lần thứ hai, Kiều gặp Từ Hải và được Từ Hải bỏ tiền chuộc về làm vợ.

– Nội dung đoạn trích: thể hiện khát vọng anh hùng của Từ Hải.

a. Khát vọng lên đường của Từ Hải

– Hoàn cảnh: “nửa năm hương lửa đương nồng”: Khi đang hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải quyết định lên đường để thỏa chí làm trai bốn phương.

– “Thoắt đã động lòng bốn phương”

+ Từ “thoắt”: thể hiện thái độ dứt khoát, sự chuyển đổi nhanh chóng trong tâm trí của Từ Hải khi rời bỏ cuộc sống êm đềm chuyển sang những ngày tháng bôn ba.

+ “Động lòng bốn phương”: thể hiện tầm vóc lớn lao trong ý chí của nhân vật.

+ “Trượng phu”: người anh hùng với những phẩm chất đạo đức tốt đẹp.

→ Ý chí mạnh mẽ, lòng quyết tâm làm nên sự nghiệp lớn.

– “Trông vời trời bể mênh mang”: bộc lộ ý muốn vươn ra bể lớn, thoát khỏi cảnh sống tầm thường, quanh quẩn.

– “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”: vẻ đẹp người anh hùng lí tưởng.

b. Cuộc đối thoại giữa Từ Hải và Thúy Kiều

* Mong muốn của Thúy Kiều: đi theo để tròn bổn phận của người vợ “phận gái chữ tòng”.

* Lời đáp của Từ Hải:

– Khẳng định sự thấu hiểu tâm tư, tình cảm giữa hai người: “Tâm phúc tương tri”.

– Mong Thúy Kiều gác lại chuyện “nữ nhi thường tình”.

→ Khẳng định vị trí quan trọng của nàng trong lòng Từ Hải.

→ Tin tưởng vào sự thấu hiểu lí lẽ, tấm lòng bao dung của Kiều.

– Hứa hẹn sẽ quay trở về đón nàng làm vợ khi đã có công danh, sự nghiệp:

+ “Mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh rợp đường”: khao khát làm nên nghiệp lớn, phi thường.

+ Lời hứa “rước nàng nghi gia”: cho Thúy Kiều một danh phận.

– Nói rõ hoàn cảnh hiện tại: “Bằng nay bốn bể không nhà/ Theo càng thêm bận biết là đi đâu”.

– Lập mốc thời gian thể hiện ý chí quyết tâm lập công danh một cách nhanh chóng đồng thời an ủi, động viên Thúy Kiều: “Đành lòng chờ đó ít lâu/ Chầy chăng là một năm sau vội gì”

c. Hành động ra đi dứt khoát của Từ Hải

– “Quyết”, “dứt áo”, “ra đi”: thể hiện hành động dứt khoát, mạnh mẽ, không do dự của người anh hùng.

– “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”:

+ Mượn điển tích của Trang Tử để khẳng định: Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn.

+ Làm nổi bật tư thế của người anh hùng có bản lĩnh phi thường.

d. Đánh giá

– Về nội dung: Đoạn trích đã khắc họa hình ảnh người anh hùng lí tưởng với khát vọng lớn lao.

– Về nghệ thuật:

+ Sử dụng hình thức đối thoại.

+ Sử dụng điển tích và ngôn ngữ đặc sắc để thể hiện chí khí, khát vọng của nhân vật.

3. Kết bài:

Khẳng định giá trị đoạn trích, tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du.

Top 20+ bài văn mẫu Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 1

Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

      Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Bạn đang xem: Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng (3 mẫu)

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

     Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

     Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.

      Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

       Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

      Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.

       Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiểu chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát cùa chàng. Bôn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).

        Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.

         Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều – Kim Trọng, Thúy Kiều – Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.

        Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của dạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu…, mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.

         Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

     Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.

      Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khi anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.

     Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậv mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.

      Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

     Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

      Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi… tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.

      Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dậm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngáy ngất say men chiến thắng cùa con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

      Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.

      Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.

     Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải – nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 2

Sập bẫy của Tú Bà, Thúy Kiều phải vào lầu xanh với tâm trạng:

“Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

        Tại đây, Kiều gặp Thúc Sinh, người được xem là “tri âm” đối với Kiều. Nhưng vì nhu nhược, Thúc Sinh không giữ được Kiều khiến nàng lại rơi vào yay Bạc Bà, Bạc Hạnh, và phải làm gái lầu xanh lần nữa.

        Cuộc đời Kiều tưởng như bế tắc hoàn toàn thì Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa Kiều thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người sống hạnh phúc “Trai anh hùng gái thuyền quyên – Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích (từ câu 2213 đến câu 22300 bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại cho thấy chí khí của Từ Hải.

        Trong “Truyện Kiều”, nếu nhân vật Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng như một biểu tượng cho cái đẹp tinh túy, lí tưởng của hiện thực cuộc sống thì nhân vật Từ Hải, qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, lại được Nguyễn Du xây dựng như một hình tượng đầy tính chất lãng mạn, chất anh hùng ca. Mở đầu đoạn thơ.

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

 Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

        Bốn câu thơ là lời của tác giả miêu tả về tâm trạng và hành vi của Từ Hải. Nhà thơ gọi Từ Hải là “trượng phu” – người đàn ông có tài, đáng trọng là đã thể hiện sự yêu quý trân trọng của ông với nhân vật này. Tình yêu và sự nghiệp, cả hai đều có trong con người của Từ Hải. Tình yêu ấy là “nửa năm hương lửa đương nồng”, sự nghiệp ấy là “động lòng bốn phương”. Những ngôn từ ước lệ ấy giúp người đọc nhận ra cả hai thứ tình ấy Từ Hải đều quý. Và chỉ ở bôn câu thơ trên mà xét thì “động lòng bốn phương”, muốn lập công danh sự nghiệp mạnh hơn “hương lửa đương nồng”. Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của một tráng sĩ “râu hùm, hàm én, mày ngài” đứng khoanh tay lặng hướng tầm mắt vào cõi xa xăm thì người đọc sẽ hiểu phần nào tâm trạng lúc này của con người:

Giang hồ quen thói vẫy vùng

 Gươm đàn nửa gánh, non sông một chào”.

        Những hình ảnh ước lệ, thậm xưng, đặc tả, kết hợp với các từ Hán Việt trang trọng, cùng với cách ngắt nhịp cân xứng, mạnh mẽ trong các dòng thơ chứa tầm vóc, tài năng, chí hướng nêu trên như đã khẳng định và in sâu tính cách một nhân vật phi thường với tâm hồn chứa chan lãng mạn ước mơ, tung hoành ngang dọc, muốn đổi thay thời thế nhân sinh… Trong ý nghĩa đó, phải chăng hình ảnh Từ Hải đã thành ước mơ khát vọng trong tâm hồn Nguyễn Du: Ông muốn cứu vớt đời Kiều, một tâm hồn, một vẻ đẹp, một tài năng tiêu biểu cho một tinh hoa của hiện thực cuộc đời?

        Sau lời của nhà thơ viết về tâm trạng và quyết định của “trượng phu” là lời đối thoại của đôi vợ chồng. Kiều thì muốn hành động theo luân lí đạo Nho truyền thống nên đã tâm sự với Từ Hải:

Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.

        Kiều một lòng xin được theo Từ trên từng bước chàng đi cho tròn luân lí mà Nho giáo đã định ra: Là phận nữ nhi thì “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Ca dao ta cũng có câu:

Đi đâu cho thiếp theo cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam

        Đây là về lí luận. Thật ra có lẽ Kiều xin theo Từ Hải là vì tình, là vì sau bao năm bị vùi dập bởi sóng gió lầu xanh Kiều đã tìm được người bạn tri âm.

        Nhưng với Từ Hải thì khác. Chàng đã đáp lại:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

        Từ Hải đã có ý trách Kiều, nhưng đó là lời trách đầy yêu thương: Đã là người hiểu biết nhau sâu sắc đến vậy sao cứ giữ mãi nếp suy nghĩ nông cạn của người phụ nữ bình thường!

        Sau lời trách nhẹ nhàng đầy tình thương yêu ấy, Từ Hải mới giải thích rõ ràng. Từ phải chiêu mộ binh sĩ giỏi, làm những việc xuất chúng. Người đọc có thể suy ra là Từ chiêu mộ tướng giỏi binh hùng để lập nước, trị quốc. Với ông việc như thế thì

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

        Đấy là một hiện thực trong đời của con nhà lính. Từ đã trình bày cho Kiều hiểu rõ ngọn nguồn. Đó là về lí, mà cái lí ấy Từ nêu ra cũng vì tình. Từ đã khuyên Kiều:

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

        Cùng với lời hứa:

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

        Với lí lẽ và lời hứa rõ ràng ấy chắc Kiều chẳng nói thêm được điều gì. Và dù có nói điều gì chăng nữa thì Từ Hải cũng:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bàng đã đến kì dặm khơi.

        Mạnh dạn, dứt khoát và nhanh nhạy là vì nghĩa cùa hai câu thơ mang hình ảnh ước lệ trên. Đã một lần người đọc biết hành động cao đẹp nhanh gọn dứt khoát không tính toán của Từ Hải khi chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh. Nay cũng với tính cách ấy, Từ Hải hành động không chỉ vì tương lai của chàng mà còn vì cả Thúy Kiều. Trước mắt người đọc, hình ảnh Từ Hải cùng tinh binh phóng ngựa tiến về phía trước để lại đằng sau đám bụi mù thay cho hình ảnh ước lệ chim bằng bay lên cùng gió mây.

        Đã hơn một lần Nguyễn Du tập trung khác họa chân dung Từ Hải. Một chân dung mà ngoại hình thật khác thường.

“Râu hùm, hàm én, mày ngài

 Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.

        Một chân dung mà tài năng cái thế:

“Đường đường một đấng anh hào

Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”.

        Một chân dung mà phong thái thật anh hùng, chí hướng bay bổng ước mơ:

“Đội trời, đạp đất ở đời”

        Và bây giờ với đoạn trích Chí khí anh hùng, một lần nữa càng chứng tỏ tài miêu tả, khắc họa nhân vật của nhà thơ Nguyễn Du. Cũng với các biện pháp ước lệ, nghệ thuật tượng trưng kết hợp với đối thoại quen thuộc của thể văn cổ nhưng khi Nguyễn Du vận dụng vào việc khắc họa nhân vật Từ Hải. Trong đoạn trích trên thì nghệ thuật ấy lại được phối hợp sáng tạo tuyệt hảo để người đọc đâu thể dễ dàng quên ngay được một nhân vật cái thế anh hùng, một tâm hồn mang bao hoài vọng của nhà thơ.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 3

Trong Truyện Kiều, bên cạnh việc bày tỏ tấm lòng đồng cảm, trân trọng với con người tài hoa nhưng phải chịu kiếp bạc mệnh như Thúy Kiều, đại thi hào Nguyễn Du còn bộc lộ ước mơ về một hình tượng người anh hùng lý tưởng thắp lên ánh sáng hy vọng được giải phóng giữa thực tế xã hội toàn thối nát. Điều này được thể hiện rất rõ đoạn trích Chí khí anh hùng.

Sau nhiều năm lưu lạc, chịu đủ mọi khổ ải, tủi nhục chốn phong trần, Thúy Kiều đã gặp Từ Hải. Người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất ấy là ánh sáng chói lọi giữa cuộc đời tăm tối của một kiếp hồng nhan. Từ Hải không chỉ cứu Thúy Kiều ra khỏi chốn lầu xanh, giúp nàng báo ân, báo oán mà còn trân trọng, coi nàng như một người tri kỉ. Vẻ đẹp về tầm vóc và lí tưởng của người anh hùng Từ Hải được tác giả Nguyễn Du tập trung khắc họa rõ nét nhất thông qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”.

Từ Hải trong Truyện Kiều là người được miêu tả với vẻ đẹp mạnh mẽ “Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”, tráng kiện, lực lưỡng, là dáng vóc của người anh hùng, tay quen với chuyện binh đao, võ lược. Đặc biệt Nguyễn Du còn nhắc tới hai nét đẹp ấn tượng hơn người của Từ Hải rằng “côn quyền hơn sức”, “thao lược gồm tài”. Chính vì thế, Từ Hải ắt không phải là con người chịu cảnh an phận thủ thường, sống cuộc đời cẩm y ngọc thực như Thúc Sinh, cũng không thể nhiều kiên nhẫn để trông đợi vào công danh thi cử giống như Kim Trọng. Với nhân vật này chuyện chinh chiến, thao lược tìm công danh, khẳng định bản thân trong xã hội là chuyên ắt phải làm, đặc biệt là trong hoạt cảnh xã hội nhiều biến động lúc bấy giờ. Vậy nên chỉ sau “nửa năm hương lửa đương nồng” với Thúy Kiều, Từ Hải đã không tiếc rời xa cuộc sống êm đềm với người vợ tài sắc, để lên đường tìm công danh, thỏa chí làm trai ở bốn phương:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

Câu thơ thể hiện được ý chí mạnh mẽ, tấm lòng quyết tâm phải làm nên nghiệp lớn của người anh hùng. Từ “thoắt” thể hiện thái độ dứt khoát, ý chí quyết tâm mạnh mẽ, sự chuyển đổi nhanh chóng trong tâm lý của Từ Hải từ việc rời bỏ cảnh sống êm đềm, chuyển sang những ngày tháng bôn ba vất vả trong tương lai vì sự nghiệp. Nguyễn Du cũng rất tinh tế khi diễn tả tráng chí của Từ hải bằng cụm “động lòng bốn phương” thể hiện tầm vóc lớn lao trong ý chí của nhân vật, cũng như ước mơ khao khát làm nên nghiệp lớn, làm chủ một phương của Từ Hải. Hai từ “trượng phu” càng thể hiện tấm lòng trân trọng, yêu thương, bộc lộ lí tưởng của Nguyễn Du về dáng vóc của một người anh hùng thời đại quy tụ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, tráng chí ở bốn phương, tâm sự nghiệp mạnh mẽ, có tấm lòng bao dung, thấu hiểu nhân tình thế thái, sống ngay thẳng là người nâng lên cán cân công lý trong xã hội,…

“Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Tráng chí và tầm suy nghĩ rộng lớn, đầy hoài bão của Từ Hải còn được thể hiện qua câu thơ “trông vời trời bể mênh mang”, khi chàng dõi mắt nhìn về chân trời xa, bộc lộ ý muốn vươn ra bể lớn, thoát khỏi cái bóng nam nhi tầm thường quanh quẩn bên vợ con, để làm nên nghiệp lớn. Khát vọng mạnh mẽ về việc trả nợ công danh đã thôi thúc Từ Hải từ biệt Thúy Kiều, dứt áo ra đi một cách quyết đoán “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Hình ảnh một gươm, một ngựa đơn độc lại càng làm sáng rõ phẩm chất và vẻ đẹp của người anh hùng thời đại, tay không quyết tâm lập nghiệp, khẳng định ý chí, sự tự tin trong tâm hồn người trượng phu.

