Bài thu hoạch cảm tình Đảng là bài thu hoạch, tổng kết của cá nhân học viên sau khi tham gia lớp cảm tỉnh Đảng. Nội dung trong bài thu hoạch cảm tình Đảng mỗi cá nhân sẽ thể hiện được sự hiểu biết của mình về Đảng cộng sản Việt Nam.
Hiện nay có rất nhiều bài thu hoạch cảm tình Đảng bởi vì tùy thuộc vào từng lĩnh vực làm việc và học tập khác nhau như bài thu hoạch cảm tình Đảng của giáo viên, công an…. Nhưng làm thế nào để viết bài thu hoạch cho đúng chuẩn, đẹp thì không phải ai cũng biết cách. Với câu hỏi thường gặp và 7 mẫu bài thu hoạch lớp cảm tình Đảng năm 2022 trong bài viết dưới đây của sẽ giúp các đồng chí nhanh chóng hoàn thiện bài thu hoạch cho riêng mình.
Gợi ý làm bài thu hoạch cảm tình Đảng
Câu 1: Định hướng về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Bạn đang xem: Bài thu hoạch cảm tình Đảng năm 2022
Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
a) Tính nhất nguyên chính trị
Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thế chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam.
Tính chất nguyên chính của hệ thống chính trị được thể hiện ở tính nhất nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
b) Tính thống nhất
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:
- Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
- Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với các bộ phận hợp thành.
c) Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị Việt Nam. Đặc điểm này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:
- Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền.
- Nhà nước là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
- Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
d) Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị
Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, cũng đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đó là sự lựa chọn của dân tộc ta, là một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo ấy vừa có cơ sở đạo lý, vừa có cơ sở pháp lý.
Khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện trong mối quan hệ khá phức tạp và nhạy cảm với cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước pháp quyền và trong các điều kiện xây dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước, mà biểu hiện tập trung nhất là bộ máy nhà nước, đòi hỏi phải phân định sự lãnh đạo của Đảng đối với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước.
Trong tổ chức của hệ thống chính trị, Đảng ta vừa là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Điều đó cũng đòi hỏi phải xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, tư cách thành viên của Đảng và khả năng độc lập của mỗi thành viên thuộc hệ thống chính trị trong các mối quan hệ chính trị và sinh hoạt dân chủ.
Trong thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được xác định trong từng mối quan hệ với từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong hệ thống chính trị. Vai trò cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước khác với sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc hoặc đối với các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân. Sự mơ hồ, thiếu cụ thể nào đó đều có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị của đất nước, hoặc là Đảng sẽ bao biện, làm thay tất cả, hình thức hóa Nhà nước và hệ thống chính trị, hoặc là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho địa vị cầm quyền của Đảng chỉ tồn tại trên danh nghĩa.
Sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Đảng phải tự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Tăng cường mối quan hệ của Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Câu 2. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào? Anh/chị cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam?
Đảng viên có nhiệm vụ
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Đảng viên có quyền:
1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.”
Điều 5:
1. Người được kết nạp vào Đảng phải trải qua thời kỳ dự bị mười hai tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp. Trong thời kỳ dự bị, chi bộ tiếp tục giáo dục, rèn luyện và phân công đảng viên chính thức giúp đảng viên đó tiến bộ.
2. Khi hết thời kỳ dự bị, chi bộ xét công nhận đảng viên chính thức từng người một và biểu quyết như khi xét kết nạp; nếu không đủ tư cách đảng viên thì đề nghị lên cấp uỷ có thẩm quyền quyết định xoá tên trong danh sách đảng viên dự bị.
3. Nghị quyết của chi bộ về đề nghị công nhận đảng viên chính thức phải được cấp uỷ có thẩm quyền quyết định.
4. Đảng viên đã được công nhận chính thức thì tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp.
Phấn đấu như thế nào để trở thành Đảng viên:
* Xác định động cơ vào Đảng đúng đắn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng? Phải chăng để thăng quan, phát tài? Không phải!… Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”. Bác còn căn dặn nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào hay là khoan hãy vào Đảng. Bởi vì Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc.
Phấn đấu vào Đảng là để được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Vào Đảng là dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, phấn đấu, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cái được lớn nhất khi vào Đảng là được phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, được Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến.
– Trong quá trình phấn đấu vào Đảng, việc xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định. Đảng chỉ kết nạp những người thực sự giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nhận vào hàng ngũ mình những người mang động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc; càng không để cho các phần tử cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn, cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng.
– Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng. Trong điều kiện hoà bình, Đảng cầm quyền và cơ chế kinh tế thị trường, mỗi người chúng ta nói chung, người đảng viên nói riêng, luôn phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách là những cám dỗ của quyền lực, tiền tài… Nếu người vào Đảng không có động cơ vào Đảng trong sáng sẽ không thể vượt qua được những thử thách, không thắng nổi sự cám dỗ vật chất và những thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
* Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng
Bản lĩnh chính trị thể hiện ở nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn; trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Khí tiết của người cách mạng là “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Đồng thời, bản lĩnh đó còn thể hiện ở tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. Trong điều kiện hiện nay, khi cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cần đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiên định lập trường, quan điểm chính trị, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc.
– Để có bản lĩnh chính trị vững vàng, người phấn đấu vào Đảng cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giữ vững niềm tin. Trước khó khăn không nao núng tinh thần, không mất phương hướng chính trị và có thái độ, chính kiến rõ ràng, kiên định.
– Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của mình. Bản lĩnh chính trị được rèn luyện qua hoạt động thực tiễn. Muốn trở thành đảng viên của Đảng cần thường xuyên tự rèn luyện mình qua thực tế sản xuất, công tác, hoạt động chính trị – xã hội. Chỉ có sự hiểu biết sâu rộng, trải nghiệm dày dạn qua trường học đấu tranh thực tiễn, chúng ta mới trở nên vững vàng, kiên định.
– Cùng với rèn luyện bản lĩnh chính trị, cần thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng có nội dung hết sức phong phú, nhưng như lời Bác Hồ dạy: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Trong Đảng ta, biết bao đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh oanh liệt, đã nêu gương chói lọi về đạo đức cách mạng. Ngày nay, đại bộ phận đảng viên vẫn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, được nhân dân quý mến, tin cậy. Đạo đức cách mạng hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân gây ra nhiều tác hại, có khi nghiêm trọng. Xây dựng đạo đức cách mạng phải đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân.
Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời, không ngừng nghỉ, như Bác Hồ đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Ngày nay, đạo đức cách mạng còn là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Không thể có đạo đức cách mạng nếu làm gì cũng tính toán thiệt hơn với Đảng, lúc nào cũng đòi hỏi hưởng thụ, muốn lựa chọn công việc theo ý thích và lợi ích cá nhân, sống cơ hội, thực dụng, coi đồng tiền là tất cả; lợi dụng cơ chế, chính sách để tham nhũng, lãng phí, làm giàu phi pháp…
– Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định vai trò, lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở thích riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Lợi ích cá nhân được tôn trọng khi nó không trái với lợi ích chung của cộng đồng. Đường lối của Đảng là kết hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Đảng luôn luôn tôn trọng và quan tâm đến lợi ích cá nhân, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đặt lợi ích cá nhân mình lên trên, lên trước lợi ích tập thể và toàn xã hội.
* Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ
– Đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập giỏi. Để xứng đáng với vai trò tiên phong, gương mẫu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
– Để trở thành đảng viên, người đang phấn đấu vào Đảng cần hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình và nhiệm vụ được tổ chức đảng, đoàn thể giao cho, bảo đảm đạt chất lượng, hiệu quả cao. Đó là điều kiện chủ yếu để quần chúng tin cậy giới thiệu và tổ chức đảng xem xét kết nạp vào Đảng. Trong điều kiện hiện nay, ngoài nhiệt tình cách mạng cần đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn; không ngừng học tập, thường xuyên tiếp nhận những hiểu biết mới để đủ kiến thức đáp ứng các yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Phải coi trọng việc học tập chính trị cùng với chuyên môn, nghiệp vụ. Đảng không thể kết nạp những người lười học tập, hoặc học lấy lệ, chỉ cốt lấy bằng cấp, không thể hiện được tính tiên phong, gương mẫu.
* Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội
Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Đảng viên phải giữ vững và phát huy truyền thống đó, trước hết thể hiện sự gắn bó với quần chúng ở nơi làm việc và nơi cư trú của mình. Phải hoà mình với quần chúng, tin tưởng, am hiểu và lắng nghe ý kiến của quần chúng. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
– Muốn trở thành đảng viên, người phấn đấu vào Đảng phải gắn bó với tập thể, với nhân dân với đồng nghiệp, bạn bè trong đơn vị công tác, với bà con làng xóm, khối phố, tôn trọng, chia sẻ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Hoà mình với quần chúng nhưng không bị động theo những suy nghĩ và việc làm tiêu cực, sai trái, mà luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm; vận động mọi người đoàn kết, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra.
– Người phấn đấu vào Đảng phải nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà bản thân là thành viên, góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Qua hoạt động đoàn thể, người phấn đấu vào Đảng thể, hiện rõ vai trò, khả năng lãnh đạo, tập hợp quần chúng, phát huy tính tiên phong, gương mẫu – những phẩm chất cầu thiết để trở thành đảng viên của Đảng. Ở nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người trong độ tuổi thanh niên muốn vào Đảng nhất thiết phải là đoàn viên ưu tú.
– Người muốn vào Đảng càng phải chú trọng mở rộng quan hệ xã hội và tích cực tham gia công tác xã hội, gương mẫu và vận động gia đình, người thân tham gia các phong trào, các hoạt động đoàn thể, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc; chống tệ nạn xã hội quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
* Tích cực tham gia xây dựng đảng cơ sở
– Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, người phấn đấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Nhân dân ta gắn bó với Đảng và luôn tham gia đóng góp cho Đảng. Vì vậy, tham gia xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của người phấn đấu vào Đảng.
– Nội dung tham gia xây dựng tổ chức cơ sở đảng của người phấn đấu vào Đảng là: Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống nhân dân và động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
– Tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở còn bao gồm các nội dung sau:
+ Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống, tạo ra bước phát triển mới của cơ sở, đơn vị, nhất là về phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực.
+ Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, nắm bắt tình hình tư tưởng của quần chúng nhân dân, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức đảng.
+ Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
+ Tham gia ý kiến khi được hỏi về việc giới thiệu những đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét, bầu vào cấp uỷ; giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để tổ chức đảng xét kết nạp.
+ Tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của chính quyền và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trị trong sạch, vững mạnh.
+ Tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở cơ sở, đơn vị. Góp phần làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ để xuyên tạc chủ trương chính sách của Đảng; vu cáo, bôi nhọ những cán bộ, đảng viên, tích cực, trung thực; kích động, chia rẽ đoàn kết, gây rối nội bộ.
Câu hỏi thường gặp trong bài thu hoạch lớp cảm tình Đảng
1. Tại sao anh/chị muốn vào Đảng? Hoặc xác định động cơ anh/chị vào Đảng đúng đắn nhất?
- Phấn đấu vào Đảng để được đứng trong tổ chức những người cùng chung chí hướng, đấu tranh để xây dựng xã hội mới tốt đẹp, dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.
- Vào Đảng là dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận đánh đổi, hy sinh, phấn đấu và quyết tâm đi theo con đường Đảng, mà Bác Hồ cùng toàn thể dân tộc đã chọn là xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản. Một trong những cái được lớn nhất khi vào Đảng là phục vụ cách mạnh, phục vụ nhân dân, được nhân dân và Đảng tin yêu.
- Việc xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn đóng vai trò vô cùng quan trọng và thiết thực. Hiện nay, trong điều kiện hòa bình, Đảng cầm quyền với cơ chế kinh tế thị trường và mỗi người chúng ta nói chung, Đảng viên nói riêng luôn phải đối mặt với biết bao thử thách, khó khăn với cám dỗ của quyền lực hoặc tiền tài. Nếu người muốn vào Đảng nhưng không có động cơ vào Đảng trong sáng sẽ không vượt qua được những thử thách và không thắng nổi sự cám dỗ về vật chất cùng những thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch xung quanh.
2. Để trở thành Đảng viên, người vào Đảng cần có đủ các điều kiện và yếu tố gì?
- Xác định động cơ vào Đảng đúng đắn: phấn đấu để vào Đảng là nghĩa vụ, trách nhiệm để được đóng góp, cống hiến nhiều hơn cho tập thể, nhân dân và rộng hơn là cho quốc gia. Nếu nhận thức đúng đắn chúng ta sẽ có động cơ đúng và sức mạnh bên trong chính là động lực hướng dẫn mọi hành động, hoạt động có lý tưởng cao đẹp cho Đảng và cho chính mình. Việc giữ vững phẩm chất của một đảng viên sẽ không khiến ta chùn bước trước khó khăn, thay vào đó là sự tự tin, vững vàng trước các thử thách của mặt trái cơ chế thị trường và trước những cám dỗ tiền bạc, quyền chức.
- Rèn luyện bản lĩnh chính trị cùng phẩm chất đạo đức cách mạng: mỗi đảng viên cần hết sức tu dưỡng, rèn luyện nhằm nâng cao đạo đức trong cách mạnh cũng như quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Theo đó, nếu để chủ nghĩa cá nhân chi phối, Đảng viên sẽ mất dần tư cách, đi tới tự tước bỏ danh hiệu cao quý của mình. Do đó, muốn giữ được tư cách, người Đảng viên nhất thiết phải ra sức học tập, tu dưỡng, cải tạo để ngày càng tiến bộ. Nếu không cố gắng tiến bộ, tức là thoái bộ, lạc hậu và bị xã hội tiến hóa sa thải.
- Nâng cao năng lực, hoàn thành nhiệm vụ được giao: Để trở thành Đảng viên, người đang phấn đấu vào Đảng phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ của mình cũng như nhiệm vụ của tổ chức đảng, đoàn thể đã giao cho. Bên cạnh đó, phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác và chiến đấu giỏi.
- Gắn bó với nhân dân, tập thể, tích cực tham gia vào hoạt động đoàn thể và công tác xã hội: Đảng viên cần giữ vững, phát huy truyền thống của Đảng, gắn bó mật thiết máu thịt cùng nhân dân, thể hiện gắn bó với quần chúng ở bất cứ đâu, ở nơi làm việc lẫn nơi cư trú. Bên cạnh đó, phấn đấu vào đảng phải nhiệt tình trong sinh hoạt đoàn thể mà bản thân là thành viên. Cần thể hiện rõ khả năng lãnh đạo, tập hợp, gắn kết quần chúng, phát huy tính tiên phong, gương mẫu cùng phẩm chất tốt đẹp để trở thành một Đảng viên xứng đáng, nếu là đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thì cần là đoàn viên ưu tú.
Bài thu hoạch cảm tình Đảng – Mẫu 1
1. Đề xuất mới đối với Đảng để có bản lĩnh chính trị vững vàng và nhận thức đúng đắn về Đảng cộng sản Việt Nam.
1.1. Đồng chí có dự kiến mới gì đối với bản thân:
Bản thân tôi thấy rất tự hào khi được sinh ra trong một dân tộc có ý chí quật cường, một đất nước giàu truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, không chịu khuất phục trước cường địch. Tôi tự hào về thành tựu của Cách mạng, về Đảng quang vinh, tự hào về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, về những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt được trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và đổi mới đất nước; cảm động và biết ơn về những hy sinh, đóng góp của Bác Hồ – vị Lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và dành cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Tôi nhận thấy mình cũng cần phải có trách nhiệm với công cuộc xây dựng đất nước giàu đẹp, tiếp nối truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam, sống và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện bản thân, xứng đáng là Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Và Đảng là tổ chức các mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, tôi đã đặt ra mục tiêu trong thời gian tới được đứng trong đội ngũ của Đảng được phục vụ cách mạng, được phục vụ nhân dân, góp sức mình xây dựng đất nước ta ngày càng tốt đẹp hơn nữa, được Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến; chấp nhận hy sinh, phấn đấu, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Qua lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối tượng kết nạp Đảng, tôi hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, từ đó tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra xứng đáng là đội kế cận của Đảng, là cánh tay của Đảng; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng
1.2. Để phấn đấu để trở thành Đảng viên tôi hiểu mình phải tôi luyện trở thành người tích cực, tiên tiến, trải qua quá trình học tập, rèn luyện, phấn đấu, hội đủ các yếu tố thỏa mãn điều kiện để được xét kết nạp Đảng:
- Phải là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên;
- Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng:
+ Người muốn được đứng trong đội ngũ của Đảng phải có quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ do Đảng giao phó. Điểm 1, Điều 1 trong Điều lệ Đảng quy định: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân…”.
+ Người vào Đảng phải thừa nhận và thực hiện Điều lệ Đảng một cách vô điều kiện. Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Điều lệ Đảng cũng là thể hiện sự giác ngộ chính trị và ý thức phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiền phong, gương mẫu, ý thức cầu thị, tinh thần đoàn kết, khiêm tốn, gắn bó với tập thể, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Người muốn vào Đảng phải nghiên cứu kỹ Điều lệ Đảng.
+ Người vào Đảng phải hiểu rõ và nắm vững tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, từ đó phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng để trở thành đảng viên của Đảng. Tự giác thực hiện nhiệm vụ, phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, có quan hệ gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm… là những điều kiện chủ yếu được quan tâm khi xem xét để kết nạp người vào Đảng.
+ Mỗi đảng viên của Đảng phải sinh hoạt tại một tổ chức cơ sở đảng. Điều đó tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng
– Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm: người muốn vào Đảng phải hoạt động trong phong trào quần chúng, tỏ rõ tính tích cực, tiên tiến so với quần chúng, cả về nhận thức, hành động và được quần chúng tín nhiệm. Phải lao động, học tập, công tác đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, có đạo đức, lối sống trong sạch, có khả năng cảm hoá, giáo dục, tập hợp quần chúng, được quần chúng tin cậy và noi theo. Đảng viên là người lãnh đạo quần chúng, vì vậy, người không được nhân dân tín nhiệm thì không thể là đảng viên.