Đối mặt với việc Từ Hải lên đường tìm công danh, sự nghiệp Thúy Kiều vốn là người thông minh nhạy bén, nên nàng không hề có ý định ngăn cản, dù trong lòng cũng nhiều phần buồn bã, khi cuộc sống vợ chồng chưa được êm ấm bao lâu. Nàng đã xin Từ Hải cho theo nâng khăn sửa áo, tiện bề chăm sóc, vợ chồng cùng sánh bước:

“Nàng rằng:”Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

Trước đề nghị của Kiều, Từ Hải lại không nghĩ đấy là điều nên làm, mà nhẹ nhàng khuyên nhủ thê tử bằng cách đánh động vào sự thấu hiểu lý lẽ của Thúy Kiều, mong nàng nghĩ thông suốt, gác lại chuyện nữ nhi thường tình, ủng hộ chàng trên con đường xây dựng lên nghiệp lớn. Những lời ấy của Từ Hải không chỉ là lời khuyên giải mà còn có ý nghĩa như một lời động viên sâu sắc đến Thúy Kiều, khẳng định vị trí quan trọng của nàng trong lòng Từ Hải, cũng như tin tưởng vào sự thấu hiểu lý lẽ, tấm lòng bao dung, chung thủy của Thúy Kiều trong lúc Từ Hải lên đường làm việc lớn. Những câu thơ sau đó càng thể hiện được ý chí quyết tâm của Từ Hải cũng như tấm lòng của chàng với người vợ kết tóc rằng:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Bộc lộ rõ quyết tâm và tráng chí làm nên nghiệp lớn của Từ Hải, sở hữu trong tay đội quân hùng mạnh “mười vạn tinh binh”, mang sức mạnh phi thường, hùng hậu “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”, nổi danh một phương, bá chủ một vùng, thì lúc ấy Từ Hải mới quay trở về, để đáng mặt người nam nhân trong trời đất. Đồng thời Từ Hải cũng để lại lời hứa hẹn với Kiều rằng “Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”, để Kiều được vẻ vang làm vợ chàng, sống cuộc sống vinh hoa phú phú, hạnh phúc, không phải lo nghĩ gì. Có thể nói rằng ngoài việc Từ Hải ra đi để trả món nợ công danh, thì một mục đích khác cũng là Từ Hải muốn cuộc sống của Kiều được thêm hạnh phúc, không còn bao giờ phải chịu cảnh chèn ép, tủi nhục. Tất cả những điều ấy đã làm nên động lực mạnh mẽ thôi thúc Từ Hải nhanh chóng hành động, nhanh chóng công thành danh toại.

Sau khi thể hiện những khát vọng, hoài bão của mình, Từ Hải cũng bộc lộ nỗi lo lắng, tầm nhìn xa trông rộng của mình khi nói với Kiều:

“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu”.

Quả thực những ngày đầu tiên đi tìm công danh thực khó khăn, Từ Hải chỉ có một thân một mình, một gươm, một ngựa, chưa thực sự vững vàng, đối với nam nhân cảnh bốn bể là nhà, buôn ba khắp chốn là điều bình thường, thế nhưng với thân liễu yếu đào tơ như Thúy Kiều thì đó là quả thực là điều gian khó. Từ Hải sợ Kiều phải chịu cảnh vất vả, mệt nhọc, điều ấy càng khiến chàng không yên lòng mà dựng nghiệp lớn, chính vì thế để Kiều ở nhà chờ chàng trở về mới là lựa chọn sáng suốt nhất. Đồng thời để an ủi giai nhân Từ Hải cũng hứa hẹn với Thúy Kiều rằng:

“Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Từ Hải lập ra mốc thời gian như thế không chỉ thể hiện ý chí quyết tâm lập công danh một cách nhanh chóng, không chịu chần chừ bó gối lâu hơn nữa mà còn là lời an ủi, động viên Thúy Kiều sâu sắc, khiến nàng yên tâm, vững dạ ở nhà làm hậu phươn. Sau những lời bộc bạch, khuyên nhủ Thúy Kiều, Từ Hải dứt khoát chia tay hồng nhan để lên đường tìm kiếm công danh, hình ảnh “Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi” là hình ảnh đẹp, mang tính biểu tượng lớn, ẩn dụ cho sự thành công lẫy lừng của nhân vật Từ Hải về sau, bộc lộ tầm vóc lớn sánh ngang với loài chim bằng vốn vùng vẫy biển khơi. Cảnh chim bằng vỗ cánh vượt gió bay lên, thể hiện tầm vóc của người anh hùng ra đi tạo lập công danh hiển hách, sánh ngang với trời đất, núi sông, không phụ hồng nhan, không phụ chí nam nhi.

Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều là một đoạn trích đặc sắc khi nhân vật trung tâm không còn là Thúy Kiều mà Nguyễn Du tập trung thể hiện hình tượng người anh hùng Từ Hải với vẻ đẹp lý tưởng, tráng chí nam nhi rộng lớn, phi thường, dứt khoát trong tình cảm nữ nhi thường tình, sự tinh tế, thấu hiểu trong cách đối đáp với Thúy Kiều. Từ đó khắc họa được mối tình Từ Hải – Thúy Kiều càng thêm đẹp đẽ, xứng đáng với mấy chữ “trai tài gái sắc”, thể hiện tấm lòng nhân đạo của tác giả khi để cho cuộc đời lắm gian truân của Thúy Kiều cũng có lúc được hưởng tấm chân tình, có lúc được hạnh phúc, dù rằng khoảnh khắc ấy cũng chỉ là ngắn ngủi nhất thời trong chuỗi bi kịch tiếp diễn 15 năm lưu lạc của nàng.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 4

Truyện Kiều được xem là một đỉnh cao chói lọi của truyện thơ Nôm, là quốc hồn, quốc túy của dân tộc, một kiệt tác của văn học Việt Nam. Đọc tác phẩm ta không thể không xót xa, thương cảm trước một nàng Kiều tài hoa bạc mệnh, căm phẫn trước những Hoạn Thư ích kỉ, hẹp hòi với lòng ghen tuông ngút trời, Tú Bà độc ác, Mã Giám Sinh giả nhân giả nghĩa; đồng cảm trước một Thúc Sinh dù có chút nhu nhược nhưng là kẻ si tình, trọng tình trọng nghĩa.Và đặc biệt, ta không thể quên được hình ảnh một Từ Hải đầu đội trời, chân đạp đất, một người hùng lí tưởng với những phẩm chất và chiến công phi thường. Đoạn trích Chí Khí anh hùng đã thể hiện rõ nhất cốt cách của người anh hùng này.

” Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong ”

Trai anh hùng – gái thuyền quyên, tình yêu của Từ Hải và Thúy Kiều vượt bao sóng gió để đến được với nhau. “Chàng”và “thiếp” tuy hai mà một, hiểu rõ nhau, thông cảm, sẻ chia cùng nhau. Tình cảm đang mặn nồng, thì kẻ “trượng phu” lại nuôi chí lớn, ý nguyện lập công danh nơi biên ải xa xôi. Chàng đã tạm gác lại nỗi niềm riêng bên gia đình nhỏ để ra đi xây dựng sự nghiệp. Điều đó cho thấy Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà còn người của chiến công và sự nghiệp hiển hách. Hình ảnh Từ Hải lên đường một mình một ngựa thể hiện khí phách của một người anh hùng dũng cảm, ra đi dứt khoát , không để niềm riêng vướng bận. Một người có chí khí mạnh mẽ, chí tang bồng phải làm nên nghiệp lớn, khát khao được vùng vẫy bốn bể năm châu. Đó là lí tưởng, là mục đích cao đẹp của một vị anh hùng nuôi chí lớn.

“Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.”

Sự nghiệp vinh quang đang đợi chàng phía trước. Từ ra đi không chút do dự, một lòng hướng về chí lớn tạo lập công danh. Động từ “thoắt” thể hiện sự nhanh chóng, quyết định một cách dứt khoát , chí từng hoành khắp bốn phương, người anh hùng chẳng thể để bản thân nghỉ ngơi khi chưa có công danh trong tay, cũng không thể giam mình trong không gian chật hẹp khi chí lớn chưa thành. Quyết định ra đi chắc hẳn sẽ không dễ dàng với Từ Hải bởi bên cạnh chàng còn có người mình thương, nhưng đó là quyết định sáng suốt và vững vàng. Bởi trong con người Từ Hải luôn nung nấu chí nguyện anh hùng.

” Kiều rằng: phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Trải qua bao bể dâu, đau đớn, vừa hạnh phúc chưa được dài lâu, Từ Hải lựa chọn ra đi chắc hẳn Kiều cũng rất buồn. Nhưng với tấm lòng nhân từ, lại là người tri âm tri kỉ với Từ, Kiều hiểu hơn ai hết chí hướng của Từ Hải. Và nàng sẽ không cản bước Từ, trái lại, nàng là người ủng hộ, mong muốn được đi cùng chồng sẻ chia khó khăn gian nan nơi chiến trận. Đó là vẻ đẹp trong nhân cách Kiều.

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Một lần nữa, Từ khẳng định tình cảm khăng khít, gắn bó giữa Kiều và chàng nhưng đồng thời cũng có lời trách cứ nhẹ nhàng: Lòng dạ nhau đã hiểu, sao nàng chưa thoát khỏi những mong muốn tầm thường của bậc nữ nhi. Là người phụ nữ của bậc trượng phu phải thật cứng cỏi và mạnh mẽ. Thông qua lời của Từ, tình yêu thương và sự trân trọng Kiều được bộc lộ rõ nét.

Trong bất kì cuộc chia li nào, người phụ nữ cũng là người chờ đợi và u sầu hơn cả. Từ Hải hiểu hơn ai hết điều đó. Song phút chia tay lúc này không quá bị lụy mà hướng tới những chiến công hiển hách, tạo niềm tin nơi Thúy Kiều:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?”

Trong suy nghĩ của bậc đại trượng phu lúc này là hoài bão và những chiến công hiển hách. Dù đi trong tư thế một mình, một ngựa nhưng khi lập công trở về với mười vạn tinh binh, với tiếng chiêng và bóng cờ rợp đất trời trong hào khí chiến thắng. Chàng tin những gì mình nói, tin những gì mình làm và hơn hết đem lại vinh quang cho đất nước, cho nhân dân và cho người phụ nữ của mình. Lúc ấy sẽ cùng Kiều vui vầy hưởng hạnh phúc lứa đôi. Chàng không thể để cho người mình yêu phải chịu khốn khổ nơi xa trường và khẳng định “một năm” sau sẽ trở về. Một mốc thời gian cụ thể, cho thấy được quyết tâm và sự tự tin, bản lĩnh của Từ Hải.

Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đây không phải là một lời hứa đơn thuần mà là một thề hẹn, một lời đinh ninh. Dù trong lòng có bão bùng, tâm can có gào thét thì nàng hãy dằn lòng mình xuống để ta đi, rồi ngày sau trở về trong vinh quang hiển hách. Nàng hãy yên lòng chờ đợi. Chí anh hùng trong con người Từ Hải không chỉ là hoài bão, khát khao mà còn là con người có đạo đức, trách nhiệm, là con người có một tấm lòng trượng nghĩa, khao khát lập công danh.

Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Hành động nhanh chóng, kiên quyết “quyết lời”, “dứt áo ra đi”.

Từ Hải đã không để tình cảm quyến luyến, bịn rịn làm lung lay và ngăn  bước ý chí, sự nhất quán trong suy nghĩ và hành động. Nguyễn Du thật tinh tế khi sử dụng hình ảnh cánh chim bằng và hình ảnh “gió, mây” thường gặp trong văn chương cổ điển tượng trưng cho người anh hùng có lí tưởng, có mục đích cao đẹp, có bản lĩnh phi thường sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, thỏa sức vùng vẫy giữa biển trời để thực hiện lí tưởng của bậc đại trượng phu.

Qua đoạn trích Chí Khí anh hùng ta thấy được Nguyễn Du đã thể hiện ước mong về người anh hùng lí tưởng trong thời đại với khát vọng lớn lao và tấm  lòng cao cả. Đồng thời, cho thế hệ trẻ những người như chúng em bài học về mục đích và lí tưởng sống. Hãy can đảm tiến về phía trước, đặt ra những mục tiêu cho bản thân, kiên trì với mục tiêu. Hãy là những thanh niên của thế hệ mới đầy nhiệt huyết, sống với ước mơ và lí tưởng dù phía trước có gian nan, thách thức hãy giữ vững niềm tin vào chính bản thân mình. Thành công sẽ đến với những người tận lực và tận tâm.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 5

Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người anh hùng với khí phách hiên ngang. Từ Hải là người đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi cảnh sống nhơ nhớp, ô nhục khi nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Hai người chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng do Từ Hải muốn có được sự nghiệp lớn lao nên đã từ biệt Thúy Kiều ra đi. Ý chí, quyết tâm ấy của chàng được thể hiện qua đoạn trích “Chí khí anh hùng” nằm trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

Đoạn trích này nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lí tưởng về người anh hùng của tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì sự nghiệp của Từ Hải:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được những công trạng lớn lao. Chẳng vậy mà Nguyễn Công Trứ từng viết:

“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.