1.3. Từ những điều kiện xem xét kết nạp Đảng viên của Đảng, tôi cần xây dựng kế hoạch, phương hướng phấn đấu trong thời gian tới:
– Qua lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối tượng kết nạp Đảng tôi đã hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, từ đó tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng.
– Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng:
“Đi lên thanh niên chớ ngại ngần chi
Đi lên thanh niên làm theo lời bác
Không có việc gì khó chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển quyết chí ắt làm nên”
Giai điệu ấy đã tiếp thêm sức mạnh, niềm tin, ý chí để tôi hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra hình thành bản lĩnh vững vàng, từ từ tôi rèn được bản lĩnh chính trị vững vàng hơn. Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của mình. Song song với rèn luyện bản lĩnh chính trị, thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời, không ngừng nghỉ. Ngày nay, đạo đức cách mạng còn là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
– Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao: trong giai đoạn …….. đang tái cơ cấu, tinh giản biên chế, tôi là một cán bộ trẻ, vừa được chuyển công tác sang một nghiệp vụ mới, nhận thấy trách nhiệm của tôi là tự giác trau dồi nghiệp vụ, chủ động trao đổi, học hỏi từ các đồng nghiệp, để nắm vững nghiệp vụ mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
– Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội: Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Từ khi được công tác tại …….., tôi luôn nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể. Từ những hoạt động, những công trình, tôi đã tổ chức và tham gia thực hiện tôi đã có thêm được những đồng nghiệp cùng chung lý tưởng, mục đích chia sẻ những hoạt động tập thể: các công trình tặng quà, xây sân chơi cho các em học sinh vùng dân tộc thiểu số, thăm và tặng quà cho các gia đình khó khăn, tổ chức các hoạt động chăm lo đời sống cho con em cán bộ tại trụ sở chính ……..…. Từ những chương trình tôi tham gia đã góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong nhiệm vụ chính trị mà Đảng Bộ …….. giao cho Đoàn thanh niên ……… Phần nào đó tôi đã tập hợp hợp được lực lượng Đoàn viên thanh niên ở một số chi đoàn thực hiện các công trình,phần việc thanh niên, phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ Đoàn.
– Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở:Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước: Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, tình hình tư tưởng của thanh niên trong kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng; kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức Đảng; Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ do Chi bộ đề ra; Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ Đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên; Tham gia ý kiến, đề xuất đoàn viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để Chi bộ xét kết nạp Đảng; tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của đơn vị và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trong sạch, vững mạnh.
Tôi tin rằng trong tương lai không xa tôi sẽ vinh dự trở thành một Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, trở thành người chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.
2. Đề xuất mới đối với Đảng để có bản lĩnh chính trị vững vàng và nhận thức đúng đắn về Đảng cộng sản Việt Nam cho đối tượng kết nạp Đảng và các quần chúng nói chung:
2.1. Thực trạng về bản lĩnh chính trị và nhận thức lý tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam của cán bộ, Đoàn viên thanh niên hiện nay:
- Trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, 90 năm qua, Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới của Đảng, kiên định các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh…
- Sự nghiệp đổi mới đến nay đã gần 35 năm, Đảng ta lãnh đạo đất nước vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát triển KT-XH, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng – an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
- Thực tiễn cách mạng của Đảng, của dân tộc đã cho thấy, khi đã giác ngộ lý tưởng cách mạng, người cộng sản có niềm tin và sức mạnh mãnh liệt. Niềm tin ấy tạo nên sức mạnh vô địch, giúp Đảng ta, quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến đấu và chiến thắng bao thù trong, giặc ngoài.
- Tuy nhiên, quá trình tìm tòi con đường đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bên cạnh những thành tựu to lớn mang tầm lịch sử, thì Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gặp không ít khó khăn: Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi không còn sự cứng nhắc, đơn điệu, hình thức và đã đạt được không ít hiệu quả. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số CBĐV thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Số ít đoàn viên, thanh niên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.
- Mặt khác, không ít vấn đề phức tạp, khó lường nảy sinh trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cộng với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo và thổi phồng những yếu kém, khuyết điểm của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình, cổ vũ cho lối sống cơ hội, thực dụng, cá nhân chủ nghĩa,…
- Qua đó, có thể thấy nguy cơ “Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” có thể xảy ra trong một bộ phận ĐVTN. Từ phai nhạt lý tưởng cách mạng dẫn đến “xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng, không kiên định con đường đi lên CNXH, phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái”. Đó là những biểu hiện lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cũng do phai nhạt lý tưởng cách mạng mà a dua, phụ họa theo những quan điểm lệch lạc, “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh”, “không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”, sa vào “tham vọng chức quyền”, không chấp hành sự phân công của tổ chức, kén chọn chức danh công tác, chọn nơi có nhiều lợi ích, vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”,… Từ phai nhạt về lý tưởng cách mạng – một biểu hiện cốt lõi của suy thoái về tư tưởng chính trị có thể dẫn đến suy thoái đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nguy hiểm khôn lường. Từ suy thoái đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là rất ngắn, thậm chí là một bước rất ngắn.
- Bên cạnh vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể trong công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, ĐVTN, đảng viên trẻ thì vấn đề tự bồi dưỡng vẫn giữ vai trò then chốt.
2.2. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đoàn viên thanh niên và quần chúng tại ……..
- Trong nhiệm kỳ …….., Đảng bộ …….. đã tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ vững các nguyên tắc lãnh đạo, vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Ban chấp hành Đảng bộ …….. đã bám sát yêu cầu đối với công tác nắm bắt và giải quyết diễn biến tư tưởng và dư luận xã hội trong cơ quan, quán triệt, tuyên truyền để cán bộ, đảng viên, người lao động nhận thức sâu sắc, toàn diện, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng; tạo dựng được tình cảm và niềm tin của cán bộ nhân viên đối với Đảng.
- Hiện nay, VDB đang triển khai giai đoạn hai tái cơ cấu hoạt động theo chiến lược đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;ảnh hưởng tới tâm lý của các cán bộ cũng như tư tưởng chính trị, Ban chấp hành Đảng bộ …….. đã bám sát, nắm bắt và giải quyết diễn biến tư tưởng và dư luận trong cơ quan, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức sâu sắc, toàn diện và chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, nếp sống văn hóa của cán bộ, đảng viên, người lao động trong đơn vị. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đã góp phần ổn định tư tưởng, cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên, người lao động từng bước vượt qua những khó khăn, tích cực thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị.