Từ Hải là một đấng nam nhi muốn “vẫy vùng” nên đã “động lòng bốn phương”. Chàng là người có ý chí lập công danh, sự nghiệp lớn. Động từ “thoắt” vừa thể hiện một trạng thái nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác giả Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc vợ chồng chốn khuê phòng như một cám dỗ còn một bên là không gian rộng lớn thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương. Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, lí tưởng cuộc đời mình. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng là “trượng phu” – người nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ chồng còn nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến “hoa ghen”, “liễu hờn” của người vợ Thúy Kiều còn níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để thực hiện khát vọng “vẫy vùng trong bốn bể” mà không một chút do dự, phân vân. Một con người “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” như Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi “trời bể mênh mang” thật oai phong, lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm chùn bước chân của người anh hùng. Từ Hải “không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Chàng đối diện với trời đất, vũ trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.

Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của Thúy Kiều – Từ Hải cũng không ngoại lệ:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật “tam tòng”: ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc “hương lửa đương nồng”, nàng không muốn phải chịu cảnh xa cách, chia lìa với Từ Hải – một người chồng nhưng đồng thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”. Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà tại sao lại không thấu hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng quá lo lắng cho mình. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi thường và nắm giữ trong tay “mười vạn tinh binh”thì chàng sẽ quay trở về rước Kiều “nghi gia” bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh rộn rã của “tiếng chiêng dậy đất” và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường.

Để từ chối khéo léo mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ đầy sức thuyết phục:

“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lòng mình hay thật tâm chàng không muốn người vợ của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng đối với phận nữ nhi như Thúy Kiều thì việc đó không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì những lí do trên mà Từ Hải khuyên Kiều “đành lòng” chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm chờ đợi không phải thời gian quá dài nhưng nó lại thể hiện chí khí,lòng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc gây dựng sự nghiệp, công danh không phải là chuyện ngày một ngày hai mà đó còn là chuyện của cả đời người nhưng Từ Hải lại hứa với Thúy Kiều sẽ đạt được công danh sau một năm nữa. Phải là người có quyết tâm cao độ, tin vào khả năng của bản thân thì mới có lời hứa như vậy.

Nếu cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong “Chinh phụ ngâm” được Đặng Trần Côn miêu tả:

“Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng”

thì cuộc chia tay của Từ Hải và Thúy Kiều trong đoạn trích “Chí khí anh hùng” được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.

Người xưa có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân nhưng với khát vọng lớn lao của con người đầu đội trời chân đạp đất thì ải mĩ nhân không làm khó được Từ Hải. Hành động “dứt áo ra đi” của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, “chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn”. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.

“Chí khí anh hùng” đã miêu tả cuộc chia ly giữa “trai anh hùng” và “gái thuyền quyên” đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh hùng Từ Hải. Đó là tính cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc “trượng phu” trong thiên hạ. Nhân vật này được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi “vẫy vùng trong bốn bể”, không vì “hương lửa đương nồng” mà chùn chân, nhụt chí.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 6

Truyện Kiều là kiệt tác trong sáng tác của Nguyễn Du, cũng là một trong những tác phẩm làm nên sự hưng thịnh văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Qua Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự đồng cảm, xót xa với cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều mà còn gửi gắm ước mơ về người anh hùng có thể cứu dân, dẹp loạn thông qua hình tượng Từ Hải. Trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”, nhân vật Từ Hải xuất hiện nổi bật với những phẩm chất phi thường và khát vọng cao đẹp của người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”.

Trải qua bao biến cố của cuộc đời, những tưởng cuộc đời Thúy Kiều mãi bị vùi dập trong những đau đớn, ê chề thì Từ Hải đã xuất hiện, mang theo ánh sáng hi vọng cho cuộc đời nàng. Có thể nói gặp gỡ và nên duyên cùng với Từ Hải là hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời của Thúy Kiều. Tuy nhiên, cuộc sống hạnh phúc với nàng Kiều cũng không thể làm nguôi đi chí lớn của người anh hùng:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Sau nửa năm chung sống hạnh phúc với nàng Kiều, Từ Hải đã quyết định ra đi  để thực hiện nghiệp lớn. Từ Hải vốn là người người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất với khát vọng tung hoành khắp muôn phương “nghênh ngang một cõi biên thùy”. Vì vậy dù đang sống trong những ngày hạnh phúc nhất cuộc đời cùng người mà mình yêu thương, trân trọng thì người anh hùng ấy cũng không thể quên đi chí lớn của người làm trai “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”.

Tư thế ra đi của Từ Hải được tác giả Nguyễn Du tái hiện qua một động từ “thoắt” thể hiện sự mau lẹ, dứt khoát của người trượng phu. “Trời bể mênh mang” không chỉ là hình ảnh ước lệ thể hiện sự rộng lớn trời đất, nơi người anh hùng thỏa sức tung hoành ngang dọc mà còn gợi ra tầm vóc lớn lao, phi thường của người anh hùng. Hình ảnh gươm ngựa “lên đường thẳng rong” góp phần làm nổi bật lên phong thái ung dung, tư thế đĩnh đạc, hiên ngang của Từ Hải.

Thấu hiểu khát vọng và quyết tâm của Từ Hải, Kiều không ngăn cản mà bày tỏ nguyện vọng muốn đi theo để tiện bề chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chồng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”

Thúy Kiều muốn đi theo Từ Hải để cùng sẻ chia, gánh vác làm trọn đạo “tam tòng chữ đức” của một người vợ và làm trọn tình nghĩa với một người tri kỉ, một người ân nhân có công cứu mạng. Tuy cảm động trước tấm lòng của nàng Kiều nhưng Từ Hải đã quyết chí ra đi mà không muốn vướng bận bởi tình cảm nam nữ và cũng là muốn bảo vệ nàng Kiều khỏi những hiểm nguy nơi chiến trường nên đã từ chối:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng binh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Dù hiểu được tấm lòng của Thúy Kiều nhưng Từ Hải vẫn cố gắng khuyên nhủ Kiều và muốn nàng thoát khỏi thói “nữ nhi thường tình” và hứa hẹn về tương lai tươi sáng, khi nghiệp lớn thành công, cơ đồ được gây dựng sẽ “rước nàng nghi gia”. Qua những lời nói của Từ Hải với Thúy Kiều, ta có thể thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người anh hùng, Từ Hải không để tình cảm chi phối mà vô cùng quyết đoán, dứt khoát với hành động của mình. Cũng cần phải hiểu rằng không phải sự dứt khoát của Từ Hải khi ra đi là vì vô tình hay trọng công danh hơn tình cảm. Chàng là người sống tình cảm hơn bất cứ ai, thay vì quyến luyến, động lòng thì Từ Hải muốn thể hiện bằng hành động, bằng quyết tâm chiến thắng để mang đến nàng Kiều không chỉ là danh phận mà còn là tình cảm.

“Bằng ngay bốn bể là nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Nếu ở những câu thơ trên Từ Hải có ý trách móc nàng Kiều vì sự yếu đuối của nữ nhi thường tình thì ngay câu thơ sau chàng đã kín đáo thể hiện sự quan tâm, động viên với nàng. Từ Hải mang tráng khí khắp bốn phương với toàn bộ quyết tâm và tự tin nhưng chàng cũng hiểu rằng con đường mình đang đi sẽ vô cùng chông gai, đó là cuộc sống màn trời chiếu đất, bốn bể không nhà. Từ Hải không muốn Thúy Kiều đi theo một là không muốn vướng bận, hai là muốn nàng phải xông pha vào chốn hiểm nguy cùng mình. Cuối cùng, để lại bao lưu luyến, Từ Hải dứt khoát lên đường:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Từ Hải là nhân vật hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ, phi thường của người anh hùng. Khi xây dựng nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác giả Nguyễn Du đã kín đáo thể hiện quan niệm về người anh hùng và ước mơ công lí.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 7

Trên diễn đàn văn học Việt Nam, Thúy Kiều xuất hiện trong trang thơ của đại thi hào Nguyễn Du với số phận “hồng nhan bạc mệnh” qua mười lăm năm lưu lạc. Nhưng trong quãng đường đầy rẫy oan khổ đó, có những lúc nàng Kiều được tận hưởng những niềm hạnh phúc về lứa đôi, về gia đình. Đó chính là thời điểm nàng gặp gỡ Từ Hải. Vị anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” đó đã đem đến cho người phụ nữ tài sắc vẹn toàn một danh phận, một vị trí xứng đáng. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa thành công bức chân dung nhân vật Từ Hải với phẩm chất, chí khí, lí tưởng hiên ngang và mang tầm vóc vũ trụ.

Trong tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”, “Chí khí anh hùng” là trích đoạn thuộc phần “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều tình cờ gặp Từ Hải – vị anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”. Khác với Thúc Sinh, Từ Hải đã cho Kiều một danh phận chính đáng. Với cảm hứng ngợi ca kết hợp bút pháp lãng mạn hóa, tác giả Nguyễn Du đã phác họa thành công vẻ đẹp của hình tượng nhân vật anh hùng Từ Hải với chí khí, tầm vóc, phẩm chất phi thường.

Trước hết, tác giả Nguyễn Du đã gợi ra không gian cuộc sống “Nửa năm hương lửa đương nồng” của Từ Hải và Thúy Kiều. Mặc dù đã tìm được “tri âm, tri kỉ” nhưng cuộc sống ấm êm, hạnh phúc vẫn không thể dập tắt khát vọng của Từ Hải: “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”. Tác giả Nguyễn Du đã dùng từ “trượng phu” kết hợp cụm từ ước lệ “lòng bốn phương” với thái độ trân trọng, ngưỡng mộ, khâm phục để diễn tả chí nguyện lập công, lập danh lớn lao của người anh hùng. Và tư thế làm chủ, hướng ra phương trời tự do đã được tái hiện rõ nét hơn nữa:

“Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Rõ ràng, Từ Hải không phải là con người của những đam mê, khát vọng thông thường. Đó là bậc trượng phu luôn hướng đến những không gian bao la, mang tầm vóc vũ trụ của “trời bể mênh mang”. Trong không gian vĩ mô đó, con người hiện lên với khát vọng làm chủ: Một người, một ngựa, một gươm hiên ngang, mạnh mẽ “lên đường thẳng rong”, tự tin về tương lai phía trước. Như vậy, với thái độ trân trọng, ngợi ca, ngưỡng mộ và kính phục, tác giả đã khắc họa nhân vật Từ Hải với tư thế hiên ngang cùng những khát vọng phi thường.

Ý chí quyết tâm trong việc “lập công, lập danh” của Từ Hải càng được thể hiện rõ nét hơn nữa trong cuộc đối thoại với Thúy Kiều. Là bậc tri kỉ của người anh hùng, Thúy Kiều thấu hiểu những khát vọng của chồng và xin đi theo chàng. Trước mong muốn của nàng, Từ Hải cũng đưa ra những lí lẽ từ chối “thấu tình đạt lí”:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Qua những lời lẽ đó, chúng ta có thể thấy được Từ Hải không hề quyến luyến, bịn rịn mà quên đi khao khát, ước vọng lớn lao của bản thân. Thậm chí, chàng còn tự tin khẳng định về niềm tin vào viễn cảnh tương lai của bản thân. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh thuộc phạm trù không gian để thể hiện niềm tin sắt đá đó: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh rợp đường”. Và thời gian mà chàng hứa hẹn với Thúy Kiều “một năm sau vội gì” càng khẳng định rõ nét hơn quyết tâm, niềm tin mãnh liệt thực hiện đến cùng lí tưởng của người anh hùng:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Hành động dứt khoát, mạnh mẽ, không do dự của người anh hùng đã được thể hiện rõ qua những động từ “quyết”, “dứt áo”, “ra đi”. Bằng cảm hứng ngợi ca, khẳng định và lí tưởng hóa, tác giả đã tái hiện viễn cảnh không gian ra đi mang tầm vóc vĩ mô của người anh hùng. Giữa không gian “gió mây”, “dặm khơi” kì vĩ, rộng lớn, con người hiện lên với tư thế sánh ngang tầm vũ trụ. Hình ảnh “chim bằng” sải cánh trên bầu trời cao rộng, trong bao la “dặm khơi” cùng gió, cùng mây đã làm nổi bật tư thế của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn. Đó là khát vọng vùng vẫy bốn bể trong khung trời tự do và thoát khỏi mọi khuôn khổ, bế tắc để làm nên sự nghiệp lẫy lừng.

Như vậy, qua đoạn trích Chí khí anh hùng, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng với khát vọng lớn lao vùng vẫy “bốn bể năm châu” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang, lẫm liệt làm chủ vũ trụ thông qua những hình tượng có tính ước lệ như “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”,…. Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả đối với hình tượng nhân vật.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 8

Tố Hữu đã từng dành những lời ngợi ca sâu sắc nhất cho một nhà đại thi sĩ rằng:

“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Người đó không ai khác chính là Nguyễn Du cùng với kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ trong Truyện Kiều đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Ở đó, ẩn sau số phận cuộc đời mỗi nhân vật đã được nhà đại thi hào của dân tộc chúng ta gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Và trong số những trích đoạn của “Truyện Kiều”, đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu nhất với sự phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí , khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng…

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” nằm ở phần hai: Gia biến và lưu lạc, từ câu 2213 đến câu 2230. Lúc ấy, khi mà Thúy Kiều đang tuyệt vọng, chìm đắm trong cuộc sống đau khổ, ê chề nơi lầu xanh thì Từ Hải đã xuất hiện và cứu nàng ra khỏi chốn tửu sắc đầy thị phi ấy. Nhờ có Từ Hải, Thúy Kiều được báo ân báo oán, được hưởng hạnh phúc vợ chồng như những người phụ nữ bình thường khác. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được “nửa năm” thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi.

Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với ngòi bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình. Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Nửa năm chính là khoảng thời gian Kiều và Từ Hải chung sống hạnh phúc bên nhau. Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng ấy khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập: Một bên là không gian khuê phòng “hương lửa đương nồng” với cuộc sống vợ chồng đằm thắm mặn nồng, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Từ Hải được đặt trong hoàn cảnh thử thách chí lớn, khi chàng phải lên đường giữa lúc hạnh phúc gia đình trọn vẹn, viên mãn. Đường đường là đấng “trượng phu” – một người đàn ông có hoài bão chí lớn, chàng không một chút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Những từ ngữ, hình ảnh: “thoắt”, “động lòng bốn phương” đã thể hiện một quyết định nhanh chóng, dứt khoát, bừng lên cái chí anh hùng giữa trời bể mênh mông của Từ Hải. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa chí vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn vẽ lên tư thế tự tin, ngạo nghễ, hiên ngang với thái độ mạnh mẽ, dứt khoát quyết tâm làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng mang hùng tâm tráng chí. Bốn câu thơ đầu thể hiện một khát vọng thực hiện chí lớn của chàng anh hùng họ Từ. Khát vọng ấy không những được đặt trong một bối cảnh đặc biệt để thấy một Từ Hải không quyến luyến, bịn rịn, không vì tình yêu mà quên đi lí tưởng cao cả; mà còn được đặt trong một không gian vũ trụ rộng lớn để tôn lên tầm vóc người anh hùng.

Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:

Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nho giáo đã viết, phận nữ nhi: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Hơn nữa, trong hoàn cảnh của Thúy Kiều lúc này, Từ Hải chính là điểm tựa tinh thần duy nhất. Từ đã dang tay cứu vớt cuộc đời Kiều, cho Thúy Kiều những ngày tháng hạnh phúc nên theo quy luật tâm lý thông thường, Kiều luôn muốn gắn mình với Từ Hải. Đó là tình yêu, là sự cảm thông, là đức hi sinh thủy chung son sắt với chồng của nàng Kiều. Ấy thế nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:

“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

Bằng một câu hỏi tu từ, Từ Hải như vừa trách vừa khuyên Kiều không cần phải sống theo đạo tam tòng cổ hủ của đời xưa, mong vợ mình vượt lên khỏi cái suy nghĩ đó để là người sánh vai với đấng anh hùng như chàng. Từ Hải đã từ chối khéo léo để Kiều hiểu ra vấn đề, từ đó thấy được sự thấu hiểu sâu sắc của chàng đối với vợ mình, khẳng định tình cảm giữa hai người là tri âm tri kỉ chứ không phải tình yêu đơn thuần. Hơn thế nữa, Từ Hải còn vẽ ra viễn cảnh tương lai qua trí tưởng tượng và sự tự tin ngạo nghễ của người anh hùng:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.”

Bút pháp ước lệ tượng trưng cùng những hình ảnh, âm thanh được phóng đại: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh” và biện pháp hoán dụ “mặt phi thường”,… tất cả đã khắc họa lên sự kì vĩ, hùng tráng, vang dội của những chiến công sánh vai với chân dung của người anh hùng tài năng xuất chúng. Có thể thấy, Từ Hải ở thực tại nhưng dường như đang sống ở những ngày chiến thắng. Mục đích của chàng là để khẳng định danh tiếng của bản thân giữa đời và hơn hết, Từ Hải muốn có sự nghiệp để đón rước Kiều về làm vợ với nghi lễ trang trọng nhất: “rước nàng nghi gia”. Đó là chí khí anh hùng gắn liền với tình yêu thương, coi trọng Kiều. Tuy nhiên, mặc dù cứng rắn như vậy nhưng chàng vẫn kín đáo thể hiện sự quan tâm, lo lắng của mình dành cho Thúy Kiều:

“Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Biết trước rằng con đường mình đi “bốn bể không nhà”, có khi màn trời chiếu đất nhưng chàng vẫn quyết tâm đi và dùng nó làm lý do để khuyên Kiều ở nhà. Chàng mong vợ thấu hiểu, cảm thông cho nỗi khổ tâm của mình cũng chính là của người anh hùng khi sự nghiệp vừa bắt đầu còn nhiều khó khăn, gian khổ. Sau những lời lẽ đầy quan tâm ấy là lời hứa hẹn ước một năm sẽ thực hiện giấc mộng công danh của Từ Hải. Điều đó cho thấy, Từ Hải không chỉ có khát vọng, hoài bão mà còn có quyết tâm với ý chí, nghị lực phi thường. Thông qua cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải, Nguyễn Du đã thể hiện quan niệm về người anh hùng là sự thống nhất giữa một con người đời thường giản dị với một đấng trượng phu đầy quyết tâm hoài bão. Từ Hải không chỉ mang khát vọng lớn lao mà còn rất mực tâm lý, vừa yêu, hiểu lại trân trọng Thúy Kiều.

Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bởi hình ảnh ước lệ:

“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Nhịp thơ 2-2-2 cùng với các động từ mạnh liên tiếp: “quyết”, “dứt”, “ra đi” đã miêu tả sự dứt khoát, mạnh mẽ của Từ Hải. Từ Hải không một chút băn khoăn, do dự, đắn đo mà luôn mạnh mẽ, dứt khoát trong mọi hoàn cảnh. Sử dụng điển tích điển cố “chim bằng” cùng với hình ảnh ẩn dụ, Nguyễn Du đã càng tô đậm sự kì vĩ, phi thường, tư thế lồng lộng của Từ Hải giữa vô cùng của tự nhiên. Nguyễn Du dường như đã lựa chọn những hình ảnh đẹp đẽ nhất để miêu tả và tôn vinh Từ Hải bằng cái nhìn lạc quan, bay bổng của mình.

Qua ngòi bút của Nguyễn Du, “Chí khí anh hùng” đã được vẽ lên bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, với hình ảnh “bốn bể”, “chim bằng” … lấy cái bao la, rộng lớn của vũ trụ để hình dung về khao khát làm nên sự nghiệp lớn của Từ Hải. Mặt khác, ông còn thổi hồn vào tác phẩm của mình những cảm hứng sáng tạo lãng mạn, chính là tình cảm, là tình yêu thương, là tấm chân tình của Từ Hải và Thúy Kiều dành trọn cho nhau bằng niềm tin tưởng vào tương lai. Từ Hải và Thúy Kiều không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà nó đã trở thành “tâm phúc tương tri”, hiểu nhau sâu sắc, nàng hiểu ta cũng như ta hiểu nàng. Không những thế, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy sự tinh tế, tài tình của mình khi lí tưởng hóa hình ảnh người anh hùng mang tầm vóc vũ trụ cứu giúp đời Từ Hải – một đấng trượng phu có lí tưởng cao cả nhưng vẫn rất bình dị, và là biểu tượng của khát vọng tự do, của tư tưởng nhân văn cao đẹp. Và từ đó, ông gửi gắm trọn vẹn giấc mơ công lí, khát vọng tự do trong cuộc sống, gửi gắm giấc mơ của mình vào hình tượng người anh hùng Từ Hải nói riêng và đoạn trích “Chí khí anh hùng” nói chung.

Như vậy, qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng với khát vọng lớn lao vùng vẫy “bốn bể năm châu” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang, lẫm liệt làm chủ vũ trụ. Nhờ đó mà dưới ngòi bút của Nguyễn Du, nhân vật luôn có một sức sống đậm sâu trong lòng bạn đọc muôn đời.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 9

Truyện Kiều được xem là một đỉnh cao chói lọi của truyện thơ Nôm, là quốc hồn, quốc túy của dân tộc, một kiệt tác của văn học Việt Nam. Đọc tác phẩm ta không thể không xót xa, thương cảm trước một nàng Kiều tài hoa bạc mệnh, căm phẫn trước những Hoạn Thư ích kỉ, hẹp hòi với lòng ghen tuông ngút trời, Tú Bà độc ác, Mã Giám Sinh giả nhân giả nghĩa; đồng cảm trước một Thúc Sinh dù có chút nhu nhược nhưng là kẻ si tình, trọng tình trọng nghĩa. Và đặc biệt, ta không thể quên được hình ảnh một Từ Hải đầu đội trời, chân đạp đất, một người hùng lí tưởng với những phẩm chất và chiến công phi thường. Đoạn trích Chí Khí anh hùng đã thể hiện rõ nhất cốt cách của người anh hùng này.

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong ”

Trai anh hùng – gái thuyền quyên, tình yêu của Từ Hải và Thúy Kiều vượt bao sóng gió để đến được với nhau. “Chàng”và “thiếp” tuy hai mà một, hiểu rõ nhau, thông cảm, sẻ chia cùng nhau. Tình cảm đang mặn nồng, thì kẻ “trượng phu” lại nuôi chí lớn, ý nguyện lập công danh nơi biên ải xa xôi. Chàng đã tạm gác lại nỗi niềm riêng bên gia đình nhỏ để ra đi xây dựng sự nghiệp. Điều đó cho thấy Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà còn người của chiến công và sự nghiệp hiển hách. Hình ảnh Từ Hải lên đường một mình một ngựa thể hiện khí phách của một người anh hùng dũng cảm, ra đi dứt khoát , không để niềm riêng vướng bận. Một người có chí khí mạnh mẽ, chí tang bồng phải làm nên nghiệp lớn, khát khao được vùng vẫy bốn bể năm châu. Đó là lí tưởng, là mục đích cao đẹp của một vị anh hùng nuôi chí lớn.

“Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.”

Sự nghiệp vinh quang đang đợi chàng phía trước. Từ ra đi không chút do dự, một lòng hướng về chí lớn tạo lập công danh. Động từ “thoắt” thể hiện sự nhanh chóng, quyết định một cách dứt khoát , chí tung hoành khắp bốn phương, người anh hùng chẳng thể để bản thân nghỉ ngơi khi chưa có công danh trong tay, cũng không thể giam mình trong không gian chật hẹp khi chí lớn chưa thành. Quyết định ra đi chắc hẳn sẽ không dễ dàng với Từ Hải bởi bên cạnh chàng còn có người mình thương, nhưng đó là quyết định sáng suốt và vững vàng. Bởi trong con người Từ Hải luôn nung nấu chí nguyện anh hùng.

“Kiều rằng: phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Trải qua bao bể dâu, đau đớn, vừa hạnh phúc chưa được dài lâu, Từ Hải lựa chọn ra đi chắc hẳn Kiều cũng rất buồn. Nhưng với tấm lòng nhân từ, lại là người tri âm tri kỉ với Từ, Kiều hiểu hơn ai hết chí hướng của Từ Hải. Và nàng sẽ không cản bước Từ, trái lại, nàng là người ủng hộ, mong muốn được đi cùng chồng sẻ chia khó khăn gian nan nơi chiến trận. Đó là vẻ đẹp trong nhân cách Kiều.

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Một lần nữa, Từ khẳng định tình cảm khăng khít, gắn bó giữa Kiều và chàng nhưng đồng thời cũng có lời trách cứ nhẹ nhàng: Lòng dạ nhau đã hiểu, sao nàng chưa thoát khỏi những mong muốn tầm thường của bậc nữ nhi. Là người phụ nữ của bậc trượng phu phải thật cứng cỏi và mạnh mẽ. Thông qua lời của Từ, tình yêu thương và sự trân trọng Kiều được bộc lộ rõ nét.

Trong bất kì cuộc chia li nào, người phụ nữ cũng là người chờ đợi và u sầu hơn cả. Từ Hải hiểu hơn ai hết điều đó. Song phút chia tay lúc này không quá bị lụy mà hướng tới những chiến công hiển hách, tạo niềm tin nơi Thúy Kiều:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?”

Trong suy nghĩ của bậc đại trượng phu lúc này là hoài bão và những chiến công hiển hách. Dù đi trong tư thế một mình, một ngựa nhưng khi lập công trở về với mười vạn tinh binh, với tiếng chiêng và bóng cờ rợp đất trời trong hào khí chiến thắng. Chàng tin những gì mình nói, tin những gì mình làm và hơn hết đem lại vinh quang cho đất nước, cho nhân dân và cho người phụ nữ của mình. Lúc ấy sẽ cùng Kiều vui vầy hưởng hạnh phúc lứa đôi. Chàng không thể để cho người mình yêu phải chịu khốn khổ nơi xa trường và khẳng định “một năm” sau sẽ trở về. Một mốc thời gian cụ thể, cho thấy được quyết tâm và sự tự tin, bản lĩnh của Từ Hải.

Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đây không phải là một lời hứa đơn thuần mà là một thề hẹn, một lời đinh ninh. Dù trong lòng có bão bùng, tâm can có gào thét thì nàng hãy dặn lòng mình xuống để ta đi, rồi ngày sau trở về trong vinh quang hiển hách. Nàng hãy yên lòng chờ đợi. Chí anh hùng trong con người Từ Hải không chỉ là hoài bão, khát khao mà còn là con người có đạo đức, trách nhiệm, là con người có một tấm lòng trượng nghĩa, khao khát lập công danh.

Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Hành động nhanh chóng, kiên quyết “quyết lời”, “dứt áo ra đi”.

Từ Hải đã không để tình cảm quyến luyến, bịn rịn làm lung lay và ngăn bước ý chí, sự nhất quán trong suy nghĩ và hành động. Nguyễn Du thật tinh tế khi sử dụng hình ảnh cánh chim bằng và hình ảnh “gió, mây” thường gặp trong văn chương cổ điển tượng trưng cho người anh hùng có lí tưởng, có mục đích cao đẹp, có bản lĩnh phi thường sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, thỏa sức vùng vẫy giữa biển trời để thực hiện lí tưởng của bậc đại trượng phu.