- Với mục tiêu tạo sự thống nhất, đồng thuận trong cấp ủy, Ban Thường vụ, tập thể lãnh đạo, giữa cấp trên và cấp dưới; ổn định tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, người lao động yên tâm công tác, đoàn kết, chung sức triệt để khắc phục những tồn tại yếu kém trong thời gian qua; đồng thời đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, tạo lập môi trường làm việc tốt, lành mạnh.
Để công tác tư tưởng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng VDB lần II, Đại hội Đảng bộ Khối DNTW lần II, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Hội nghị TW 4 (khóa XII); trọng tâm là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đảng ủy …….. đã ban hành Nghị quyết 06/NQ-ĐU ngày 28/3/2017 về nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng chỉ rõ nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau: Kịp thời triển khai học tập, quán triệt đầy đủ nghị quyết, chỉ thị của Đảng tới toàn thể cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng, chỉ đạo xây dựng chương trình hành động để thực hiện nghị quyết;Tổ chức thực hiện chương trình hành động để thực hiện nghị quyết, nâng cao tính chiến đấu của tổ chức đảng và mỗi đảng viên; Công tác tổ chức và quản lý đảng viên; Tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa XII);Lãnh đạo công tác truyền thông; Lãnh đạo phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội.
- Đảng bộ …….. nói chung và các Chi bộ nói riêng đã phát động các phong trào thi đua, xây dựng các mô hình, tấm gương của tập thể, cá nhân tiêu biểu trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng; tạo sự chuyển biến thực sự về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong Chi bộ cũng như trong toàn Đảng bộ.
- Chi bộ cũng đã rất nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình; luôn chú trọng tăng cường kiểm tra, giám sát đối với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, về tự học, tự rèn nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong Chi bộ. Và thực tế, tôi nhận thấy rằng việc kiểm tra, giám sát quá trình rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu, về tự học, tự rèn của cán bộ, đảng viên đã tạo điều kiện, động lực cho cán bộ, đảng viên trong Chi bộ thường xuyên làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3. Đề xuất mới gì đối với Đảng
- Thời gian qua, Đảng bộ …….. đã thực hiện tốt công tác chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của các Chi bộ, Đảng bộ. Từ những kết quả đã đạt được, thời gian tới, với những khó khăn, thách thức trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, cũng như chiến lược tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu, công tác chính trị tư tưởng càng cần được tiếp tục chú trọng và thực hiện một cách thường xuyên. Ngoài những nhiệm vụ và giải pháp đã thực hiện tốt trong thời gian qua, tôi có đề xuất như sau:
- Đổi mới hình thức, cách thức tiến hành công tác tư tưởng: Về nội dung công tác tư tưởng phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị.
- Tiến hành đồng thời công tác chính trị tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và công tác thi đua, khen thưởng. Thực hiện tốt phương châm “Lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Qua đó, tạo hiệu ứng tác động lan tỏa trong các cơ quan báo chí và toàn xã hội.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong công tác xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ
- Đẩy mạnh công tác dân vận, phát huy có hiệu quả vai trò của các tổ chức đoàn thể, người lao động, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong hệ thống ………
- Đổi mới, sáng tạo trong xây dựng và thực hiện có hiệu quả văn hóa …….. nhằm khơi dậy mạnh mẽ ý chí, khát vọng, tự hào được làm việc, cống hiến vì sự nghiệp phát triển ………
- Xây dựng kế hoạch, tổ chức các lớp đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cấp ủy, cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, trí tuệ; đào tạo, phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý các mặt nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu phát triển của …….. và phù hợp với tình hình hiện nay.
- Chú trọng phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên trẻ để có điều kiện cọ sát, rèn luyện, thử thách.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên truyền, tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho công tác tư tưởng đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới: Sử dụng quản lý văn bản hiện tại có hiệu, tránh gây lãng phí, giảm tải thời gian xử lý công việc. Đặc biệt với điều kiện các phòng ban làm việc ở trụ sở chính không cùng một địa điểm làm việc, việc phối hợp, xử lý công việc ở 2 địa điểm có thể gây mất thời gian, khó khăn nên việc tăng cường giải quyết qua phần mềm là cần thiết. Xây dựng hệ thống quản lý văn bản điện tử khoa học, hiện đại, hiệu quả nhằm giảm tải công tác quản lý, tìm kiếm văn bản, phân tách các văn bản của từng nghiệp vụ, kèm theo hiệu lực của văn bản.
- Bên cạnh vai trò, trách nhiệm của Đảng bộ …….., của các đơn vị, các đoàn thể trong công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, ĐVTN. Tôi sẽ chủ động tự bồi dưỡng,tự rèn luyện nhằm bổ sung, hoàn thiện về phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức, năng lực, kinh nghiệm công tác, đáp ứng sự nghiệp phát triển ………
……..
Bài thu hoạch cảm tình Đảng – Mẫu 2
LỜI NÓI ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến. Đảng hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đang trong công cuộc đổi mới , xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
NỘI DUNG
Câu 1: Nhận thức về Đảng Cộng sản Việt Nam và nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở cương lĩnh chính trị và điều lệ Đảng, giữ mối quan hệ mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo tôn trọng và phát huy vai trò của nhà nước, mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội. Đảng kết hợp với chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng. Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của người Đảng viên như sau:
1. Về nhiệm vụ của Đảng viên:
Nhiệm vụ Đảng viên được quy định trong điều 2, điều lệ Đảng, gồm 4 điểm sau:
“ 1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của nhà nước; hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng , pháp luật của nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển Đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng Đảng phí đúng quy định”.