Qua đoạn trích Chí Khí anh hùng ta thấy được Nguyễn Du đã thể hiện ước mong về người anh hùng lí tưởng trong thời đại với khát vọng lớn lao và tấm lòng cao cả. Đồng thời, cho thế hệ trẻ những người như chúng em bài học về mục đích và lí tưởng sống. Hãy can đảm tiến về phía trước, đặt ra những mục tiêu cho bản thân, kiên trì với mục tiêu. Hãy là những thanh niên của thế hệ mới đầy nhiệt huyết, sống với ước mơ và lí tưởng dù phía trước có gian nan, thách thức hãy giữ vững niềm tin vào chính bản thân mình. Thành công sẽ đến với những người tận lực và tận tâm.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 10

Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, ông được mệnh danh là đại thi hào, suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật trong số đó có thể kể đến kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.

Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, ông được mệnh danh là đại thi hào, suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật trong số đó có thể kể đến kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.

Nguyễn Du tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc”. Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan. Bốn nghề chơi: cầm, thư, thi, hoạ bốn nghề đều thông thạo. Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 1780, Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Nét nổi bật trong tác phẩm của Nguyễn Du chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành… nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả, là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy, thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.

Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Bốn câu mở đầu đoạn trích là khát vọng lên đường của Từ Hải:

Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Khoảng thời gian nửa năm ấy có biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp bên Thúy Kiều, tình yêu đang lúc mặn nồng thì Từ Hải quyết định ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ, là người đàn ông có tài năng xuất chúng. Từ Hải đã “động lòng bốn phương”, ý chí muốn làm nên nghiệp lớn. Hình ảnh “trời bể mênh mang” như thể hiện được ý chí lớn lao của Từ Hải. Khát khao được vẫy vùng, tung hoành bốn phương là một sức mạnh tự nhiên không có gì ngăn cản nổi. Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải vốn đã là một anh hùng hảo hán “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, đã từng “Nghênh ngang một cõi biên thùy”. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn, không có gì cản được bước chân chàng.

Bất kể cuộc chia li nào cũng đẫm nước mắt và nỗi buồn, Thúy Kiều và Từ Hải cũng không ngoại lệ:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Trong lúc “hương lửa đương nồng” nàng không muốn cách xa Từ Hải- người chồng đồng thời là ân nhân cứu mạng thoát khỏi chốn lầu xanh. Thúy Kiều một lòng một dạ muốn theo chồng mình “Nàng rằng: Phận gái chữ tòng”, nhắc đến chữ tòng trong lễ giáo phong kiến, có chồng thì phải theo chồng để được đi theo. Nàng muốn đi theo chồng để nâng khăn sửa túi, có người bầu bạn, cùng chia sẻ những khó khăn cuộc đời mà chồng phải chịu. Dù biết là rất gian nan và khó khăn nhưng vẫn một lòng xin theo. Đó là mong muốn chính đáng, hợp lí, thuận tình.

Từ Hải đã từ chối mong muốn của Kiều, đó là phản ứng tất yếu của một người anh hùng chân chính:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

“Tâm phúc tương tri” nghĩa là hai người đã hiểu nhau sâu sắc, Từ Hải coi Kiều là tri kỉ, hiểu mình hơn ai hết tại sao vẫn chưa thoát khỏi “nữ nhi thường tình”. Đó là một lời trách nhẹ Thuý Kiều tại sao không thấu hiểu cho hành động của mình đồng thời đó còn là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt lên thứ tình cảm thông thường để làm vợ một người anh hùng, vượt qua những bất trắc trước mắt để hướng về một tương lai tốt đẹp hơn. Từ Hải hứa với Thúy Kiều bằng tình cảm sâu nặng:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

“Mười vạn tinh binh”, “Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường” nghĩa là tương lai thành công. Chàng phải đi đến khi nào lập nên sự nghiệp, có tinh binh đi sau, có lá cờ rợp đất thì mới trở về tìm nàng để cho nàng có một cuộc sống sung sướng. “Rõ mặt phi thường” chứng tỏ được tài năng xuất chúng. Từ Hải nói lên niềm tin tưởng sắt đá vào tương lai, sự nghiệp. “Rước nàng nghi gia” nghĩa là cho Kiều danh phận, cuộc sống viên mãn. Từ Hải là người anh hùng có chí khí, thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ.

Để từ chối khéo ước nguyện muốn đi theo của Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ hết sức thuyết phục:

“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Chàng không cho Kiều đi theo vì không muốn vợ mình phải chịu khổ cực, vất vả. Bốn bể không có nhà thì làm sao một người con gái như nàng Kiều có thể chịu đựng được. Việc gây dựng sự nghiệp không phải ngày một ngày hai nên Từ Hải không muốn vướng bận ảnh hưởng đến việc lớn, nếu Kiều đi theo sẽ không chăm sóc được cho nàng một cách trọn vẹn. Vì thế đành hứa hẹn và an ủi nàng “Đành lòng chờ đó ít lâu”. Từ Hải là một người chồng tâm lí, người anh hùng nhưng vẫn rất chân thực, đời thường. Là con người có khát vọng lớn lao, tin tưởng vào tương lai, có thể đem lại hạnh phúc cho Kiều.

Cuộc chia tay của Thúy Kiều và Từ Hải trong đoạn trích được miêu tả với sự dứt khoát:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.

Hành động “dứt áo ra đi” của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân. Qua đó, ta có thể khẳng định được Từ Hải chính là bậc anh hùng cái thế, có tầm vóc phi thường, sánh ngang với trời đất, vũ trụ. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.

Với nghệ thuật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng; lời thoại bộc lộ tính cách, hình ảnh ẩn dụ Nguyễn Du đã xây dựng nên hình tượng một người anh hùng có khí phách hiên ngang, phi thường. Một con người khí chất hơn người, hoài bão lớn lao và niềm tin sắt đá vào tài năng của mình. Nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi “vẫy vùng trong bốn bể”, không vì “hương lửa đương nồng” mà chùn chân, nhụt chí.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 11

Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca:

“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích – bài thơ “Chí khí anh hùng” chính là tiêu biểu nhất cho điều này.

Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng. Hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh hùng. Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình.

Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Chàng vốn sinh ra không phải là con người của những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn .Rõ ràng, hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ. Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa sức vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những điểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận:

“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”

Hay như:

“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc binh đao
Dã nhà đeo bức chiến hào
Thét roi cầm vị ào ào gió thu”

( Chinh phụ ngâm_ Đoàn Thị Điểm)

Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất. Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.

Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:

Nàng rằng: “ Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cùng một lòng xin đi”

Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Nho giáo viết đã phận nữ nhi “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử”. Thế nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:

Từ rằng: “Tam phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”

Mới nghe qua thì cứ nghĩ là một lời trách cứ nhưng đằng sau đó lại là lời động viên người tri kỉ của mình biết vượt lên những tình cảm thông thường để sánh cùng trí lớn của người anh hùng. Vì vậy, sau này khi nói về nỗi nhớ nhung da diết của Thúy Kiều dành cho Từ Hải, Nguyễn Du viết:

“Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”

Nàng hướng con mắt về phương trời xa không chỉ để tìm kiếm một dáng hình thân thuộc khi xưa, đó còn là sự ngóng đợi vào sự nghiệp lớn lao mà Từ Hải đã dốc lòng dựng xây:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng cây rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Ngày chàng hoàn thành xong nghiệp lớn cũng sẽ chính là ngày chàng trở về đón nàng trong tư cách là một người chủ tướng chỉ huy mười vạn tinh binh với chiêng chống dậy đất, cờ quạt dậy đường. Những lời thốt lên từ người anh hùng không hề mang tính chất khoa trương mà đầy quả quyết chắc chắn thể hiện sự tự tin tuyệt đối của nhân vật vào cơ đồ mà mình tạo dựng. Niềm tin mãnh liệt của Từ truyền sang cho Kiều và lan tỏa ra khắp tất thảy bạn đọc.

Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bở hình ảnh ước lệ:

Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Trong thơ ca trung đại cổ điển ,hành động “dứt áo ra đi” không phải là quá xa lạ, nó mang tính chất lưu luyến bịn rịn chẳng nỡ rời xa. Thế nhưng, đặt trong đoạn trích và đặt trong hình tượng Từ Hải thì đó lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của bậc nam nhi. Phải chăng vì thế mà Nguyễn Du đã không chút do dự nâng nhân vật của mình lên, ví hình ảnh chàng lúc lên đường với hình ảnh chim bằng cất cánh bay vào muôn trùng dặm khơi? Hình ảnh đó phần nào thể hiện cái nhìn lãng mạn và khát vọng thoát khỏi thời đại mình- một tư tưởng tiến bộ vượt bậc so với những người đương thời.

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” xây dựng hình tượng Từ Hải bằng bút pháp ước lệ hóa kết hợp với lối ngôn ngữ giàu sức gợi đã khẳng định rõ phẩm chất cốt lõi của người anh hùng không để tình cảm riêng rằng buộc chí lớn luôn luôn hành động đề hướng tới sự nghiệp cao cả, vĩ đại. Nhờ đó mà nhân vật có một sức sống đậm sâu trong lòng bạn đọc muôn đời.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 12

Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người anh hùng với khí phách hiên ngang. Từ Hải là người đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi cảnh sống nhơ nhớp, ô nhục khi nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Hai người chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng do Từ Hải muốn có được sự nghiệp lớn lao nên đã từ biệt Thúy Kiều ra đi. Ý chí, quyết tâm ấy của chàng được thể hiện qua đoạn trích “Chí khí anh hùng” nằm trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

Đoạn trích này nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lí tưởng về người anh hùng của tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì sự nghiệp của Từ Hải:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được những công trạng lớn lao. Chẳng vậy mà Nguyễn Công Trứ từng viết:

“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.

Từ Hải là một đấng nam nhi muốn “vẫy vùng” nên đã “động lòng bốn phương”. Chàng là người có ý chí lập công danh, sự nghiệp lớn. Động từ “thoắt” vừa thể hiện một trạng thái nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác giả Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc vợ chồng chốn khuê phòng như một cám dỗ còn một bên là không gian rộng lớn thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương. Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, lí tưởng cuộc đời mình. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng là “trượng phu” – người nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ chồng còn nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến “hoa ghen”, “liễu hờn” của người vợ Thúy Kiều còn níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để thực hiện khát vọng “vẫy vùng trong bốn bể” mà không một chút do dự, phân vân. Một con người “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” như Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi “trời bể mênh mang” thật oai phong, lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm chùn bước chân của người anh hùng. Từ Hải “không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Chàng đối diện với trời đất, vũ trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.

Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của Thúy Kiều – Kim Trọng cũng không ngoại lệ:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật “tam tòng”: ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc “hương lửa đương nồng”, nàng không muốn phải chịu cảnh xa cách, chia lìa với Từ Hải – một người chồng nhưng đồng thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”. Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà tại sao lại không thấu hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng quá lo lắng cho mình. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi thường và nắm giữ trong tay “mười vạn tinh binh”thì chàng sẽ quay trở về rước Kiều “nghi gia” bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh rộn rã của “tiếng chiêng dậy đất” và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường.

Để từ chối khéo léo mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ đầy sức thuyết phục:

“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lòng mình hay thật tâm chàng không muốn người vợ của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng đối với phận nữ nhi như Thúy Kiều thì việc đó không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì những lí do trên mà Từ Hải khuyên Kiều “đành lòng” chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm chờ đợi không phải thời gian quá dài nhưng nó lại thể hiện chí khí,lòng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc gây dựng sự nghiệp, công danh không phải là chuyện ngày một ngày hai mà đó còn là chuyện của cả đời người nhưng Từ Hải lại hứa với Thúy Kiều sẽ đạt được công danh sau một năm nữa. Phải là người có quyết tâm cao độ, tin vào khả năng của bản thân thì mới có lời hứa như vậy.

Nếu cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong “Chinh phụ ngâm” được Đặng Trần Côn miêu tả:

“Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng”

thì cuộc chia tay của Từ Hải và Thúy Kiều trong đoạn trích “Chí khí anh hùng” được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.

Người xưa có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân nhưng với khát vọng lớn lao của con người đầu đội trời chân đạp đất thì ải mĩ nhân không làm khó được Từ Hải. Hành động “dứt áo ra đi” của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, “chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn”. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.

“Chí khí anh hùng” đã miêu tả cuộc chia ly giữa “trai anh hùng” và “gái thuyền quyên” đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh hùng Từ Hải. Đó là tính cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc “trượng phu” trong thiên hạ. Nhân vật này được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi “vẫy vùng trong bốn bể”, không vì “hương lửa đương nồng” mà chùn chân, nhụt chí.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 13

Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.

Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.

Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).

Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.

Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều – Kim Trọng, Thúy Kiều – Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.

Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu…, mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.

Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.

Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.

Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.

Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi… tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.

Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.

Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.

Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải – nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 14

Từ Hải “khách biên đình” oai phong lẫm liệt:

“Râu hùm hàm én mày ngài.
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.

Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, đã tái sinh cuộc đời nàng, nâng Kiều thành một mệnh phụ phu nhân:

“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”.

Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó. Từ Hải đã giã biệt phu nhân để lên đường chinh chiến quyết “rạch đôi sơn hà”:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang.
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Bức chân dung Từ Hải hiện lên trong cảnh giã biệt thật đẹp. Bốn phương trời xa vẫy gọi, “thoắt đã động lòng” đấng trượng phu. Cuộc sống êm ấm gối chăn đầy hạnh phúc “hương lửa đương nồng” cũng không thể níu giữ. Một cái nhìn vời vợi “trời bể mênh mang”. Đó là cái nhìn mang tầm vũ trụ của một anh hùng chí lớn, như Nguyễn Công Trứ từng thổ lộ:

“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.
(Chí anh hùng)

“Thoắt” nghĩa vụt chốc, diễn ra rất nhanh và bất ngờ. Thoắt đã thể hiện sự chấn động vô cùng mạnh mẽ trong tâm hồn đấng trượng phu. Từ Hải đã ra đi với khát vọng lập nên sự nghiệp, bằng võ công của bậc tài trai:

“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Kiều đã coi chữ “tòng” làm trọng; tòng phu là một trong đạo tam tòng của người phụ nữ ngày xưa. Đó cũng là một nét đẹp đạo đức Thuý Kiều:

“Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Từ Hải đã nói với Kiểu bao lời tình nghĩa. Không thể đế cho giọt nước mắt. tiếng thở dài của người vợ đẹp níu giữ. Từ Hải khuyên Kiều hay khẽ nhắc mình: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình ?”. Hứa với Kiều về một ngày mai huy hoàng, một ngày mai sum vầy hạnh phúc:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ra sẽ rước nàng nghi gia”.

Đó là lời hứa danh dự của một đấng trượng phu phi thường. Có tin vào chí khí và sức mạnh “rạch đôi sơn hà” của đáng tài trai “đội trời đạp đất” mới có lời hứa như dao chém đá ấy. Với Từ Hải, bốn phương vẫy gọi là chiến công đang chờ đón, là một ngày mai hiển hách có một lực lượng hùng hậu “mười vạn tinh binh ‘, ‘huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam”. Thời gian đợi chờ mà Từ Hải an ủi Kiều cũng là một lời hứa:

“Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Hình ảnh cánh chim bằng bay vút muôn dặm khơi là hình ảnh người anh hùng mang chí lớn tung hoành vẫy vùng trong bốn bể:

“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.

Đọc “Truyện Kiều”, ta bắt gặp hình ảnh Từ Hải đã trở lại Lâm Tri sau một năm trời giã biệt. Trong cảnh “Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân”. Từ Công hỏi phu nhân:

“Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng.
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”.

Qua đoạn thơ 18 câu này (từ câu 2213 – 2230), nhân vật Từ Hải đã được Nguyễn Du miêu tả với tấm lòng quý mến ngợi ca về chí khí anh hùng và khát vọng sự nghiệp phi thường. Từ Hải là một nhân vật anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp trong “Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 15

Truyện Kiều là một trong những kiệt tác để đời trong nền văn học Việt Nam của Nguyễn Du. Với tài và tâm của mình, Nguyễn du vận dụng sáng tạo ngôn ngữ , nghệ thuật và sự thấu hiểu cảm thông tái hiện cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều và những mối tình nàng trải qua với bao đau khổ. Trong đó có anh hùng Từ Hải được khắc họa qua đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.

Thúy Kiều sống trong cảnh nhơ nhớp lầu xanh , nhưng may mắn mỉm cười với nàng khi nàng gặp Từ Hải, được vị anh hùng chuộc khỏi chốn lầu xanh và cưới làm vợ. Sau nửa năm lửa đượm hương nồng, Từ Hải muốn tạo dựng cho mình sự nghiệp lớn nên đã từ biệt Thúy Kiều và hình ảnh người anh hùng lúc lên đường được tái hiện trong bốn câu đầu:

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Như chúng ta biết “anh hùng” là người trong bụng có chí lớn,có mưu cao, có tài bao trùm cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia. Và khi chàng dứt khoát ra đi để lại tình riêng “nửa năm hương lửa đương nồng”, những hạnh phúc vợ chồng giản dị, riêng tư, mang đi trong mình chí hướng bốn phương , quyết hướng đến sự nghiệp lí tưởng lớn lao cao cả. Dường như ý chí đó trở thành bản năng của người anh hùng không thể ngăn cản nổi. Người anh hùng ấy với tư thế đối diện với trời bể mênh mang, làm chủ mọi thứ , oai phong lẫm liệt “thanh gươm yên ngựa”, mạnh mẽ và dứt khoát. Khi nhìn bóng dáng Từ Hải ta lại nhớ đến hình ảnh người chinh phu:

Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in

Quả thật Từ Hải là một người anh hùng phi chí hướng bốn phương, chẳng thể giam mình nơi nắng không đến đầu mưa không đến mặt, một không gian chật hẹp. Mà chỉ có thể lên đường mới giải phóng được con người anh hùng ấy.

Trong cảnh tiễn biệt Từ Hải , tác giả ngụ ý để cho Từ Hải sẵn sàng trên yên ngựa và thanh kiếm bên mình, mới để Kiều và Từ Hải nói lời từ biệt. Biết rằng chồng mình tung hoành tứ phương, sống trong cảnh màn trời chiếu đất nhưng Thúy Kiều vẫn một lòng theo cùng, luôn muốn chia sẻ nỗi lo, tâm trạng, gánh vác cùng chàng những mệt nhọc mà phận làm thê nên làm. Thúy Kiều thuyết phục Từ Hải bằng đạo phu thê xưa cùng với tình cảm chân thành thể hiện sự thấu tình đạt lí, trong nghĩa trọng tình. Nhưng Từ Hải- đấng anh hùng lại nhẹ nhàng nói với Kiều bằng đạo tri âm:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì

Lời thuyết phúc của Từ Hải “tâm phúc tương tri” thể hiện sự tôn trọng Kiều, mong muốn nàng hiểu mình và khéo léo từ chối không để nàng phải chịu khổ bên mình. Với trí tuệ sáng suốt và một trái tim nhân hậu tấm lòng bao la , Từ Hải luôn muốn có một chiến công oanh liệt, đem đến niềm tin, tình yêu và sự trân trọng cho Thúy Kiều. Làm nên sự nghiệp cũng là lúc Từ Hải đạt được hạnh phúc mà chàng luôn hướng tới, một hạnh phúc tràn đầy cả về sự nghiệp lẫn tình yêu và đó là hạnh phúc xứng đáng với một người anh hùng.

Từ Hải trước đây cũng vậy, bây giờ mà mãi về sau vẫn mang trong mình sự tự tin sẽ làm chủ được tất cả. Chỉ vỏn vẹn thanh gươm yên ngựa cùng chí khí ngút trời nhưng Từ Hải tin rằng sẽ có trong tay “mười vạn tinh binh” về trong tiếng “chiêng dậy đất “ mang lại vẻ vang và hạnh phúc cho người con gái chàng hết mực thương yêu với lời hứa chắc nịch “năm sau” tạo thêm niềm tin vững chắc cho Thúy Kiều. tất cả mọi thứ toát ra từ Từ Hải: chí khí, tư thế, hành động , tài năng đều mang một vẻ phi thường. Chính điều đó làm cho tác giả tôn trọng, ngưỡng mộ gọi chàng là “trượng phu, mặt phi thường”, đặt nhân vật anh hùng trong một không gian đất trời rộng lớn bao la, hết mực ngợi ca.

Từ Hải trong đoạn trích Chí Khí Anh Hùng thể hiện lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du: phải chiến thắng cái bình thường, tầm thường để hướng tới cái phi thường, phải có những phẩm chất siêu phàm để trở thành một con người lí tưởng, hình mẫu được dựng lên cho ngàn đời sau.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 16

Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, ta không thể nào không nhắc đến “Truyện Kiều” – một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con người và lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát.

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” trích trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã dành những lời thơ của mình để nói về Từ Hải – người anh hùng lí tưởng có những phẩm chất cao đẹp, phi thường.

Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ở “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường. Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao.

Sau khi bị mắc bẫy và rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai, Kiều luôn sống trong tâm trạng đau khổ, giày vò. Giữa lúc ấy, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh giúp Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh đầy nhơ nhớp ấy. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được “nửa năm” thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình:

Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Mặc dù trong thời gian sáu tháng, tình yêu của họ luôn nồng nàn, cháy bỏng nhưng với chí lớn và khát khao công danh nghiệp lớn Từ Hải thoắt đã “động lòng bốn phương”. “Lòng bốn phương” ở đây là hình ảnh tượng trưng, ước lệ cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Hình ảnh “trời bể mênh mang” cũng mang ý nghĩa tương tự như vậy. Chúng như một sự ước lệ tạo nên một tầm vóc lớn lao, phi thường cho Từ Hải. Có thể nói tình yêu hay bất cứ một cái gì cũng không đủ sức để ngăn cản được bước chân của chàng. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ “trượng phu” cho Từ Hải như thể khẳng định một chí khí lớn ở chàng. Hình ảnh “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” diễn tả một phong thái ung dung của người “trượng phu” trên con đường gây dựng sự nghiệp ấy.

Đối với Thúy Kiều, Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân nhân có ơn vô cùng lớn đã cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh ô nhục. Vì vậy, trước quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn của chồng mình, Thúy Kiều đã xin đi theo để là người chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi

Nàng xin đi để được làm trọn chữ “tòng” vì theo nàng thì “xuất giá tòng phu” lấy chồng thì phải theo chồng, nguyện cùng chồng gánh vác mọi chuyện.

Nhưng lời Từ Hải đã quyết, như để làm an lòng Thúy Kiều:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Trước lời xin đi theo của Thúy Kiều, Từ Hải như trách Kiều: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”‘, đó cũng như một lời khuyên Kiều đừng xem nặng quá vấn đề “lấy chồng là phải theo chồng”, hãy xem nhẹ chuyện tình cảm vì sự nghiệp lớn lao của chồng. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao, Từ Hải nói như hứa hẹn sẽ gây dựng được một cơ đồ to lớn, nắm chắc trong tay “mười vạn tinh binh” và chàng sẽ trở về để đón Kiều trong “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời”. Lúc thành công quay trở lại cũng là lúc Từ Hải sẽ “rước nàng nghi gia”, đem lại địa vị và danh phận cho người mà chàng xem là tri âm tri kỉ. Những lời của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn biệt này càng làm rõ “chí khí anh hùng” của nhân vật này, thay vì những lời nói thể hiện sự bịn rịn, quyến luyến khi chia tay thì là những ước mơ, sự khẳng định nhất định sẽ thành công của chàng.

Từ Hải còn thể hiện chí khí của mình ở việc cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ “càng thêm bận” nhưng sâu thẳm bên trong là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu cực khổ, nay đây mai đó “bốn bể không nhà”:

Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu

Chàng còn dám khẳng định chắc chắn thời gian mà mình sẽ quay về đó là khoảng thời gian một năm. Từ Hải khuyên Kiều ở nhà đợi chàng trở về trong sự chiến thắng vẻ vang, hiển hách:

Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì.

Cách chia tay của Từ Hải rất khác biệt ở chỗ những lời chia tay được thay bằng những lời hứa vào một chiến thắng không xa, sự quyến luyến được thay bằng một quyết tâm vào tương lai.

Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Chàng dứt khoát ra đi với một quyết tâm sắt đá như cánh chim bằng khi đã cất cánh tung bay trên bầu trời thì phải bay thật xa mới nghỉ cũng như Từ Hải khi đã chiến thắng, thành công thì mới quay trở về.

Với đoạn trích “Chí khí anh hùng”, Nguyễn Du đã xây dựng được một hình tượng người anh hùng lí tưởng hoàn toàn mới. Có thể nói Nguyễn Du đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật này chính bằng tài năng nghệ thuật thể hiện ở sự sáng tạo độc đáo và sự đam mê văn chương của mình.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 17

Truyện Kiều là kiệt tác trong sáng tác của Nguyễn Du, cũng là một trong những tác phẩm làm nên sự hưng thịnh văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Qua Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự đồng cảm, xót xa với cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều mà còn gửi gắm ước mơ về người anh hùng có thể cứu dân, dẹp loạn thông qua hình tượng Từ Hải. Trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”, nhân vật Từ Hải xuất hiện nổi bật với những phẩm chất phi thường và khát vọng cao đẹp của người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”.

Trải qua bao biến cố của cuộc đời, những tưởng cuộc đời Thúy Kiều mãi bị vùi dập trong những đau đớn, ê chề thì Từ Hải đã xuất hiện, mang theo ánh sáng hi vọng cho cuộc đời nàng. Có thể nói gặp gỡ và nên duyên cùng với Từ Hải là hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời của Thúy Kiều. Tuy nhiên, cuộc sống hạnh phúc với nàng Kiều cũng không thể làm nguôi đi chí lớn của người anh hùng:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Sau nửa năm chung sống hạnh phúc với nàng Kiều, Từ Hải đã quyết định ra đi để thực hiện nghiệp lớn. Từ Hải vốn là người người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất với khát vọng tung hoành khắp muôn phương “nghênh ngang một cõi biên thùy”. Vì vậy dù đang sống trong những ngày hạnh phúc nhất cuộc đời cùng người mà mình yêu thương, trân trọng thì người anh hùng ấy cũng không thể quên đi chí lớn của người làm trai “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”.

Tư thế ra đi của Từ Hải được tác giả Nguyễn Du tái hiện qua một động từ “thoắt” thể hiện sự mau lẹ, dứt khoát của người trượng phu. “Trời bể mênh mang” không chỉ là hình ảnh ước lệ thể hiện sự rộng lớn trời đất, nơi người anh hùng thỏa sức tung hoành ngang dọc mà còn gợi ra tầm vóc lớn lao, phi thường của người anh hùng. Hình ảnh gươm ngựa “lên đường thẳng rong” góp phần làm nổi bật lên phong thái ung dung, tư thế đĩnh đạc, hiên ngang của Từ Hải.

Thấu hiểu khát vọng và quyết tâm của Từ Hải, Kiều không ngăn cản mà bày tỏ nguyện vọng muốn đi theo để tiện bề chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chồng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”

Thúy Kiều muốn đi theo Từ Hải để cùng sẻ chia, gánh vác làm trọn đạo “tam tòng chữ đức” của một người vợ và làm trọn tình nghĩa với một người tri kỉ, một người ân nhân có công cứu mạng. Tuy cảm động trước tấm lòng của nàng Kiều nhưng Từ Hải đã quyết chí ra đi mà không muốn vướng bận bởi tình cảm nam nữ và cũng là muốn bảo vệ nàng Kiều khỏi những hiểm nguy nơi chiến trường nên đã từ chối:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng binh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Dù hiểu được tấm lòng của Thúy Kiều nhưng Từ Hải vẫn cố gắng khuyên nhủ Kiều và muốn nàng thoát khỏi thói “nữ nhi thường tình” và hứa hẹn về tương lai tươi sáng, khi nghiệp lớn thành công, cơ đồ được gây dựng sẽ “rước nàng nghi gia”. Qua những lời nói của Từ Hải với Thúy Kiều, ta có thể thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người anh hùng, Từ Hải không để tình cảm chi phối mà vô cùng quyết đoán, dứt khoát với hành động của mình. Cũng cần phải hiểu rằng không phải sự dứt khoát của Từ Hải khi ra đi là vì vô tình hay trọng công danh hơn tình cảm. Chàng là người sống tình cảm hơn bất cứ ai, thay vì quyến luyến, động lòng thì Từ Hải muốn thể hiện bằng hành động, bằng quyết tâm chiến thắng để mang đến nàng Kiều không chỉ là danh phận mà còn là tình cảm.

“Bằng ngay bốn bể là nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Nếu ở những câu thơ trên Từ Hải có ý trách móc nàng Kiều vì sự yếu đuối của nữ nhi thường tình thì ngay câu thơ sau chàng đã kín đáo thể hiện sự quan tâm, động viên với nàng. Từ Hải mang tráng khí khắp bốn phương với toàn bộ quyết tâm và tự tin nhưng chàng cũng hiểu rằng con đường mình đang đi sẽ vô cùng chông gai, đó là cuộc sống màn trời chiếu đất, bốn bể không nhà. Từ Hải không muốn Thúy Kiều đi theo một là không muốn vướng bận, hai là muốn nàng phải xông pha vào chốn hiểm nguy cùng mình. Cuối cùng, để lại bao lưu luyến, Từ Hải dứt khoát lên đường:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Từ Hải là nhân vật hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ, phi thường của người anh hùng. Khi xây dựng nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác giả Nguyễn Du đã kín đáo thể hiện quan niệm về người anh hùng và ước mơ công lí.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 18

Trên diễn đàn văn học Việt Nam, Thúy Kiều xuất hiện trong trang thơ của đại thi hào Nguyễn Du với số phận “hồng nhan bạc mệnh” qua mười lăm năm lưu lạc. Nhưng trong quãng đường đầy rẫy oan khổ đó, có những lúc nàng Kiều được tận hưởng những niềm hạnh phúc về lứa đôi, về gia đình. Đó chính là thời điểm nàng gặp gỡ Từ Hải. Vị anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” đó đã đem đến cho người phụ nữ tài sắc vẹn toàn một danh phận, một vị trí xứng đáng. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa thành công bức chân dung nhân vật Từ Hải với phẩm chất, chí khí, lí tưởng hiên ngang và mang tầm vóc vũ trụ.

Trong tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”, “Chí khí anh hùng” là trích đoạn thuộc phần “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều tình cờ gặp Từ Hải – vị anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”. Khác với Thúc Sinh, Từ Hải đã cho Kiều một danh phận chính đáng. Với cảm hứng ngợi ca kết hợp bút pháp lãng mạn hóa, tác giả Nguyễn Du đã phác họa thành công vẻ đẹp của hình tượng nhân vật anh hùng Từ Hải với chí khí, tầm vóc, phẩm chất phi thường.

Trước hết, tác giả Nguyễn Du đã gợi ra không gian cuộc sống “Nửa năm hương lửa đương nồng” của Từ Hải và Thúy Kiều. Mặc dù đã tìm được “tri âm, tri kỉ” nhưng cuộc sống ấm êm, hạnh phúc vẫn không thể dập tắt khát vọng của Từ Hải: “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”. Tác giả Nguyễn Du đã dùng từ “trượng phu” kết hợp cụm từ ước lệ “lòng bốn phương” với thái độ trân trọng, ngưỡng mộ, khâm phục để diễn tả chí nguyện lập công, lập danh lớn lao của người anh hùng. Và tư thế làm chủ, hướng ra phương trời tự do đã được tái hiện rõ nét hơn nữa:

“Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Rõ ràng, Từ Hải không phải là con người của những đam mê, khát vọng thông thường. Đó là bậc trượng phu luôn hướng đến những không gian bao la, mang tầm vóc vũ trụ của “trời bể mênh mang”. Trong không gian vĩ mô đó, con người hiện lên với khát vọng làm chủ: Một người, một ngựa, một gươm hiên ngang, mạnh mẽ “lên đường thẳng rong”, tự tin về tương lai phía trước. Như vậy, với thái độ trân trọng, ngợi ca, ngưỡng mộ và kính phục, tác giả đã khắc họa nhân vật Từ Hải với tư thế hiên ngang cùng những khát vọng phi thường.

Ý chí quyết tâm trong việc “lập công, lập danh” của Từ Hải càng được thể hiện rõ nét hơn nữa trong cuộc đối thoại với Thúy Kiều. Là bậc tri kỉ của người anh hùng, Thúy Kiều thấu hiểu những khát vọng của chồng và xin đi theo chàng. Trước mong muốn của nàng, Từ Hải cũng đưa ra những lí lẽ từ chối “thấu tình đạt lí”:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Qua những lời lẽ đó, chúng ta có thể thấy được Từ Hải không hề quyến luyến, bịn rịn mà quên đi khao khát, ước vọng lớn lao của bản thân. Thậm chí, chàng còn tự tin khẳng định về niềm tin vào viễn cảnh tương lai của bản thân. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh thuộc phạm trù không gian để thể hiện niềm tin sắt đá đó: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh rợp đường”. Và thời gian mà chàng hứa hẹn với Thúy Kiều “một năm sau vội gì” càng khẳng định rõ nét hơn quyết tâm, niềm tin mãnh liệt thực hiện đến cùng lí tưởng của người anh hùng:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Hành động dứt khoát, mạnh mẽ, không do dự của người anh hùng đã được thể hiện rõ qua những động từ “quyết”, “dứt áo”, “ra đi”. Bằng cảm hứng ngợi ca, khẳng định và lí tưởng hóa, tác giả đã tái hiện viễn cảnh không gian ra đi mang tầm vóc vĩ mô của người anh hùng. Giữa không gian “gió mây”, “dặm khơi” kì vĩ, rộng lớn, con người hiện lên với tư thế sánh ngang tầm vũ trụ. Hình ảnh “chim bằng” sải cánh trên bầu trời cao rộng, trong bao la “dặm khơi” cùng gió, cùng mây đã làm nổi bật tư thế của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn. Đó là khát vọng vùng vẫy bốn bể trong khung trời tự do và thoát khỏi mọi khuôn khổ, bế tắc để làm nên sự nghiệp lẫy lừng.

Như vậy, qua đoạn trích Chí khí anh hùng, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng với khát vọng lớn lao vùng vẫy “bốn bể năm châu” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang, lẫm liệt làm chủ vũ trụ thông qua những hình tượng có tính ước lệ như “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”,…. Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả đối với hình tượng nhân vật.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 19

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc ta, nhắc tới thành công của ông thì không ai có thể không nhắc tới tuyệt tác Truyện Kiều. Đây là một tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc và trở thành đề tài bàn luận, nghiên cứu chưa bao giờ ngừng nghỉ. Trong tuyệt tác ấy ngoài nói về nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều thì nhân vật để lại nhiều dấu ấn cho người đọc mặc dù xuất hiện trong đoạn ngắn đó chính là nhân vật Từ Hải nằm ở đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.

Như chúng ta đã biết, Thúy Kiều sau khi bị mắc bẫy rơi vào chốn lầu xanh chịu nhiều đau khổ, tủi nhục. Khi ấy Từ Hải đã cứu nàng ra khỏi chốn đó vì nhận ra phẩm chất cao quý của Kiều. Tình yêu giữa Từ Hải với Thúy Kiều không ngăn được chí hướng xây dựng sự nghiệp. Chính vì thế nửa năm sau đó Từ Hải đã tiếp tục lên đường gây dựng cơ đồ:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Được nửa năm, khi mà tình yêu và cuộc sống vợ chồng đương còn nồng nàn, cháy bỏng nhưng lại không sao che khuất được bốn phương. Từ Hải sớm đã “động lòng bốn phương” điều đó thể hiện cho chí lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Bằng hình ảnh ước lệ “trời bể mênh mang” đã cho ta liên tưởng tới tầm vóc lớn lao và phi thường, một người mà tình yêu, gia đình hay bất cứ thứ gì cũng không ngăn cản được bước chân của chàng. Thêm vào đó hình ảnh gươm, ngựa “lên đường thẳng rong” cho ta thấy được phong thái ung dung của Từ Hải.

Cảnh tiễn biệt của Thúy Kiều với Từ Hải được tác giả miêu tả khác hẳn với các cảnh tiễn biệt khác đã có trong truyện như với Kim Trọng hay Thúy Kiều với Thúc Sinh. Lúc này Từ Hải đã ở thế khác hẳn, trên yên ngựa, gươm đã sẵn sàng. Có thể một mình ra đi, bốn bể là nhà, có thể là phiêu bạt nay đây mai đó nhưng vẫn không hề nao núng. Thúy Kiều biết vậy nhưng vẫn xin theo để chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chồng:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”

Tam tòng tứ đức, Thúy kiều không xin gì hơn chỉ muốn được theo chồng, cùng chồng gánh vác. Hơn nữa đây cũng không chỉ xuất phát từ chữ tòng trong “xuất giá tòng phu” mà còn đối với Kiều thì Từ Hải không chỉ là một người chồng mà còn là một vị ân nhân đã cứu nàng. Tuy nhiên xin là một chuyện mà thực tế Từ Hải đã quyết:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.”

Từ Hải trước lời cầu xin của Kiều thì bày tỏ lời trách móc khi Thúy Kiều mặc dù phẩm cách hơn người nhưng “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”, đồng thời cũng khuyên nàng không phải quá đặt nặng việc “tòng phu”. Lời trách ngắn ngủi và sau đó là lời hứa hẹn với Kiều rằng khi nào xây dựng được cơ đồ, có trong tay mười vạn tinh binh thì chàng sẽ đón nàng về dinh, đem lại cho nàng không chỉ danh phận mà còn cả địa vị.

Có thể thấy đây là khoảnh khắc thể hiện sâu sắc nhất chí khí của người anh hùng Từ Hải. Chàng không phải là người lụy tình, không vướng mắc mấy chuyện nữ nhi thường tình mà rất quyết đoán cho hành động của mình. Thay vì quyến luyến, bị rịn lúc tiễn biệt, thay vì nói lời yêu thương, nhung nhớ thì Từ Hải đã khẳng định sự thành công của mình trên con đường công danh. Tuy nhiên mặc dù cứng rắn như vậy nhưng chàng vẫn kín đáo thể hiện sự quan tâm, lo lắng của mình dành cho Thúy Kiều:

“Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Biết trước rằng con đường mình đi “bốn bể không nhà”, có khi màn trời chiếu đất nhưng chàng vẫn quyết tâm đi và dùng nó làm lý do để khuyên Kiều ở nhà. Bởi chàng cho rằng nàng theo thì “càng thêm bận”. Qua đó cũng cho thấy sự lo lắng nếu Thúy Kiều theo sẽ phải chịu khổ cực. Sau lời lẽ quan tâm ấy là lời khẳng định về thời gian, một lời hứa quyết tâm thực hiện cơ đồ trong vòng một năm của Từ Hải để Thúy Kiều yên lòng ở lại vì sẽ không phải chờ đợi quá lâu. Cuối cùng đoạn trích cũng là là sự lựa chọn dứt khoái của Từ Hải:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Sự quyết tâm của Từ Hải đã được đẩy lên cao nhất và không có gì có thể ngăn cản được. Qua đó ta thấy được anh hùng Từ Hải được Nguyễn Du miêu tả rất sâu sắc và sáng tạo. Từ Hải là nhân vật để Nguyễn Du gửi gắm tâm tư, tình cảm, ước mơ công lí trong hoàn cảnh xã hội đương còn tù túng. Đoạn trích góp phần tô đậm hình ảnh, tính cách của nhân vật, một nhân vật lí tưởng, mẫu người cao đẹp trong kiệt tác Truyện Kiều.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 20

Ly biệt là một đề tài quen thuộc trở đi trở lại trong kim cổ Đông- Tây, một trong bốn bi kịch của đời người ấy chính là sinh- ly- từ- biệt. Thế nhưng trong đoạn trích “ Chí khí anh hùng” đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa một cách tài tình cuộc chia ly giữa nàng Kiều và Từ Hải mà không hề có tâm trạng của kẻ đi- người ở, đồng thời làm sáng bừng lên hình ảnh Từ Hải – người anh hùng với ý chí hoài bão lớn lao, với sức mạnh tinh thần và khát vọng làm nên sự nghiệp phi thường. Bốn câu thơ đầu tiên của đoạn trích chính là hình ảnh lúc lên đường của Từ Hải:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.”

Câu thơ đầu tiên giới thiệu hoàn cảnh trước lúc ra đi của Từ Hải “ Nửa năm hương lửa đương nồng”. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng hình ảnh ẩn dụ “ hương lửa” kết hợp với thời gian “ nửa năm” là khoảng thời gian không dài gợi nên sự ấm áp của tình yêu đôi lứa đang ở lúc mặn nồng, tình cảm nhất. Nguyễn Du không đặt không gian ra đi của Từ Hải trong hoàn cảnh binh lửa mà ông lại đặt trong không gian gia đình, dụng ý này của ông càng thể hiện sự phi thường của nhân vật. Bởi lẽ sự hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu vừa là động lực lại vừa có thể là sự bào mòn ý chí, từ cổ chí kim đã có biết bao vị anh hùng bị đắm chìm bởi mĩ nhân.

Trong hoàn cảnh ấy mà Từ Hải vẫn có thể dứt áo ra đi nó thể hiện cái chí khí, cái nghị lực của một bậc nam tử hán. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ “ trượng phu” cho Từ Hải như thể khẳng định và ngợi ca cái chí khí lớn lao ở chàng. Người trượng phu trong thơ của đại thi hào Nguyễn Du dù có đang say trong hạnh phúc bên người tình nhưng chỉ cần nghĩ đến sự nghiệp lớn là có thể dứt khoát xoay bỏ. Từ “ thoắt” gợi tả hành động mạnh mẽ, kiên quyết, sự thức dậy mau lẹ bản chất anh hùng bên trong Từ Hải, đồng thời nó cũng tượng trưng cho dấu ngắt của bản tình ca và mở đầu ra một bản hùng ca.

Những hình ảnh mang tính ước lệ như “lòng bốn phương”, “ trời bể mênh mang” tượng trưng cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp, tạo nên hình ảnh một Từ Hải với tầm vóc phi thường, khí thế hiên ngang. Có thể nói tình yêu hay bất cứ thứ gì cũng không đủ sức ngăn cản bước chân chàng. “ Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” chính là phong thái ung dung mà lẫm liệt, mênh mang khát vọng của người anh hùng trên con đường gây dựng sự nghiệp, khẳng định mình bằng đường gươm mũi ngựa, bằng sự xông pha nơi chiến trận. Trước quyết tâm ra đi của Từ Hải, Kiều không can ngăn mà đồng ý, nàng bày tỏ ước nguyện xin đi theo để làm trọn chữ “tòng”:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi”

Cặp câu lục bát diễn tả lời nói thấu lý đạt tình của Kiều : về lý, lấy đạo tam tòng để thuyết phục Từ Hải vì “ xuất giá tòng phu” đi theo chồng là trách nhiệm của người phụ nữ, về tình : đã là vợ chồng thì phải gắn bó cùng nhau, đi để tiếp sức, sẻ chia, gánh vác cùng chồng. Qua lời nói của Kiều chúng ta càng cảm nhận được tình vợ chồng keo sơn, gắn bó như tri kỉ.

Trước sự một lòng xin đi ấy Từ Hải đã khuyên bảo nàng bằng tấm lòng của một người tri kỉ, đã hiểu rõ lòng nhau rồi thì không nên câu nệ theo thói quen của người thường. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao Từ Hải đã hứa hẹn với Kiều về một tương lai tươi sáng, một sự nghiệp lẫy lừng với quân đội hùng mạnh, đó là lúc “ rõ mặt phi thường”, cái thành công ấy chính là sính lễ để chàng rước người tri kỉ. Lúc có được công danh sự nghiệp cũng là lúc Từ Hải sẽ quay về rửa sạch vết nhơ, đem lại danh phận cho Kiều:

“Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”.

Sau lời hứa ấy là lời can ngăn Kiều khi nhắc đến thực tế gian nan những ngày đầu lập nghiệp, sâu thẳm bên trong đó là sự lo lắng, là tình yêu thương không muốn Kiều đi theo phải chịu khổ cực, nay đây mai đó “ bốn bể không nhà”. Hai câu kết của đoạn trích với thái độ dứt khoát và hình ảnh cánh chim kì vĩ cưỡi gió bay vút lên trên cùng gió mây:

“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Đã thể hiện được khát vọng muốn vùng vẫy, tự do của người anh hùng chí lớn chỉ khi chiến thắng, thành công mới quay trở về.

Với đoạn trích “Chí khí anh hùng” đại thi hào Nguyễn Du đã xây dựng được hình tượng một người anh hùng với lý tưởng hoàn toàn mới bằng tài năng nghệ thuật độc đáo và tư tưởng sâu sắc của mình. Hình ảnh Từ Hải hiện lên không chỉ với khát vọng, chí khí to lớn, với hoài bão vũ trụ mà còn có trái tim nhân hậu, yêu thương, luôn nghĩ cho người tri kỉ của mình.

Phân tích đoạn 2 bài Chí khí anh hùng – Mẫu 21

Trong Truyện Kiều, bên cạnh việc bày tỏ tấm lòng đồng cảm, trân trọng với con người tài hoa nhưng phải chịu kiếp bạc mệnh như Thúy Kiều, đại thi hào Nguyễn Du còn bộc lộ ước mơ về một hình tượng người anh hùng lý tưởng thắp lên ánh sáng hy vọng được giải phóng giữa thực tế xã hội toàn thối nát. Điều này được thể hiện rất rõ đoạn trích Chí khí anh hùng.

Sau nhiều năm lưu lạc, chịu đủ mọi khổ ải, tủi nhục chốn phong trần, Thúy Kiều đã gặp Từ Hải. Người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất ấy là ánh sáng chói lọi giữa cuộc đời tăm tối của một kiếp hồng nhan. Từ Hải không chỉ cứu Thúy Kiều ra khỏi chốn lầu xanh, giúp nàng báo ân, báo oán mà còn trân trọng, coi nàng như một người tri kỉ. Vẻ đẹp về tầm vóc và lí tưởng của người anh hùng Từ Hải được tác giả Nguyễn Du tập trung khắc họa rõ nét nhất thông qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”.

Từ Hải trong Truyện Kiều là người được miêu tả với vẻ đẹp mạnh mẽ “Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”, tráng kiện, lực lưỡng, là dáng vóc của người anh hùng, tay quen với chuyện binh đao, võ lược. Đặc biệt Nguyễn Du còn nhắc tới hai nét đẹp ấn tượng hơn người của Từ Hải rằng “côn quyền hơn sức”, “thao lược gồm tài”. Chính vì thế, Từ Hải ắt không phải là con người chịu cảnh an phận thủ thường, sống cuộc đời cẩm y ngọc thực như Thúc Sinh, cũng không thể nhiều kiên nhẫn để trông đợi vào công danh thi cử giống như Kim Trọng. Với nhân vật này chuyện chinh chiến, thao lược tìm công danh, khẳng định bản thân trong xã hội là chuyên ắt phải làm, đặc biệt là trong hoạt cảnh xã hội nhiều biến động lúc bấy giờ. Vậy nên chỉ sau “nửa năm hương lửa đương nồng” với Thúy Kiều, Từ Hải đã không tiếc rời xa cuộc sống êm đềm với người vợ tài sắc, để lên đường tìm công danh, thỏa chí làm trai ở bốn phương:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

Câu thơ thể hiện được ý chí mạnh mẽ, tấm lòng quyết tâm phải làm nên nghiệp lớn của người anh hùng. Từ “thoắt” thể hiện thái độ dứt khoát, ý chí quyết tâm mạnh mẽ, sự chuyển đổi nhanh chóng trong tâm lý của Từ Hải từ việc rời bỏ cảnh sống êm đềm, chuyển sang những ngày tháng bôn ba vất vả trong tương lai vì sự nghiệp. Nguyễn Du cũng rất tinh tế khi diễn tả tráng chí của Từ hải bằng cụm “động lòng bốn phương” thể hiện tầm vóc lớn lao trong ý chí của nhân vật, cũng như ước mơ khao khát làm nên nghiệp lớn, làm chủ một phương của Từ Hải. Hai từ “trượng phu” càng thể hiện tấm lòng trân trọng, yêu thương, bộc lộ lí tưởng của Nguyễn Du về dáng vóc của một người anh hùng thời đại quy tụ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, tráng chí ở bốn phương, tâm sự nghiệp mạnh mẽ, có tấm lòng bao dung, thấu hiểu nhân tình thế thái, sống ngay thẳng là người nâng lên cán cân công lý trong xã hội,…

“Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Tráng chí và tầm suy nghĩ rộng lớn, đầy hoài bão của Từ Hải còn được thể hiện qua câu thơ “trông vời trời bể mênh mang”, khi chàng dõi mắt nhìn về chân trời xa, bộc lộ ý muốn vươn ra bể lớn, thoát khỏi cái bóng nam nhi tầm thường quanh quẩn bên vợ con, để làm nên nghiệp lớn. Khát vọng mạnh mẽ về việc trả nợ công danh đã thôi thúc Từ Hải từ biệt Thúy Kiều, dứt áo ra đi một cách quyết đoán “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Hình ảnh một gươm, một ngựa đơn độc lại càng làm sáng rõ phẩm chất và vẻ đẹp của người anh hùng thời đại, tay không quyết tâm lập nghiệp, khẳng định ý chí, sự tự tin trong tâm hồn người trượng phu.

Đối mặt với việc Từ Hải lên đường tìm công danh, sự nghiệp Thúy Kiều vốn là người thông minh nhạy bén, nên nàng không hề có ý định ngăn cản, dù trong lòng cũng nhiều phần buồn bã, khi cuộc sống vợ chồng chưa được êm ấm bao lâu. Nàng đã xin Từ Hải cho theo nâng khăn sửa áo, tiện bề chăm sóc, vợ chồng cùng sánh bước:

“Nàng rằng:”Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

Trước đề nghị của Kiều, Từ Hải lại không nghĩ đấy là điều nên làm, mà nhẹ nhàng khuyên nhủ thê tử bằng cách đánh động vào sự thấu hiểu lý lẽ của Thúy Kiều, mong nàng nghĩ thông suốt, gác lại chuyện nữ nhi thường tình, ủng hộ chàng trên con đường xây dựng lên nghiệp lớn. Những lời ấy của Từ Hải không chỉ là lời khuyên giải mà còn có ý nghĩa như một lời động viên sâu sắc đến Thúy Kiều, khẳng định vị trí quan trọng của nàng trong lòng Từ Hải, cũng như tin tưởng vào sự thấu hiểu lý lẽ, tấm lòng bao dung, chung thủy của Thúy Kiều trong lúc Từ Hải lên đường làm việc lớn. Những câu thơ sau đó càng thể hiện được ý chí quyết tâm của Từ Hải cũng như tấm lòng của chàng với người vợ kết tóc rằng:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Bộc lộ rõ quyết tâm và tráng chí làm nên nghiệp lớn của Từ Hải, sở hữu trong tay đội quân hùng mạnh “mười vạn tinh binh”, mang sức mạnh phi thường, hùng hậu “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”, nổi danh một phương, bá chủ một vùng, thì lúc ấy Từ Hải mới quay trở về, để đáng mặt người nam nhân trong trời đất. Đồng thời Từ Hải cũng để lại lời hứa hẹn với Kiều rằng “Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”, để Kiều được vẻ vang làm vợ chàng, sống cuộc sống vinh hoa phú phú, hạnh phúc, không phải lo nghĩ gì. Có thể nói rằng ngoài việc Từ Hải ra đi để trả món nợ công danh, thì một mục đích khác cũng là Từ Hải muốn cuộc sống của Kiều được thêm hạnh phúc, không còn bao giờ phải chịu cảnh chèn ép, tủi nhục. Tất cả những điều ấy đã làm nên động lực mạnh mẽ thôi thúc Từ Hải nhanh chóng hành động, nhanh chóng công thành danh toại.

Sau khi thể hiện những khát vọng, hoài bão của mình, Từ Hải cũng bộc lộ nỗi lo lắng, tầm nhìn xa trông rộng của mình khi nói với Kiều:

“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu”.

Quả thực những ngày đầu tiên đi tìm công danh thực khó khăn, Từ Hải chỉ có một thân một mình, một gươm, một ngựa, chưa thực sự vững vàng, đối với nam nhân cảnh bốn bể là nhà, buôn ba khắp chốn là điều bình thường, thế nhưng với thân liễu yếu đào tơ như Thúy Kiều thì đó là quả thực là điều gian khó. Từ Hải sợ Kiều phải chịu cảnh vất vả, mệt nhọc, điều ấy càng khiến chàng không yên lòng mà dựng nghiệp lớn, chính vì thế để Kiều ở nhà chờ chàng trở về mới là lựa chọn sáng suốt nhất. Đồng thời để an ủi giai nhân Từ Hải cũng hứa hẹn với Thúy Kiều rằng:

Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Từ Hải lập ra mốc thời gian như thế không chỉ thể hiện ý chí quyết tâm lập công danh một cách nhanh chóng, không chịu chần chừ bó gối lâu hơn nữa mà còn là lời an ủi, động viên Thúy Kiều sâu sắc, khiến nàng yên tâm, vững dạ ở nhà làm hậu phương. Sau những lời bộc bạch, khuyên nhủ Thúy Kiều, Từ Hải dứt khoát chia tay hồng nhan để lên đường tìm kiếm công danh, hình ảnh “Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi” là hình ảnh đẹp, mang tính biểu tượng lớn, ẩn dụ cho sự thành công lẫy lừng của nhân vật Từ Hải về sau, bộc lộ tầm vóc lớn sánh ngang với loài chim bằng vốn vùng vẫy biển khơi. Cảnh chim bằng vỗ cánh vượt gió bay lên, thể hiện tầm vóc của người anh hùng ra đi tạo lập công danh hiển hách, sánh ngang với trời đất, núi sông, không phụ hồng nhan, không phụ chí nam nhi.

Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều là một đoạn trích đặc sắc khi nhân vật trung tâm không còn là Thúy Kiều mà Nguyễn Du tập trung thể hiện hình tượng người anh hùng Từ Hải với vẻ đẹp lý tưởng, tráng chí nam nhi rộng lớn, phi thường, dứt khoát trong tình cảm nữ nhi thường tình, sự tinh tế, thấu hiểu trong cách đối đáp với Thúy Kiều. Từ đó khắc họa được mối tình Từ Hải – Thúy Kiều càng thêm đẹp đẽ, xứng đáng với mấy chữ “trai tài gái sắc”, thể hiện tấm lòng nhân đạo của tác giả khi để cho cuộc đời lắm gian truân của Thúy Kiều cũng có lúc được hưởng tấm chân tình, có lúc được hạnh phúc, dù rằng khoảnh khắc ấy cũng chỉ là ngắn ngủi nhất thời trong chuỗi bi kịch tiếp diễn 15 năm lưu lạc của nàng.

 

 Giáo dục

Bản quyền bài viết thuộc thcs-thptlongphu. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://thcs-thptlongphu.edu.vn
https://thcs-thptlongphu.edu.vn/phan-tich-doan-2-bai-chi-khi-anh-hung-lop-10/

Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn

Chuyên mục: Tổng hợp