Thực hiện các nhiệm vụ trên, mỗi Đảng viên cần nắm vững nội dung cơ bản sau:
– Một là, kiên định với những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng: – Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta. – Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. – Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. – Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. – Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
– Hai là, mỗi Đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn để đất nước phát triển nhanh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2021 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại để vận dụng vào nhiệm vụ của mình. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc thách thức lớn, các nguy cơ đang đe doạ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục. Mỗi Đảng viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong cơ quan của Đảng, nhà nước và các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội; cảnh giác và kiên quyết chống mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, trước hết là trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ cụ thể của mỗi người.
– Ba là, đất nước ta đã chuyển sang thời kì phát triển mới với nhiệm vụ trung tâm là xây dựng phát triển kinh tế, đòi hỏi Đảng viên phải nâng cao trình độ kiến thức và năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu. Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng trở nên đặc biệt quan trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi Đảng viên. Có nhiều hình thức và phương pháp học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức Đảng và mỗi Đảng viên phải có kế hoạch, chế độ học tập phù hợp.
– Bốn là, có mối quan hệ mật thiết với quần chúng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân lao động cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị bảo đảm cho cuộc đấu tranh của nhân dân giành thắng lợi. và ngược lại, Đảng cần được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng dễ quan liêu, xa rời nhân dân. Đây là một nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Mọi Đảng viên phải thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân phản ánh với Đảng, đồng thời tích cực tham gia tuyên truyền vận động nhân dân và gia đình mình thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước.
– Năm là, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Tích cực làm công tác phát triển Đảng viên mới.
2. Về quyền của Đảng viên:
Điều 3, Điều lệ Đảng quy định Đảng viên có những quyền sau: – Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng. – Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của ban chấp hành trung ương. – Trình bày ý kiến khi tổ chức Đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình. – Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng. Các quyền của Đảng viên nêu trong điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho Đảng viên thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về mặt chính trị tổ chức và sinh hoạt Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”.
,……………………….
Bài thu hoạch cảm tình Đảng – Mẫu 3
Câu 1: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào?
Câu 2: Những nội dung cơ bản về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?
Câu 3: Trình bày hiểu biết của Anh, Chị trong việc phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam? Liên hệ bản thân trong việc phấn đấu trở thành Đảng viên?
Câu 4: Vấn đề mà Anh, Chị tâm đắc nhất khi tham gia lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng; Anh, Chị có những kiến nghị, đề xuất gì cho công tác tổ chức, truyền đạt nội dung, v.v… với Ban tổ chức lớp học nhằm rút kinh nghiệm tổ chức tốt hơn các lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng cho sinh viên sau này?
Bài làm
Câu 1: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào?
Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đáp ứng cơ bản yêu cầu, nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng hiện nay, là cơ sở quan trọng tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là kết tinh của trí tuệ Việt Nam, là văn bản quy định nguyên tắc của Đảng do những những đảng viên ưu tú đại diện cho nhân dân Việt Nam soạn thảo và lấy ý kiến rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân.
Điều 1 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về tiêu chuẩn của đảng viên như sau:
1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ của đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
Điều 2 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về nhiệm vụ của đảng viên như sau:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biện pháp tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Điều 3 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về quyền hạn của đảng viên như sau:
1. Được thông tin và thảo luận vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, các Điều 1, Điều 2, Điều 3 trong Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy định một cách đầy đủ về tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên. Mỗi người khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng đều phải nghiêm túc thực hiện những quy định này về đảng viên để xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch và vững mạnh như lời của Bác Hồ nhận định khi Đảng ta tròn 30 tuổi:
“Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no”.
Câu 2: Những nội dung cơ bản về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?
Hồ Chí Minh là một lãnh tụ thiên tài của nhân dân ta, là anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới. Suốt cuộc đời, Người hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Ham muốn tột bậc của người thật là giản dị: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Câu ấy được Bác nói khi trả lời các nhà báo nước ngoài vào đầu năm 1946. Câu nói ấy có ý nghĩa lớn lao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng đất nước. Câu nói ấy thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc và giá trị đạo đức lớn lao.
…………………
Bài thu hoạch cảm tình Đảng – Mẫu 4
Câu hỏi
Câu 1: Đồng chí hãy trình bày 5 bài học lớn của cách mạng Việt nam được nêu trong Cương lĩnh năm 1991. Phân tích bài học mà đồng chí thấy tâm đắc nhất. Ý nghĩa của bài học này đối với công việc của đồng chí ?
Câu 2 :Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu nào trong Điều lệ Đảng ?
Câu 3 : Đồng chí hãy phân tích sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Liên Hệ việc thực hiện cuộc vận động ở cơ quan, đơn vị đồng chí ?
Bài làm
Câu 1 :
Trải dài theo dòng lịch sử của nước nhà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một điều rằng cách mạng Việt Nam đã đi hết từ thắng lợi này cho tới thắng lợi khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có cương lĩnh, có đường lối soi sáng chỉ đường, tạo ra những trận đánh lịch sử lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, tạo ra cuộc sống bình yên, ấm no và hạnh phúc cho toàn thể dân tộc ta và được trường tồn tới ngày nay và mãi mãi
Nước đã đang bước vào giai đoạn hồi nhập nhập toàn cầu, cuộc sống ngày càng phát triển mạnh mẽ, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày càng lên cao, trước những xu thế mới đòi hỏi Đảng ta phải có được cương lĩnh rõ ràng để chỉ lối cho những bến bờ hạnh phúc cho nhân dân, cho nhân loại, và cương lĩnh năm 1991 đã cho chúng ta thấy rõ được những yêu cầu mang tính cần thiết mà chúng ta phải thực hiện được để tô thêm những trang sử vàng cho sự thành công trong con đường hội nhập của đất nước.
Vậy 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam được nêu trong cương lĩnh 1991 được thể hiện như thế nào? chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu:
Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm của nước ta, trong đó có 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, từ những kinh nghiệm thành công và cả những kinh nghiệm chưa thành công, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu ra được 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.
Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài của dân tộc ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Để làm được điều đó, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Thực chất thì bản thân tôi hoàn toàn tâm đắc tất cả các bài học ở trên, trong tôi qua mỗi bài học tự rút ra được cho mình những bài học quý báu, những kiến thức cần và đủ để có thể trở thành một đảng viên tốt, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, và đóng góp vào sự phát triển chung của Đảng, Nhà nước.
Từ cái nhìn khách quan và cụ thể nhất tôi cũng đưa ra được cho mình Bài học tâm đắc nhất đó là ở bài học lớn thứ hai :
“Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”
Có thể khẳng định một điều rằng: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân
Tám mươi mốt năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, dân tộc ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vĩ đại trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa nhân dân thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than, giành độc lập cho đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám 1945, giải phóng miền Bắc, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng nước ta bước sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng ở miền Nam.
Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỉ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, non sông thu về một mối. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đánh dấu bước ngoặt quyết định cho dân tộc Việt Nam tiến vào kỉ nguyên mới- kỉ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Sau 30 năm chiến tranh giải phóng, cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một cuộc chiến đấu “khổng lồ” để loại bỏ những gì cũ kỹ lạc hậu, tạo ra những giá trị “mới mẻ, tốt tươi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh.
Trong buổi đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ đổi mới, dân tộc ta phải đối diện với bao thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp và tình hình đất nước gặp muôn vàn khó khăn, các thế lực thù địch không ngừng chống phá, nhưng với bản lĩnh kiên cường của một chính đảng cách mạng và khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định mục tiêu mà Đảng, nhân dân đã lựa chọn, giữ vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp tục tiến lên, tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đảng đã đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối cách mạng một cách đúng đắn, sáng tạo, bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tế nước ta, kế thừa và phát huy giá trị văn hoá và bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của một quá trình trăn trở, tìm tòi, tổng kết, đổi mới tư duy lí luận, nhận thức đúng đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ngày càng trưởng thành và có thêm kinh nghiệm lãnh đạo nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới.
Xuyên suốt chặng đường hoạt động cách mạng 80 năm qua, trong các Cương lĩnh (từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1991), hay trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều thể hiện rất rõ, Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh cho tự do độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.
…………
Bài thu hoạch cảm tình Đảng – Mẫu 5
Câu 1: Động chí hãy phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Trả lời
Trước hết phải khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đó là sản phẩm sàng lọc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam dưới ánh sáng của thời đại mới; Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin; Phong trào công nhân và Phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm 20 của thế kỷ XX. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin vệ sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nữa phong kiến và có truyền thống yêu nước từng ngần ấy năm.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã thật sự là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân.
và của cả dân tộc Việt Nam. Sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng cộng sản Việt Nam không những là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là đại biểu chân chính cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ mang bản chất giai cấp công nhân mà còn là lực lượng dẫn dắt phong trào dân tộc chân chính, một Đảng cách mạng vì nước vì dân.
Chặng đường vẻ vang hơn bảy thập kỉ qua cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đứng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã đạt được những thành tựu kỳ diệu. Tuy nhiên, Đảng cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm mình nhưng đã để ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời, Đảng đã công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng là đội tiên phong chính trị. người lãnh đạo chân chính duy nhất của cả dân tộc, Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lượng nào có thể lãnh đạo cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng tôi luyện và trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Trọng những truyền thống đó nổi bật nhất là 6 truyền thống cơ bản sau:
“Thứ nhất là; Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng,
Hai là: Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.
Ba là; Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc.
…………..
Bài thu hoạch cảm tình Đảng – Mẫu 6
Câu 1. Trình bày vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị? Anh/chị cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam?
Gợi ý làm bài:
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến.
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo vô cùng quan trọng trong hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đây là một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo ấy vừa có cơ sở đạo lý, vừa có cơ sở pháp lý.
Khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện trong mối quan hệ khá phức tạp và nhạy cảm với cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước pháp quyền và trong các điều kiện xây dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước, mà biểu hiện tập trung nhất là bộ máy nhà nước, đòi hỏi phải phân định sự lãnh đạo của Đảng đối với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước.
Trong tổ chức của hệ thống chính trị, Đảng ta vừa là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Trong thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được xác định trong từng mối quan hệ với từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong hệ thống chính trị.
Sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Đảng phải tự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Tăng cường mối quan hệ của Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành Đảng viên:
Có 5 mục tiêu cơ bản mà bất kỳ ai đang phấn đấu đứng trong hàng ngũ của Đảng cần phải làm. Cụ thể:
– Thứ nhất: Xác định động cơ vào Đảng đúng đắn
Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng? Phải chăng để thăng quan, phát tài? Không phải!… Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”. Bác còn căn dặn nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào hay là khoan hãy vào Đảng. Bởi vì Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc.
Vậy động cơ vào Đảng của bạn là gì? Bạn đã xác định được động cơ đúng đắn cho mình hay chưa? Việc xác định động cơ vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định. Chỉ khi bạn thực sự giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, bạn thực sự mới có thể đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đảng CSVN không thu nhận vào hàng ngũ mình những người mang động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc; càng không để cho các phần tử cơ hội lọt vào Đảng. Tất cả những người mong muốn phấn đấu vào Đảng là những người dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, phấn đấu, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cái được lớn nhất khi vào Đảng là được phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, được Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến.
Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay, mỗi người chúng ta nói chung, người đảng viên nói riêng, luôn phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách là những cám dỗ của quyền lực, tiền tài… Nếu người vào Đảng không có động cơ vào Đảng trong sáng sẽ không thể vượt qua được những thử thách, không thắng nổi sự cám dỗ vật chất và những thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
– Thứ hai: Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng
Bản lĩnh chính trị thể hiện ở nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn; trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Khí tiết của người cách mạng là “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Trong điều kiện hiện nay, khi cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cần đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiên định lập trường, quan điểm chính trị, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc.
– Để có bản lĩnh chính trị vững vàng, người phấn đấu vào Đảng cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, không để mất phương hướng chính trị.
– Luôn nỗ lực học tập, nắm vững lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Nâng cao trình độ về mọi mặt, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của mình. Bản lĩnh chính trị được rèn luyện qua hoạt động thực tiễn. Muốn trở thành đảng viên của Đảng cần thường xuyên tự rèn luyện mình qua thực tế sản xuất, công tác, hoạt động chính trị – xã hội.
– Thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng có nội dung hết sức phong phú, nhưng như lời Bác Hồ dạy: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Trong Đảng ta, biết bao đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh oanh liệt, đã nêu gương chói lọi về đạo đức cách mạng. Ngày nay, đại bộ phận đảng viên vẫn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, được nhân dân quý mến, tin cậy. Xây dựng đạo đức cách mạng phải đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân.
– Đường lối của Đảng là kết hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định vai trò, lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân được tôn trọng khi nó không trái với lợi ích chung của cộng đồng. Đảng luôn luôn tôn trọng và quan tâm đến lợi ích cá nhân, nhưng kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đặt lợi ích cá nhân mình lên trên
– Thứ 3: Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ
– Đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Để xứng đáng với vai trò tiên phong, gương mẫu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
– Để trở thành đảng viên, người đang phấn đấu vào Đảng cần hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình và nhiệm vụ được tổ chức đảng, đoàn thể giao cho, bảo đảm đạt chất lượng, hiệu quả cao. Đó là điều kiện chủ yếu để quần chúng tin cậy giới thiệu và tổ chức đảng xem xét kết nạp vào Đảng.
– Thứ 4: Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội
Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Đảng viên phải thể hiện sự gắn bó với quần chúng ở nơi làm việc và nơi cư trú của mình. Phải hoà mình với quần chúng, tin tưởng, am hiểu và lắng nghe ý kiến của quần chúng. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
– Nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà bản thân là thành viên, góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
– Chú trọng mở rộng quan hệ xã hội và tích cực tham gia công tác xã hội, gương mẫu và vận động gia đình, người thân tham gia các phong trào, các hoạt động đoàn thể, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc; chống tệ nạn xã hội quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
– Thứ 5: Tích cực tham gia xây dựng đảng cơ sở
Đây là một trong những mục tiêu vô cùng quan trọng. Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, người phấn dấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình, tích cực đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống nhân dân và động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở còn bao gồm các nội dung sau:
+ Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất. Góp phần hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng trong cuộc sống.
+ Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, nắm bắt tình hình tư tưởng của quần chúng nhân dân, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức đảng.
+ Tích cực và mạnh dạn tham gia đóng góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
+ Tham gia ý kiến khi được hỏi về việc giới thiệu những đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét, bầu vào cấp uỷ; giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để tổ chức đảng xét kết nạp.
+ Tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của chính quyền và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trị trong sạch, vững mạnh.
+ Tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở cơ sở, đơn vị. Góp phần làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu, các thế lực thù địch.
Câu 2 : Anh/chị hãy phân tích sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Liên hệ việc thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở cơ quan, đơn vị anh/chị công tác?
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về nhân cách mẫu mực, điều đó thể hiện qua tư tưởng, đạo đức, tác phong, phong cách của Người. Tất cả những điều này liên quan chặt chẽ tới nhau, tư tưởng chi phối đạo đức, tác phong, phong cách; tác phong là sự thể hiện cụ thể hóa tư tưởng, đạo đức.
Do vậy, việc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết.
Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách của Người có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay, giúp cán bộ, đảng viên phải luôn tu dưỡng, rèn luyện để trở thành những người có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống giản dị, trong sáng, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
Học tập và làm theo phong cách của Người để không ngừng củng cố lòng tin của nhân dân với cán bộ, đảng viên cũng như củng cố mối quan hệ giữa Đảng với dân. Học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay.
Ở đơn vị tôi đang công tác hiện nay, việc vận động học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn được đề cao trong toàn Chi bộ cũng như toàn đơn vị. Việc vận động này cũng cho kết quả tốt và ngày càng đi lên.
Cụ thể, như lời dặn của Bác trong Di chúc: “phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Gắn tính tự giác học tập, rèn luyện của mỗi cá nhân tại đơn vị với sự đôn đốc, kiểm tra giám sát của chi bộ. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, được bắt đầu ngay từ những điều bé nhất, đời thường nhất, như những câu chuyện nhỏ về việc tuân thủ kỷ luật của Bác mà ai cũng có thể học và làm theo.
Tại cơ quan, mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên cập nhật và nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tự rèn luyện đạo đức cách mạng, chống quan liêu, mệnh lệnh, chủ quan, tự tư tự lợi, thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, thẳng thắn, trung thực, và tận tụy mọi công việc không ngừng học tập, nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị.
Trong nhiệm vụ chuyên môn, luôn tích cực và tự giác trong việc thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, nâng cao tính chuyên nghiệp, tính thực tiễn trong công việc, thường xuyên chia sẻ lúc thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn, động viên, giúp đỡ trên tinh thần xây dựng cho đồng chí, đồng nghiệp cùng tiến bộ, thẳng thắn đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực.
………………
Bài thu hoạch lớp cảm tình Đảng – Mẫu 7
Bài thu hoạch cảm tình Đảng – Mẫu 7
Bản thân giáo viên khi được đi học lớp bồi dưỡng đảng viên mới thì mỗi giáo viên lại càng ý thức, nhận thức rõ ràng hơn về vai trò cũng như nhiệm vụ của mình trong việc nỗ lực phấn đấu để trở thành người Đảng viên tốt.
Hơn ai hết thì bản thân người giáo viên phải thấm nhuần rõ tư tưởng, hiểu rõ Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân của bản thân, gia đình mình.
Người con của Đảng phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Người giáo viên khi đã đi theo Đảng cộng sản Việt nam thì phải nhất nhất, tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
Trong mọi khó khăn gian khổ, trước mọi thế lực chống phá, trước những cám dỗ ma lực của đồng tiền thì đòi hỏi người đảng viên phải luôn quyết tâm, giữ vững sự kiên định, ý chí bảo vệ Tổ quốc, không bị lung lay, lôi kéo, dụ dỗ, bản thân mỗi giáo viên luôn luôn nêu cao lý tưởng sống, chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Bên cạnh hoạt động công tác tại trường, tại cơ sở thì trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày, đời thường thì người giáo viên cần biết cách liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Muốn gần gũi, tạo sự tin tưởng niềm tin với nhân dân, trước hết người đảng viên mới cần tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời người Đảng viên cần tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
………………
Tài liệu vẫn còn, mời các bạn tải file để xem thêm nội dung chi tiết.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp