Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên Tiểu học hạng II

0
107
Rate this post
Tải về Bản in

Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên Tiểu học hạng II là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các qúy thầy cô để viết bài thu hoạch giáo viên tiểu học hạng 2. Từ đó sẽ có mức lương và trợ cấp khác với mức cũ. Mời quý thầy cô tham khảo.

  • Mẫu kế hoạch cá nhân của giáo viên Tiểu học
  • Mẫu kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp
  • Bộ đề thi giáo viên dạy giỏi cấp tiểu học

Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên Tiểu học hạng II

  • 1. Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên Tiểu học hạng II – Mẫu 1
  • 2. Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên tiểu học hạng 2 mẫu 2
  • 3. Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên tiểu học hạng 2 mẫu 3
  • 4. Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên tiểu học hạng 2 mẫu 4

1. Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên Tiểu học hạng II – Mẫu 1

1. Mở đầu

Qua quá trình được học tập và nghiên cứu cũng như sự hướng dẫn, truyền đạt của các thầy, cô giáo trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn phụ trách giảng dạy Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học ở hạng II, tôi đã nắm bắt được xu hướng phát triển của giáo dục, tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, các mô hình trường học mới. Những mặt được và mặt hạn chế của các mô hình trường học đó. Vận dụng sáng tạo và đánh giá được việc vận dụng những kiến thức về giáo dục học và tâm sinh lý lứa tuổi vào thực tiễn giáo dục học sinh tiểu học của bản thân và đồng nghiệp. Chủ động, tích cực phối họp với đồng nghiệp, cha mẹ học sinh và cộng đồng để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh tiểu học. Nắm vững và vận dụng tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương về giáo dục tiểu học; chủ động tuyên truyền và vận động đồng nghiệp cùng thực hiện tốt chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng. Hiểu rõ chương trình và kế hoạch giáo dục tiểu học; hướng dẫn được đồng nghiệp cùng thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục tiểu học bao gồm các chuyên đề sau:

Bạn đang xem: Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên Tiểu học hạng II

Chuyên đề 1: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Chuyên đề 2: Xu hướng quốc tế và đổi mới giáo dục phổ thông ở Việt Nam.

Chuyện đề 3: Xu hướng đổi mới quản lí giáo dục phổ thông và quản trị nhà trường tiểu học.

Chuyên đề 4: Động lực và tạo động lực cho giáo viên.

Chuyên đề 5: Quản lí hoạt động dạy học và phát triển chương trình giáo dục nhà trường tiểu học.

Chuyên đề 6: Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II.

Chuyên đề 7: Dạy học và bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu trong trường tiểu học.

Chuyên đề 8: Đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục trường tiểu học.

Chuyên đề 9: Quản lí hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường tiểu học.

Chuyên đề 10: Xây dựng môi trường văn hóa, phát triển thương hiệu nhà trường và liên kết hợp tác quốc tế.

Giáo dục luôn giữ một vai trò rất trọng yếu trong sự phát triển của mỗi quốc gia, là biện pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo lợi thế so sánh về nguồn lao động tri thức. Hầu hết các nước trên thế giới đều coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển và thậm chí còn nhìn nhận giáo dục là một ngành sản xuất đặc biệt. Đối với các nước kém và đang phát triển thì giáo dục được coi là biện pháp ưu tiên hàng đầu để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách về công nghệ. Do vậy, các nước này đều phải nỗ lực tìm ra những chính sách phù hợp và hiệu quả nhằm xây dựng nền giáo dục của mình đáp ứng yêu cầu của thời đại, bắt kịp với sự tiến bộ của các quốc gia trên thế giới. Trong giáo dục , đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên có vai trò quan trọng nhất, quyết định trực tiếp đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Họ là những người hưởng ứng các thay đổi trong nhà trường; là người xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển nhà trường; người xây dựng, vun trồng và phát triển văn hóa nhà trường; người tham gia huy động và sử dụng các nguồn lực của nhà trường. Bởi vậy trong bối cảnh chung như đã nêu trên mỗi nhà trường, mỗi cơ sở giáo dục muốn duy trì và phát triển chất lượng giáo dục nhất thiết cần có những biện pháp bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên của nhà trường.

1.1 Lí do chọn vấn đề

Năng lực được định nghĩa theo rất nhiều cách khác nhau, tuỳ thuộc vào bối cảnh và mục đích sử dụng các năng lực đó. Theo các nhà Tâm lý học, nội dung và tính chất của hoạt động quy định thuộc tính tâm lý của cá nhân tham gia vào cấu trúc năng lực của cá nhân đó. Vì thế, thành phần của cấu trúc năng lực thay đổi tùy theo loại hình hoạt động. Tuy nhiên, cùng một loại năng lực, ở những người khác nhau có thế có cấu trúc không hoàn toàn giống nhau.

Thực trạng năng lực giáo viên Tiểu học

Hiện nay ở cấp Tiểu học có hơn 99% giáo viên đạt chuẩn trở lên. Nhưng một bộ phận đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí trường Tiểu học còn một số hạn chế, bất cập; Số lượng cán bộ quản lí có trình độ cao về chuyên môn quản lí còn ít,tính chuyên nghiệp, kĩ năng dạy học của nhiều giáo viên chưa cao.Nhiều giáo viên và cán bộ quản lí còn hạn chế về chuyên môn khai thác, sử dụng thiết bị dạy học để đưa phương pháp dạy học tích cực theo hướng tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học. Nhiều cán bộ quản lí giáo dục Tiểu học còn hạn chế về kĩ năng tham mưu, xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức hoạt động giáo dục theo các mô hình mới, còn bất cập trong kiểm tra ,đánh giá chất lượng và hiệu quả giáo dục.

Phát triển nghề nghiệp giáo viên là sự phát triển nghề nghiệp mà một giáo viên đạt được do có các kỹ năng nâng cao (qua quá trình học tập, nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm nghề nghiệp) đáp ứng các yêu cầu sát hạch việc giảng dạy, giáo dục một cách hệ thống. Đây là quá trình tạo sự thay đổi trong lao động nghề nghiệp của mỗi giáo viên nhằm gia tăng mức độ thích ứng của bản thân với yêu cầu của nghề dạy học.

Trên cơ sở đó bản thân tôi chọn nội dung nghiên cứu viết thu hoạch cuối khóa là ” Phát triển năng lực đội ngũ giáo viên”

1.2 Mục tiêu nghiên cứu.

Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên Tiểu học là sự phát triển nghề nghiệp mà một giáo viên đạt được do có các kĩ năng nâng cao, qua quá trình học tập, nghiên cứu, tích lũy kinh nghiện nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của việc giảng dạy một cách hệ thống.

Giáo viên cần có các năng lực sau:

– Năng lực tìm hiểu học sinh Tiểu học

– Năng lực tìm hiểu môi trường nhà trường Tiểu học

– Năng lực tìm hiểu môi trường xã hội

– Năng lực tổ chức dạy học các môn học

– Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng xã hội, kĩ năng sống và giá trị sống cho học sinh Tiểu học

– Năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo

– Năng lực giải quyết các tình huống sư phạm

– Năng lực giáo dục học sinh có hành vi không mong đợi

– Năng lực tư vấn và tham vấn giáo dục Tiểu học

– Năng lực hiểu biết các kiến thức khoa học nền tảng rộng, liên môn

-Năng lực chủ nhiệm lớp

– Năng lực giao tiếp

– Năng lực hoạt động xã hội ,năng lực phát triển nghề nghiệp và năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục Tiểu học.

“Đánh giá năng lực của đội ngũ giáo viên thông chỉ đạo công tác kiểm tra – đánh giá hoạt động dạy học trường Tiểu học xã Hữu Liên- huyện Hữu Lũng”

2. Nội dung

2.1. Nội dung chính theo chủ đề

Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực trạng năng lực của đội ngũ giáo viên thông qua hoạt động kiểm tra – đánh giá giờ dạy trên lớp của cán bộ quản lý đối với giáo viên ở Trường Tiểu học xã Hữu Liên, Hữu Lũng.

– Đề xuất một số biện pháp nâng cao năng lực của đội ngũ giáo viên thông qua kiểm tra – đánh giá giờ dạy trên lớp của cán bộ quản lý tại Trường Tiểu học Hữu Liên, Hữu Lũng.

– Công việc đảm nhận và vận dụng vào công việc:

Nhận thức tư tưởng chính trị với trách nhiệm của một công dân, một nhà giáo đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Chấp hành pháp luật, chính sách của nhà nước.

Chấp hành quy chế của ngành, quy định của trường, kỉ luật lao động.

Đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng của nhà giáo; tinh thần đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; ý thức phấn đấu vươn lên trong nghề nghiệp; sự tín nhiệm của đồng nghiệp, HS và cộng đồng.

Trung thực trong công tác; đoàn kết trong quan hệ đồng nghiệp; phục vụ nhân dân và HS.

Vận dụng các kiến thức cơ bản, nắm vững mục tiêu, nội dung cơ bản của chương trình, SGK của các môn được phân công.

Có kiến thức chuyên sâu hơn để có khả năng hệ thống hóa chương trình và hướng dẫn đồng nghiệp hoặc bồi dưỡng HS giỏi, giúp đỡ các HS yếu, còn nhiều hạn chế trở nên tiến bộ.

Vận dụng kiến thức tâm lí sư phạm và tâm lí lứa tuổi, giáo dục học tiểu học vào trong môn học để nâng cao hiệu quả giờ dạy.

Soạn được các đề kiểm tra và đánh giá được kết quả học tập rèn luyện của HS theo hướng đổi mới.

Tích cực bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức phổ thông về chính trị, xã hội và nhân văn, kiến thức về ứng dụng CNTT, ngoại ngữ, tiếng dân tộc.

Tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các nghị quyết của địa phương nơi mình công tác.

Lập được kế hoạch dạy học; biết cách soạn giáo án theo hướng đổi mới.

Trên lớp tổ chức và thực hiện các hoạt động phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh.

Kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, Tổng phụ trách tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho HS, VD: Trung thu, thi văn nghệ 20/11, ….

Thường xuyên có thông tin và trao đổi góp ý với HS về tình hình học tập và rèn luyện để có giải pháp cải tiến sau từng học kì.

Tham gia dự giờ đồng nghiệp, sinh hoạt chuyên môn cụm chuyên môn được phân công; sinh hoạt tổ chuyên môn ở trường đúng quy định, xây dựng tổ, khối đoàn kết vững mạnh.

Lập, sắp xếp, lưu trữ khoa học các hồ sơ cá nhân cuãng như các thông tin của học sinh liên quan tới môn học mà mình đảm nhận.

Đăng kí thực hiện sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy và giáo dục HS tiểu học, có ứng dụng CNTT.

2.2. Biện pháp thực hiện.

2.2.1 Nâng cao nhận thức của đội ngũ cốt cán và toàn bộ giáo viên:

– Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc kiểm tra

– Đánh giá giờ dạy trên lớp cho tất cả giáo viên trong trường vì khi mỗi giáo viên có nhận thức tốt thì họ sẽ cố gắng trong công tác giảng dạy và đi đến sự đánh giá chính công việc của bản thân mình . Họ sẽ tự cảm thấy những phần còn hạn chế để khắc phục, những mặt mạnh để phát huy. Do đó cán bộ quản lý phải tuyên truyền vận động, các buổi học các văn bản của ngành và các buổi hội thảo về đổi mới phương pháp.

– Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc đánh giá giờ dạy trên lớp cho đội ngũ cốt cán, cho mọi giáo viên qua tuyên truyền, qua học tập các văn bản.

– Nâng cao chất lượng giáo viên bằng cách:

+ Tạo điều kiện tối đa về vật chất và tinh thần cho mọi giáo viên được làm việc tốt nhất.

+ Tạo điều kiện cho giáo viên được đi học các lớp nâng cao văn hoá, nghiệp vụ sư phạm ngắn hạn và dài hạn tiến tới chuẩn hoá về trình độ cao đẳng, đại học tiểu học.

+ Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cốt cán (tổ trưởng, khối trưởng, phó hiệu trưởng,…) để họ làm tốt việc đánh giá giờ dạy trên lớp.

2.2.2. Xây dựng kế hoạch tổ chức dự giờ kiểm tra đánh giá

Kế hoạch dự giờ được xây dựng dưới nhiều hình thức: Báo trước, không báo trước, dự giờ song song, dự giờ cả buổi, dự giờ có mời đồng nghiệp cùng dự, dự giờ có sử dụng công nghệ thông tin…

Để xây dựng kế hoạch dự giờ hiệu quả thiết thực người cán bộ quản lý cần bám sát phân phối chương trình chẳng hạn dự khối 1 vào thời gian nào? nhằm tháo gỡ vấn đề gì? VD: Dự vào tiết ? Chuyển từ dạng bài dạy âm sang dạy vần. Hay khối 2, dự môn toán bài? Chuyển từ dạng bài cộng trừ không nhớ sang dạng bài cộng trừ có nhớ….

Để xây dựng kế hoạch dự giờ cần dựa trên việc phân loại tay nghề nghiệp vụ sư phạm giáo viên : đối với giáo viên đầu đàn của trường thì dự tiết nào mà cán bộ quản lý cho là khó dạy để xem giáo viên tháo gỡ chỗ vướng đó như thế nào? Đối với giáo viên đầu yếu trong trường cần dự những tiết chuyển từ dạng bài này sang dạng bài khác xem giáo viên đó có nắm chắc tiến trình lên lớp hay không? Hay dự tiết dạy lí thuyết, tiết dạy thực hành xem giáo viên đó truyền tải nội dung bài ra sao? Đối với giáo viên đầu yếu cần thường xuyên dự giờ để giáo viên luôn luôn chuẩn bị tâm thế cũng như ý thức đối với nghề nghiệp hơn. Để xây dựng kế hoạch dự giờ song song cán bộ quản lý cũng nắm bắt xem cùng một giáo viên đó thể hiện tiết dạy này của năm trước ra sao? Cùng một tiết dạy này sau khi được dự giờ đánh giá có sự tiếp thu chỉnh lí như thế nào?

2.2.3. Thực hiện kế hoạch dự giờ kiểm tra đánh giá

2.2.3.1. Các bước chuẩn bị của cán bộ quản lý trước khi dự giờ kiểm tra đánh giá:

Bước 1: Bám sát kế hoạch đề ra, xem dự ai? Dự môn gì? Dạng bài nào? Nhằm đạt mục đích gỡ? Tháo gỡ về kiến thức kĩ năng hay phương pháp…?

Bước 2: Cán bộ quản lý cần xem trước bài dự về sách giáo khoa về gợi ý hướng dẫn trong sách giáo viên…Định hình được vấn đề mà giáo viên dễ mắc phải về kiến thức về phương pháp hay cách thức tổ chức., hay về tiến trình tiết dạy … để xem giáo viên đó tháo gỡ ra sao? Sáng tạo như thế nào? Có gì đổi mới về phương pháp cách thức tổ chức…?

2.2.3.2. Dự giờ thăm lớp kiểm tra đánh giá:

Bước 1: Tiến hành dự giờ thăm lớp: Cán bộ quản lý phải tập trung ghi chụp lại tiến trình tiết dạy, rút ra những ưu điểm, tồn tại của tiết dạy và định hướng việc tư vấn thúc đẩy. Cán bộ quản lý dự kiến điều cần tham gia, cần tư vấn về phương pháp, về kiến thức về cách thức tổ chức về phân bố thời gian, về xử lý tình huống sư phạm, về hoạt động của thầy và trò…

Bước 2: Phân tích sư phạm giờ lên lớp đã dự : Dựa vào lý thuyết các kiểu bài học phân tích những hoạt động của thầy, trò trong việc thực hiện mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, kết quả và mối liên hệ giữa chúng, cần chú trọng các yếu tố sau :

+ Kiến thức trọng tâm: Đạt (chưa đạt) ở mức độ nào, có gì mới ? Cách khắc phục giải quyết những tồn tại.

+ Phương pháp lên lớp: Phù hợp hay chưa phù hợp? Các tồn tại và cách sửa đổi? Vấn đề sử dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh?

+ Phong thái sư phạm: Ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi cần chuẩn mực trong sáng gần gũi với học sinh sao cho dễ hiểu, trên phương diện tôn trọng người học, phát huy khả năng vốn sống và vốn kiến thức của học sinh vào bài dạy…

+ Chất lượng học sinh: Thông qua việc tiếp thu bài giảng, việc thực hành kiến thức trên lớp, việc đóng góp xây dựng bài của học sinh để cán bộ quản lý nắm bắt chất lượng học sinh. Hoặc có thể sau dự giờ cán bộ quản lý có thể kiểm tra kết quả học tập của học sinh bằng một bài kiểm tra chất lượng….

+ Ngoài các mặt trên cần chú trọng các yếu tố như: Khoa học thực tiễn gắn liền với cuộc sống, đào tạo toàn diện, bám sát mục đích yêu cầu của bài học, điều kiện phương tiện thiết bị dạy học và các tình huống xảy ra trong tiết học có tính tích cực hoặc ngược lại.

Bước 3: Nhận xét đánh giá tiết dạy:

+ Cho giáo viên nêu lại tiến trình tiết dạy, ý tưởng tự đánh giá việc làm được và những vấn đề chưa làm được của mình.

+ Cán bộ quản lý tham gia từng khâu đoạn trong tiến trình tiết dạy, chỉ ra cho giáo viên thấy được mặt mạnh, yếu… để giáo viên có cái nhìn tổng quát về tiết dạy.

Bước 4: Nêu kết quả cuối cùng, ghi biên bản. Cán bộ quản lý cho giáo viên kí nhận những việc đạt được trong tiết dạy và những hạn chế của tiết dạy, làm cơ sở cho việc kiếm tra đánh giá sự tiến bộ khả năng cập nhật đổi mới phương pháp trong những lần dự sau.

Bước 5: Rút kinh nghiệm cho bản thân người cán bộ quản lý sau dự giờ học được ở giáo viên sự sáng tạo nào? Từ đó bổ sung kiến thức phương pháp cho mình làm hành trang trong việc kiểm tra đánh giá đồng nghiệp trong những lần kiểm tra.

Lưu ý: Để bước 3 nhận xét tư vấn giáo viên tiếp thu hiệu quả nhất cán bộ quản lý cần tôn trọng tư duy nhà giáo để giáo viên được nói ra ý tưởng của mình, cán bộ quản lý chỉ nhẹ nhàng uốn nắn những suy nghĩ chưa đảm bảo tính khoa học để giáo viên nhận được bài học từ sự tư vấn của cán bộ quản lý về phương pháp, cách thức tổ chức…sao cho phù hợp với năng lực sư phạm của mỗi giáo viên và đối tượng học sinh của giáo viên đó.

– Cán bộ quản lý phải có trình độ, có năng lực phân tích. Muốn vậy phải dựa vào lí luận dạy học, tính khoa học, tính lôgic, dựa vào vốn kinh nghiệm dự giờ. Cán bộ quản lý phải biết lựa chọn sự sáng tạo của giáo viên này để tham gia cho giáo viên khác.

– Cán bộ quản lý phải có năng lực tư vấn: muốn vậy cán bộ quản lý phải là người có trình độ, có uy tín có năng lực chuyên môn để tư vấn sao cho giáo viên tâm phục khẩu phục và thừa nhận những vấn đề tư vấn có sức thuyết phục, có tính khả thi, có hiệu quả trong hoạt động dạy và học.

* Tóm lại: Bước 3 là bước quan trọng nhất bởi dự giờ kiểm tra phải có nhận xét và đánh giá thì việc dự giờ mới có tác dụng. Việc nhận xét đánh giá chỉ có tác dụng hiệu quả khi nhận xét trên nguyên tắc đôi bên trao đổi tranh luân chuyên môn và việc tham gia nhận xét tư vấn nhận được sự đồng thuận cao cùng hướng về một đích là mục tiêu đẩy mạnh hoạt động dạy học trong nhà trường.

2.2.3.3. Các biện pháp đẩy mạnh dạy học thông qua các hình thức dự giờ:

* Dự giờ thường xuyên:

Là dự giờ nằm trong kế hoạch xây dựng từ đầu năm học đó chính là hoạt động kiểm tra toàn diện.

+ Ưu điểm:

– Giáo viên có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt (đồ dùng dạy học, tiến trình lên lớp, tâm thế sư phạm).

– Cán bộ quản lý qua việc dự giờ nắm bắt trình độ sư phạm của giáo viên, các hoạt động sư phạm mà giáo viên đã làm được, chất lượng dạy và học, nề nếp của lớp..

– Từ đó làm căn cứ để đánh giá chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học.

– Làm căn cứ để tổ chức bộ máy sử dụng chuyên môn đúng người đúng việc phát huy vai trò của mỗi giáo viên .

+ Thông qua dự giờ kiểm tra toàn diện: Cán bộ quản lý đánh giá xếp loại tay nghề để giáo viên nhìn nhận đúng khả năng năng lực của mình từ đó có ý thức tu dưỡng chuyên môn. Việc đánh giá tay nghề giáo viên còn được công khai trên hội đồng sư phạm nhà trường nên mỗi giáo viên đều ý thức được danh dự nhà giáo mà có hướng phấn đấu ở những giờ dạy tiếp theo.

+ Như vậy qua việc dự giờ kiểm tra đánh giá toàn diện giáo viên đã góp phần thúc đẩy sự phấn đấu nỗ lực của từng giáo viên.

* Dự giờ đột xuất:

2. Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên tiểu học hạng 2 mẫu 2

Chuyên đề 1: XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

1. Khái quát về cơ quan nhà nước

a) Khái niệm và đặc điểm

Bộ máy nhà nước được thiết lập nhằm thực hiện quyền lực nhà nước. Bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam có cơ cấu tổ chức phức tạp, bao gồm nhiều loại cơ quan, được hình thành bằng cách thức khác nhau, và được trao những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau để thực hiện chức năng riêng phù hợp với chức năng chung của Nhà nước.

Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước. Thông thường, kết quả hoạt động của cơ quan nhà nước là các quyết định có tính bắt buộc thi hành đối với những người có liên quan. Trường hợp quyết định không được thi hành, hoặc thi hành không đầy đủ, người có trách nhiệm thi hành phải chịu trách nhiệm trước nhà nước, xã hội. Quyền lực của mỗi cơ quan Nhà nước tùy thuộc vào vị trí, chức năng của cơ quan đó trong hệ thống cơ quan nhà nước và được thể chế hóa thành nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong pháp luật. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước tùy thuộc vào tính chất, nhiệm vụ, chức năng của nó, nhưng đều theo những nguyên tắc chung, thống nhất.

Bởi vậy, trong Thuật ngữ hành chính của Học viện Hành chính Quốc gia, xuất bản năm 2009; định nghĩa cơ quan nhà nước: “là một bộ phận (cơ quan) cấu thành bộ máy nhà nước (bao gồm cán bộ, công chức và những công cụ, phương tiện hoạt động…) có tính độc lập tương đối, có thẩm quyền và thành lập theo quy định của pháp luật, nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước”.

Đặc điểm của cơ quan nhà nước:

– Các cơ quan nhà nước được thành lập theo trình tự nhất định được quy định trong pháp luật;

– Cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định;

– Hoạt động của cơ quan nhà nước mang tính quyền lực và được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước, hoạt động đó được tuân theo thủ tục do pháp luật quy định;

– Những người đảm nhiệm chức trách trong các cơ quan nhà nước phải là công dân Việt Nam.

b) Hệ thống các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước

Theo Hiến pháp năm 2013, ở nước ta có các loại cơ quan nhà nước sau:

– Các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương);

– Các cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan có chức năng quản lý nhà nước thuộc Chính phủ; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân;

– Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự, các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án đặc biệt và các Tòa án khác do Luật định);

– Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự, Viện kiểm sát nhân dân địa phương).

– Chủ tịch nước là một chức vụ nhà nước, một cơ quan đặc biệt thể hiện sự thống nhất quyền lực, có những hoạt động thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nên không xếp vào bất kỳ một loại cơ quan nào.

Ngoài ra, Hiến pháp 2013 còn lần đầu tiên hiến định hai cơ quan là Hội đồng bầu cử Quốc gia và Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội thành lập.

c) Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước tùy thuộc vào tính chất các nhiệm vụ được giao, nhưng đều theo nguyên tắc chung thống nhất như sau:

– Nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo:

Theo Điều 4 Hiến Pháp 2013, Đảng Cộng sản Việt Nam: Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

Thông qua tổ chức Đảng và Đảng viên trong bộ máy nhà nước, Đảng lãnh đạo mọi việc tổ chức bộ máy nhà nước từ xây dựng Hiến pháp, luật, các văn bản dưới luật liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước, đến lãnh đạo quy trình và nhân sự tổ chức bộ máy nhà nước; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước.

– Nguyên tắc nhân dân tham gia tổ chức nhà nước, quản lý nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nòng cốt là công nhân, nông dân và trí thức.

Đây là nguyên tắc thể hiện bản chất nhân dân của nhà nước ta. Tất cả nhân dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính đều có quyền thông qua đầu phiếu phổ thông bầu ra các đại biểu thay mặt mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, thực thi quyền lực nhà nước.

– Nguyên tắc tập trung dân chủ

Đây là một nguyên tắc tổ chức được xác định tại Hiến pháp 2013, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

– Nguyên tắc thống nhất quyền lực và phân công chức năng

Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

– Nguyên tắc quản lý xã hội bằng hiến pháp, pháp luật

Việc tổ chức các cơ quan nhà nước phải dựa trên và tuân thủ những quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức, biên chế, quy trình thành lập… Chức năng của bộ máy nhà nước thể hiện trên ba lĩnh vực hoạt động: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp.

Trong lĩnh vực Lập pháp, bộ máy nhà nước, thông qua hoạt động khác nhau của các cơ quan, thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam thành pháp luật của Nhà nước, phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế – xã hội của đất nước và các thông lệ quốc tế, tạo lập cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động của xã hội và của Nhà nước.

Trong lĩnh vực Hành pháp, bộ máy nhà nước, bằng hoạt động cụ thể, đưa pháp luật vào đời sống xã hội, bảo đảm để pháp luật nhà nước trở thành khuôn mẫu hoạt động của nhà nước, xã hội, bảo đảm thực hiện thống nhất pháp luật ở mọi cấp, mọi ngành trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia.

Trong lĩnh vực Tư pháp, bộ máy nhà nước, bằng hoạt động cụ thể của từng cơ quan, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm nhằm duy trì trật tự, kỷ cương, ổn định xã hội.

2. Các cơ quan nhà nước

a) Quốc hội

Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.”

Là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (Điều 2). Nhân dân có thể thực hiện quyền lực của mình bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp, bán trực tiếp và gián tiếp. Bằng biện pháp dân chủ gián tiếp, nhân dân bầu ra các cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) để thực hiện quyền lực của mình, trong đó, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Lập pháp là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản nhất của Quốc hội để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị, giữ vững an ninh, trật tự, phát triển kinh tế và mọi mặt cuộc sống.

Với vai trò của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng để xây dựng, phát triển đất nước như mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội dài hạn và hằng năm của đất nước; chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia. Những chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, và các chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách cơ bản về đối ngoại của Nhà nước cũng thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Ngoài ra, để giải quyết những vấn đề bức xúc của cuộc sống, Quốc hội ra các nghị quyết về thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, …

Giám sát là lĩnh vực hoạt động quan trọng của Quốc hội, bao gồm giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập. Do đó, phạm vi và nội dung giám sát của Quốc hội liên quan đến nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau như kinh tế-ngân sách, văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh và thi hành pháp luật, đặc biệt là việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của nhà nước, kiềm chế lạm phát, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, an sinh xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc thực hiện các giải pháp chống tham nhũng, buôn lậu, chống các tệ nạn xã hội, lập lại kỉ cương trong các lĩnh vực, nhất là hoạt động tài chính, ngân hàng, đất đai, xuất nhập khẩu, xây dựng cơ bản và hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật cũng là những nội dung quan trọng trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Ngoài ra, với tư cách là cơ quan đại diện của nhân dân, Quốc hội đảm nhiệm giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền do Ủy ban thường vụ Quốc hội trình. Những hoạt động này góp phần đảm bảo cho bộ máy nhà nước và các cơ quan nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, bảo đảm nhà nước là của dân, do dân, vì dân; bảo đảm Hiến pháp, pháp luật và chính sách của nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh.

Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp Quốc hội.Tại kỳ họp, Quốc hội thực hiện quyền giám sát thông qua việc nghe các cơ quan hữu quan báo cáo, ra nghị quyết về những vấn đề báo cáo. Giữa hai kỳ họp, Quốc hội thực hiện quyền giám sát thông qua hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Chất vấn là hình thức quan trọng để thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, đây có thể được coi là công cụ quan trọng để Quốc hội thực hiện chức năng giám sát. Trước đây, phần lớn chất vấn và trả lời chất vấn chủ yếu được thực hiện bằng văn bản, việc trả lời trực tiếp tại Hội trường chủ yếu để giải đáp một số vấn đề chung. Tại các kỳ họp nhiệm kỳ gần đây, chất vấn và trả lời chất vấn trở nên sôi động hơn, ý kiến của các đại biểu rất đa dạng, liên quan đến hầu hết các lĩnh vực quản lí nhà nước, kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, thi hành pháp luật, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Chất vấn và trả lời chất vẫn được truyền hình trực tiếp và phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng, thu hút sự quan tâm của cử tri, phản ánh những đổi mới cũng như những điểm yếu cần khắc phục trong hoạt động giám sát của Quốc hội.

* Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản sau:

– Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;

– Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

– Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của đất nước;

– Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;

– Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;

– Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

– Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.

Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;

– Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

– Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;

– Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

– Quyết định đại xá;

– Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;

– Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;

– Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;

– Quyết định trưng cầu ý dân.

* Cơ cấu tổ chức của Quốc hội gồm: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.

– Ủy ban thường vụ Quốc hội: là cơ quan thường trực của Quốc hội. Gồm có Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên. Số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ.

– Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản sau:

+ Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì kỳ họp Quốc hội;

+ Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;

+ Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

+ Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

+ Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội;

+ Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước;

+ Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân;

+ Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

+ Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp Quốc hội không thể họp được và báo cáo Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;

+ Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;

+ Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;

+ Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

+ Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.

– Hội đồng dân tộc:

Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Chủ tịch Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu; các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc.

– Các Ủy ban Quốc hội:

Các Ủy ban của Quốc hội được thành lập theo các lĩnh vực hoạt động của Quốc hội nhằm giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các Ủy ban của Quốc hội là hình thức thu hút các đại biểu vào việc thực hiện công tác chung của Quốc hội.

Nhiệm vụ của các Ủy ban Quốc hội là nghiên cứu thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, pháp lệnh và các dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban.

Cơ cấu của Ủy ban của Quốc hội gồm có Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và các ủy viên, trong đó có một số thành viên hoạt động theo chế độ chuyên trách.

– Đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội:

Đại biểu Quốc hội chính là người được nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội, đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm trước cử tri và trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình, và bình đẳng trong thảo luận, quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác; có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội; liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.

Với tổng số không quá năm trăm người, ít nhất ba mươi lăm phần trăm đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, theo đó đại biểu dành toàn bộ thời gian làm việc để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu tại cơ quan của Quốc hội hoặc tại Đoàn đại biểu Quốc hội. Những đại biểu hoạt động không chuyên trách phải dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc trong năm để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của họ.

Đoàn đại biểu Quốc hội là tổ chức của các đại biểu Quốc hội được bầu tại một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc được chuyển đến công tác tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đoàn đại biểu Quốc hội có Trưởng đoàn hoặc Phó Trưởng đoàn là đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách. Trưởng đoàn và Phó Trưởng đoàn do Đoàn đại biểu Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội của Đoàn và được Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức và điều hành các hoạt động của Đoàn.Phó Trưởng đoàn giúp Trưởng đoàn thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Trưởng đoàn. Khi Trưởng đoàn vắng mặt thì Phó Trưởng đoàn được Trưởng đoàn ủy nhiệm thực hiệnnhiệm vụ của Trưởng đoàn.

Đoàn đại biểu Quốc hội có trụ sở làm việc. Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội là cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của các đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội tại địa phương. Kinh phí hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội do ngân sách nhà nước bảo đảm.

b) Chủ tịch nước;

Điều 86 Hiến pháp 2013 quy định:

“Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.”

Chủ tịch nước được Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước làm việc đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước mới.

Chủ tịch nước có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:

– Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;

– Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ;

– Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá;

– Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam;

– Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;

– Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước.

Khi thực hiện quyền hạn, Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định.

c) Chính phủ

Theo Hiến pháp 2013, vị trí, tính chất của Chính phủ được quy định theo tinh thần đổi mới nhằm xây dựng Chính phủ mạnh, hiện đại, dân chủ, thống nhất quản lý vĩ mô các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.

Điều 94 Hiến pháp 2013 quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.” Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Chính phủ được Hiến pháp khẳng định vai trò là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, đồng thời Hiến pháp nhấn mạnh và đè cao vị trí, tính chất của Chihs phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong bất kỳ một nhà nước nào, quyền hành pháp luôn được xem như quyền năng trực tiếp trong hoạch định, đệ trình chính sách và tổ chức thực thi chính sách. Cơ quan thực hiện quyền hành pháp không chỉ bó hẹp ở chấp hành pháp luật, mà còn ở việc định hướng chính sách và tổ chức thực thi chính sách. Theo Hiến pháp 2013, chức năng của Chính phủ bao gồm phạm vi hoạt động rộng lớn như: đề xuất, xây dựng chính sách, định hướng phát triển kinh tế – xã hội trình Quốc hội, trình dự thảo luật trước Quốc hội; Ban hành chính sách, kế hoạch cụ thể theo thẩm quyền của Chính phủ; ban hành các văn bản dưới luật để thực thi các chủ trương, chính sách, văn bản do Quốc hội ban hành; Tổ chức thực hiện pháp luật; chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát việc thực hiện kế hoạch, chính sách bởi các cơ quan hành chính nhà nước nhằm thống nhất quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội; thiết lập trật tự hành chính, thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia trên cơ sở các quy định của pháp luật.

Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ do Quốc hội thành lập ra, Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ. Thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Thành viên của Chính phủ có thể bị Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức theo quyu định của pháp luật. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Những vấn đề này chỉ trở thành hiện thực khi được triển khai tổ chức chỉ đạo thực hiện trong thực tế. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội có trách nhiệm cụ thể hóa Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội thành những văn bản dưới luật, đưa ra những biện pháp thiết thực, phân công, chỉ đạo, điều hành và kiểm tra việc thực hiện các văn bản trong thực tế.

Hiến pháp 2013 cũng nhấn mạnh vị trí của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, đóng vai trò lãnh đạo hệ thống hành chính nhà nước. Chính phủ ban hành các kế hoạch, chính sách cụ thể, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực thi chủ trương, chính sách, văn bản do Quốc hội ban hành. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước của Chính phủ bao trùm lên toàn bộ xã hội, đối với tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế… trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội của đời sống xã hội. Còn các bộ, cơ quan ngang bộ lãnh đạo hoạt động quản lý nhà nước theo một ngành, một lĩnh vực nhất định được phân công.

* Nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ:

Hiến pháp Việt Nam hiện hành đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ theo hướng cụ thể, chi tiết cho từng lĩnh vực. Theo điều 96 Hiến pháp 2013, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được quy định trên cơ sở kế thừa các bản Hiến pháp trước đồng thời sửa đổi, bỏ sung cho phù hợp với nhiệm vụ của Chính phủ.

Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

  • Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
  • Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;
  • Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
  • Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
  • Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định;
  • Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
  • Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
  • Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.”

Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được Hiến pháp quy định, Luật tổ chức Chính phủ quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, khoa học, công nghệ và môi trường, văn hoá, giáo dục, thông tin, thể thao và du lịch, y tế và xã hội, dân tộc và tôn giáo, quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, đối ngoại, tổ chức hệ thống hành chính nhà nước, pháp luật và hành chính tư pháp và nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

* Cơ cấu tổ chức của Chính phủ

Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được quyết định trong kì họp thứ nhất của mỗi khóa Quốc hội trên cơ sở căn cứ vào quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Chính phủ hiện hành.

Thủ tướng Chính phủ là đại biểu Quốc hội, do Quốc hội bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước.

Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên khác của Chính phủ. Cũng như Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 không quy định các thành viên của Chính phủ (ngoài Thủ tướng) phải là đại biểu Quốc hội.

Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

d) Chính quyền địa phương

Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:

Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.

Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương theo luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.

Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định.

– Hội đồng nhân dân

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên; đồng thời quyết định các vấn đề của địa phương do luật định.

Trong quá trình hoạt động, Hội đồng nhân dân chịu sự giám sát, hướng dẫn của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thông qua Ủy ban thường vụ Quốc hội; sự kiểm tra hướng dẫn của Chính phủ; chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

Đại diện cho nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước ở trung ương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh nâng cao mức sống nhân dân, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước, giám sát hoạt động Thường trực của Hội đồng nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, việc tuân theo Hiến pháp, luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân địa phương. Những nhiệm vụ, quyền hạn trên được cụ thể hóa ở từng lĩnh vực của đời sống xã hội trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

Để thực hiện những nhiệm vụ trên, Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết để định ra chủ trương, biện pháp lớn và giám sát thực hiện Nghị quyết.

Nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân được thực hiện thông qua các hình thức hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban và đại biểu Hội đồng nhân dân. Hình thức hoạt động chủ yếu là các kỳ họp của Hội đồng nhân dân.

Kỳ họp của Hội đồng nhân dân là hoạt động duy nhất để ra các Nghị quyết có ý nghĩa pháp lý. Thông qua các kỳ họp, ý chí của nhân dân địa phương trở thành quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

Hội đồng nhân dân họp thường lệ một năm hai kỳ. Trong trường hợp cần thiết có thể họp bất thường. Các kỳ họp tiến hành công khai, theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt dưới sự điều hành của Thường trực Hội đồng nhân dân (ở cấp xã do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân chủ trì). Kết quả kỳ họp thể hiện bằng Nghị quyết do Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp ký hoặc chứng thực.

Về cơ cấu tổ chức, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có Thường trực Hội đồng nhân dân; cấp xã không thành lập Thường trực. Chức năng Thường trực của Hội đồng nhân dân cấp xã do Chủ tịch và Phó chủ tịch giúp việc thực hiện.

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được thành lập 03 ban: Ban Pháp chế, Ban Kinh tế – Ngân sách, Ban Văn hóa xã hội. Ở nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống có thể thành lập Ban dân tộc. Cấp huyện được lập hai ban: Ban Kinh tế – xã hội và Ban Pháp chế.

Các thành viên Thường trực và các ban của Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp. Trưởng ban cấp tỉnh có thể hoạt động chuyên trách, còn Trưởng ban cấp Huyện không hoạt động chuyên trách.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân được quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

– Uỷ ban nhân dân:

Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.

Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.

Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Ủy ban nhân dân có nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội tại địa phương. Thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp tại cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang; bảo đảm an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện xây dựng lực lượng vũ trang và xây dựng quốc phòng toàn dân; quản lý hộ khẩu, hộ tịch, quản lý công tác tổ chức biên chế, lao động tiền lương; tổ chức thu chi ngân sách của địa phương theo quy định của pháp luật.

Thành phần của Ủy ban nhân dân có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên, trong đó Chủ tịch nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp do Hội đồng nhân dân bầu. Các chức danh khác trong Ủy ban nhân dân không nhất thiết phải bầu từ đại biểu Hội đồng nhân dân.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc của Ủy ban nhân dân, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quy định cùng với tập thể Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cấp mình và trước cơ quan nhà nước cấp trên.

Ủy ban nhân dân thảo luận tập thể, quyết định theo đa số những vấn đề lớn của địa phương, được quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Ủy ban nhân dân được ban hành quyết định và chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Ủy ban nhân dân có các cơ quan chuyên môn để giúp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và đảm bảo sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ Trung ương tới cơ sở.

Quy định Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên bảo đảm tính thống nhất trong thi hành Hiến pháp, luật.

Tất cả những quy định trên đảm bảo được nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

đ) Tòa án nhân dân

* Vị trí pháp lý của tòa án nhân dân

Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án thực hiện quyền tư pháp.Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.

Hoạt động của Tòa án nhân dân có đặc điểm khác so với việc giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước khác như sau:

– Chỉ có Tòa án nhân dân mới có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Tòa án đều nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bản án và quyết định của Tòa án mang tính quyền lực nhà nước.

– Do kết quả xét xử của Tòa án nhân dân mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được hưởng các quyền hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý nhất định. Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân mang tính bắt buộc đối với bị cáo hoặc các đương sự cho nên hoạt động xét xử của Tòa án phải tuân theo các thủ tục tố tụng nghiêm ngặt. Các thủ tục này được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính. Nếu vi pháp các quy định của pháp luật tố tụng thì bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có thể bị kháng cáo, kháng nghị để Tòa án cấp trên xét xử theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm khắc phục, sửa chữa các sai sót trong các bản án, quyết định của Tòa án.

– Việc xét xử của Tòa án nhân dân có tính quyết định cuối cùng khi giải quyết các vụ việc pháp lý. Trong nhiều trường hợp, sau khi các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã giải quyết nhưng đương sự không đồng ý với giải quyết và yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết, Tòa án nhân dân có thể xem xét và quyết định.

– Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là hoạt động áp dụng pháp luật nhưng có tính khoa học, bởi vì khi xây dựng luật, các nhà làm luật không thể dự liệu hết tất cả những hành vi, hoàn cảnh, tình tiết của từng vụ việc cụ thể của từng vụ án. Vì vậy, các Thẩm phán và Hội thẩm phải nghiên cứu kỹ, toàn diện điều kiện khách quan, chủ quan có liên quan đến vụ án cụ thể, lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp và phân tích làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật đối với từng vụ án một cách hợp lý, áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật để có được phán quyết đúng pháp luật.

* Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân

Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

* Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân

Hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm:

– Tòa án nhân dân tối cao.

+ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Số lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới mười ba người và không quá mười bảy người; gồm Chánh án, các Phó Chánh án Tòa nhân dân tối cao là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

+ Tòa án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác, viên chức và người lao động. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

+ Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được Chủ tịch nước bổ nhiệm trong số các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước miễn nhiệm, cách chức. Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án.Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao.

+ Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

+Giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định.

+ Tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.

+ Đào tạo; bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm, các chức danh khác của Tòa án nhân dân.

+ Quản lý các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự về tổ chức theo quy định của Luật này và các luật có liên quan, bảo đảm độc lập giữa các Tòa án.

+ Trình Quốc hội dự án luật, dự thảo nghị quyết; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết theo quy định của luật.

– Tòa án nhân dân cấp cao.

Tòa án nhân dân cấp cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa, các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.

Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án.Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao.

+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm Chánh án, các Phó Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao.

Số lượng thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao không dưới mười một người và không quá mười ba người.

+ Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên.

Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp cao:

+ Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

+ Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

– Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

+ Ủy ban Thẩm phán gồm Chánh án, Phó Chánh án và một số Thẩm phán. Số lượng thành viên của Ủy ban Thẩm phán do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Phiên họp Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án chủ trì.

+ Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên.

Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa, các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động. Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.

Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.

Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án.Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

+ Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật.

+ Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

+ Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.

+ Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.

– Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.

Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương

+ Sơ thẩm những vụ án hình sự mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt từ 15 năm trở xuống, trừ những tội sau đây: Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia; các tội quy định tại các điều 89, 90 91, 92, 93, 101 (khoản 3), 102, 179, 231, 232 Bộ luật hình sự; sơ thẩm những vụ án dân sự, vụ án hôn nhân và gia đình, vụ án kinh doanh thương mại, vụ án lao động, vụ án hành chính theo quy định của pháp luật, trừ một số việc tranh chấp phức tạp hoặc có yếu tố nước ngoài, các tranh chấp về sở hữu công nghiệp.

+ Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.

– Tòa án quân sự

Tổ chức Tòa quân sự bao gồm:

+ Tòa án quân sự trung ương

+ Tòa án quân sự quân khu và tương đương

+ Tòa án quân sự khu vực

Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án quân sự:

Các Tòa án quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của luật.

e) Viện Kiểm sát nhân dân

* Vị trí pháp lý của Viện Kiểm sát nhân dân

Kế thừa nguyên tắc cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp năm 1992 và thể hiện tinh thần tăng cường yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 đã hoàn thiện nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Cụ thể hóa nguyên tắc này, nhất là phải đảm bảo sự phân công và kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực trong bộ máy nhà nước, những quy định về bộ máy nhà nước đã có sự xác định rõ ràng: Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng việc xác định Tòa án thực hiện quyền tư pháp không có nghĩa là phủ định việc thực hiện quyền tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan bổ trợ tư pháp. Chức năng của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân về cơ bản là sự kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” (Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013).

– Chức năng thực hành quyền công tố và nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố

Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố bằng các công tác sau đây:

+ Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;

+ Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự;

+ Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm;

+ Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự;

+ Điều tra một số loại tội phạm;

+ Thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:

+ Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;

+ Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.

Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

+ Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định;

+ Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

+ Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;

+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội;

+ Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội;

+ Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật;

+ Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố;

+ Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;

+ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;

+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

– Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp và nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp

Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp bằng các công tác sau đây:

+ Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;

+ Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự;

+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố;

+ Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự;

+ Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự;

+ Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;

+ Kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính;

+ Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền;

+ Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp.

Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm:

+ Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật;

+ Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ;

+ Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh;

+ Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.

Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp;

+ Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp;

+ Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm;

+ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp;

+ Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền;

+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.

* Tổ chức bộ máy của Viện Kiểm sát nhân dân

– Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có:

+ Ủy ban kiểm sát bao

+ Văn phòng;

+ Cơ quan điều tra;

+ Các cục, vụ, viện và tương đương;

+ Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp công lập khác;

+ Viện kiểm sát quân sự trung ương.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội; các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm tra viên, Thủ trưởng, các Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; công chức khác, viên chức và người lao động khác.

– Viện kiểm sát nhân dân cấp cao

Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao gồm có:

+ Ủy ban kiểm sát

+ Văn phòng;

+ Các viện và tương đương.

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; công chức khác và người lao động khác.

– Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh)

Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gồm có:

+ Ủy ban kiểm sát

+ Văn phòng;

+ Các phòng và tương đương.

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; công chức khác và người lao động khác.

– Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (sau đây gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện)

Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện gồm có văn phòng và các phòng; những nơi chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc.

Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; công chức khác và người lao động khác.

– Viện kiểm sát quân sự các cấp

Hệ thống Viện kiểm sát quân sự bao gồm:

+ Viện kiểm sát quân sự trung ương

– Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương.

– Viện kiểm sát quân sự khu vực.

g) Kiểm toán Nhà nước

* Vị trí, chức năng của Kiểm toán nhà nước

– Vị trí:

Điều 118 Hiến pháp 2013 quy định: Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.Tổng Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.

– Chức năng:

Chức năng của Kiểm toán nhà nước là thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Chức năng này được quy định cụ thể trong Luật Kiểm toán nhà nước,bao gồm ba chức năng cụ thể: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.

+ Kiểm toán báo cáo tài chính là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá, xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính.

+ Kiểm toán tuân thủ là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá và xác nhận việc tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà đơn vị được kiểm toán phải thực hiện.

– Kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.

* Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán nhà nước

Ðiều 10 Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 quy định Kiểm toán nhà nước thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

  1. Quyết định kế hoạch kiểm toán hằng năm và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện.
  2. Tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán hằng năm và thực hiện nhiệm vụ kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
  3. Xem xét, quyết định việc kiểm toán khi có đề nghị của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan, tổ chức không có trong kế hoạch kiểm toán năm của Kiểm toán nhà nước.
  4. Trình ý kiến của Kiểm toán nhà nước để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán ngân sách nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
  5. Tham gia với các cơ quan của Quốc hội, của Chính phủ trong việc xem xét về dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, phương án điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước, phương án bố trí ngân sách cho chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định và quyết toán ngân sách nhà nước.
  6. Tham gia với các cơ quan của Quốc hội trong hoạt động giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính – ngân sách, giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và chính sách tài chính khi có yêu cầu.
  7. Tham gia với các cơ quan của Quốc hội, của Chính phủ, các cơ quan có thẩm quyền trình dự án luật, pháp lệnh khi có yêu cầu trong việc xây dựng và thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh.
  8. Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; gửi báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán cho Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; cung cấp kết quả kiểm toán cho Bộ Tài chính, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân nơi kiểm toán và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật.
  9. Giải trình về kết quả kiểm toán với Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội theo quy định của pháp luật.
  10. Tổ chức công bố công khai báo cáo kiểm toán, báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán theo quy định tại Điều 50, Điều 51 của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
  11. Tổ chức theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán nhà nước.
  12. Chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan khác của Nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý những vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán.
  13. Quản lý hồ sơ kiểm toán; giữ bí mật tài liệu, số liệu kế toán và thông tin về hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật.
  14. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
  15. Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực của Kiểm toán nhà nước.
  16. Tổ chức thi, cấp, thu hồi và quản lý chứng chỉ Kiểm toán viên nhà nước.
  17. Tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về kiểm toán nhà nước.
  18. Xây dựng và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước.
  19. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.”

Ðiều 16 Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005 quy định Kiểm toán nhà nước có những quyền hạn sau đây:

  1. Trình dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội theo quy định của pháp luật.
  2. Yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán.
  3. Yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước đối với sai phạm trong báo cáo tài chính và sai phạm trong việc chấp hành pháp luật; kiến nghị thực hiện biện pháp khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do Kiểm toán nhà nước phát hiện.
  4. Kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán về sai phạm trong báo cáo tài chính và sai phạm trong việc chấp hành pháp luật; đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật những trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
  5. Kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý những vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được làm rõ thông qua hoạt động kiểm toán.
  6. Đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước hoặc cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật cho Kiểm toán nhà nước và Kiểm toán viên nhà nước.
  7. Trưng cầu giám định chuyên môn khi cần thiết.
  8. Được ủy thác hoặc thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu, tài liệu và kết luận, kiến nghị kiểm toán do doanh nghiệp kiểm toán thực hiện.
  9. Kiến nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và cơ quan khác của Nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách và pháp luật.”

* Tổ chức bộ máy của Kiểm toán nhà nước

Luật Kiểm toán nhà nước quy định về hệ thống tổ chức của Kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất gồm bộ máy điều hành, Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán nhà nước khu vực và các đơn vị sự nghiệp.

Số lượng Kiểm toán nhà nước chuyên ngành và Kiểm toán nhà nước khu vực trong từng thời kỳ được xác định trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ do Tổng Kiểm toán nhà nước trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định.

3. Hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

a) Phương hướng chung

– Xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông nhân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kiên định con đường lên chủ nghĩa xã hội, đảm bảo tính giai cấp công nhân gắn bó với chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân của Nhà nước ta, phát huy đầy đủ tính dân chủ trong mọi sinh hoạt của Nhà nước, xã hội.

– Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

– Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước nhằm tăng cường sự lãnh đạo điều hành tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính năng động, sáng tạo của địa phương, khắc phục khuynh hướng phân tán cục bộ và tập trung quan liêu, mỗi cấp, ngành đều có thẩm quyền, trách nhiệm được phân định rõ.

– Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa.

b) Xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta

Tiếp tục đổi mới và tổ chức hoạt động của Quốc hội nhằm đẩy mạnh hoạt động tư pháp, tăng cường công tác giám sát của Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội và hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách; sắp xếp bộ máy giúp việc của Quốc hội theo hướng tinh giảm về đầu mối,tăng cường cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ có trình độ cao.

– Cải cách nền hành chính nhà nước bao gồm: Cải cách thể chế hành chính, cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy, quy chế hoạt động của hệ thống hành chính; hoàn thiện chế độ công vụ, công chức; thực hiện cải cách hành chính công.

– Đổi mới tổ chức hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp gồm: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở cho hoạt động, tổ chức của hệ thống các cơ quan tư pháp; xác định thẩm quyền của các Tòa án; thành lập các tòa án chuyên trách khác; hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các Viện Kiểm sát, các cơ quan hỗ trợ tư pháp.

– Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, cơ quan, tổ chức nhà nước./.

CÂU HỎI ÔN TẬP

  1. Phân tích: Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
  2. Phân tích các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam được thể hiện trong Hiến pháp 2013.
  3. So sánh nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã với chính quyền địa phương ở thành phố trực thuộc Trung ương, quận, phường.
  4. Phân tích những điểm mới của Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 trong việc quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.
  5. Trình bày những điểm mới của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 trong việc quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Các bản Hiến pháp Việt Nam 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013
  2. Luật Tổ chức Quốc hội 2014
  3. Luật Tổ chức Chính phủ 2015
  4. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014
  5. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014
  6. Luật Tổ chức Chính quyền địa phương 2015
  7. Luật kiểm toán nhà nước 2015
  8. Giáo trình Luật Hiến pháp, Đại học Luật Hà Nội, 2016
  9. Giáo trình Luật Hiến pháp, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
  10. Nghị định 24/2014/NĐ-CP Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
  11. Nghị định 37/2014/NĐ-CP Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
  12. Tài liệu bồi dưỡng chương trình Chuyên viên, Chuyên viên chính-Bộ Nội vụ 2013.
  13. Thuật ngữ hành chính của Học viện Hành chính Quốc gia, xuất bản năm 2009;

Chuyên đề 2: XU HƯỚNG QUỐC TẾ VÀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VIỆT NAM

NỘI DUNG CHÍNH

I. TỔNG QUAN VỀ XU HƯỚNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

1. Vai trò của giáo dục phổ thông

2. Xu hướng quốc tế về đổi mới và phát triển chương trình GDPT

2.1. Về triết lý và tư tưởng giáo dục

2.2. Về cơ cấu hệ thống giáo dục phổ thông

2.3. Tiếp cận phát triển chương trình giáo dục phổ thông

2.4. Về mục tiêu, chuẩn và nội dung, phương pháp dạy học

2.5. Tích hợp trong xây dựng chương trình

2.6. Tổ chức dạy học phân hoá

2.7. Biên soạn sách giáo khoa

2.8. Quy trình xây dựng chương trình

2.9. Tổ chức đánh giá, thi

II. ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VIỆT NAM

TỪ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

1. Mục tiêu

2. Nhiệm vụ và giải pháp

3. Một số định hướng đổi mới cụ thể

III. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THẢO LUẬN

Tài liệu tham khảo

I. TỔNG QUAN VỀ XU HƯỚNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

1. Vai trò của giáo dục phổ thông

Giáo dục phổ thông (GDPT) có một vị trí và tầm quan trọng hết sức to lớn đối với ngành giáo dục nói riêng cũng như đối với nền kinh tế quốc dân nói chung, nhất là trong giai đoạn các quốc gia cần nhiều lực lượng lao động có chất lượng cao, phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hoá (CNH) và hiện đại hoá (HĐH). Bình luận về vai trò và vị trí của GDPT trong thời kì mới, GS Võ Tòng Xuân nhận xét: :“ Trong một nền kinh tế toàn cầu của thị trường tự do không ngừng cạnh tranh mãnh liệt, một lực lượng lao động được đào tạo ở trình độ chất lượng cao là yếu tố sống còn của một nền kinh tế quốc gia để thu hút đầu tư nước ngoài vào tạo nên việc làm và của cải cho đất nước. Vì thế chất lượng GDPT bắt đầu từ tiểu học ngày càng được công nhận là cơ sở quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế và được coi như công cụ để đạt được những mục tiêu phát triển khác. Các tổ chức phát triển quốc tế đã và đang tài trợ mạnh cho GDPT tại các nước nghèo chậm tiến vì họ công nhận hai vai trò của GDPT:vừa là yếu tố nhằm tăng trưởng kinh tế, vừa là yếu tố giúp giảm đói nghèo.”.

Trong hệ thống GD quốc dân, GDPT là bộ phận tiếp theo của GD mầm non, là nền tảng cho GD đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp. Nhiều nước sau GD cơ bản- bắt buộc, đã phân thành hai luồng: THPT lý thuyết ( academic school) và và trường nghề (vocational school). Trường THPT chuẩn bị cho HS vào các trường ĐH-CĐ, trường nghề phát triển năng lực nghề nghiệp và không ưu tiên chuẩn bị cho việc học lên cao. Như thế cũng có nghĩa là GDPT không chỉ chuẩn bị cho HS học tiếp lên cao mà còn chuẩn bị lực lượng lao động có văn hóa cho xã hội .

Trong hệ thống GD quốc dân, GDPT chiếm một vai trò hết sức to lớn. Để thấy rõ vai trò của GDPT, GS Võ Tòng Xuân đã so sánh, phân tích và rút ra nhận xét: “ Nhìn ra thế giới các nước giàu mạnh hiện nay, nước Mỹ tuy do đại bộ phận người Anh quốc di cư sang dựng lên thế giới mới, nhưng đang hùng mạnh và giàu có hơn Anh quốc. Trái lại, Nhật bản, một nước có diện tích và dân số ít hơn Mỹ nhiều lần, tuy đã thua Mỹ trong Thế Chiến thứ II, nhưng hiện nay lại là nước giàu có hơn Mỹ. Tổng sản lượng quốc dân – thước đo giàu nghèo của một nước – do mọi người dân làm ra dưới sự dẫn dắt của Nhà nước. Họ làm ra nhiều hay ít của cải là do trình độ mà nền khoa học và giáo dục của nước họ cung cấp, uốn nắn họ trong bối cảnh văn hóa xã hội đặc thù. Vì vậy, khi tìm hiểu tại sao Mỹ lại thua Nhật trên mặt trận phát triển kinh tế, nhiều nhà nghiên cứu giáo dục Mỹ (Cummings, 1980) đã công nhận tính ưu việt của nền khoa học và giáo dục của Nhật hơn Mỹ, Nhà nước Nhật bản có đường lối đúng và phù hợp thực tiễn hơn, biết tập trung phát huy tài nguyên con người của Nhật ngay từ giai đoạn cơ bản nhất – giai đoạn GDPT. Kỹ năng và kiến thức được truyền đạt trong giai đoạn GDPT giúp cho mọi công dân tham gia đắc lực nhất vào các hoạt động xã hội, kinh tế, và chính trị trong cộng đồng của họ. GDPT cũng được xem như là một quyền con người giúp họ thoát khỏi dốt nát và giảm thiểu những tác dụng tệ hại của nghèo nàn đặc biệt liên quan đến sức khoẻ và dinh dưỡng (Webster, 2000). Trong một nền kinh tế toàn cầu của thị trường tự do không ngừng cạnh tranh mãnh liệt, một lực lượng lao động được đào tạo ở trình độ chất lượng cao là yếu tố sống còn của một nền kinh tế quốc gia để thu hút đầu tư nước ngoài vào tạo nên việc làm và của cải cho đất nước. Vì thế chất lượng GDPT bắt đầu từ tiểu học ngày càng được công nhận là cơ sở quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế và được coi như công cụ để đạt được những mục tiêu phát triển khác. Các tổ chức phát triển quốc tế đã và đang tài trợ mạnh cho GDPT tại các nước nghèo chậm tiến vì họ công nhận hai vai trò của GDPT vừa là yếu tố trong tăng trưởng kinh tế vừa là trong sự giảm nghèo.”

Sự nung nóng lại nhiệt tình về giáo dục đã huy động cả thế giới qui tụ về tham dự Hội nghị“Giáo dục cho mọi người” họp tại Jomtien, Thailand, năm 1990, đã khẳng định tầm quan trọng và sự tác động của GDPT. Cam kết Jomtien 1990 được 155 quốc gia, 20 tổ chức liên quốc gia, và 150 tổ chức phi chính phủ ký kết tạo điều kiện cho mọi người được học (WCEFA, 1990).

Chính phủ các nước đã tích cực tham gia thực hiện cam kết Jomtien 1990 bằng những chương trình quốc gia cải cách GDPT. Tích cực nhất có lẽ là các chính phủ Âu châu, vừa cải tiến GDPT chính trong quốc gia của họ, vừa tài trợ cho nhiều nước chậm tiến hoạch định chương trình cải tiến GDPT ở đấy.

Phần Lan là một trong những nước Bắc âu có một nền GD tiên tiến và hiệu quả. Thành tích của GD Phần Lan thể hiện rất rõ trong các kì kiểm tra đánh giá theo chương trình đánh giá HS quốc tế PISA. HS Phần Lan luôn luôn dẫn đầu với số điểm cao nhất thế giới. Tại Diễn đàn kinh tế thế giới về GD Đại học – Cao đẳng, Phần Lan xếp hạng thứ nhất về số lượng tốt nghiệp và chất lượng, xếp thứ hai về toán và giáo dục khoa học.

Để đạt được kết quả trên chính phủ Phần Lan đã đầu tư rất lớn và có một chính sách GD phù hợp, trong đó đặc biệt chú trọng GDPT. Ở Phần Lan quyền lợi của GD và văn hóa được ghi trong Hiến pháp. Quyền lợi chung phải bảo đảm điều kiện công bằng cho tất cả mọi người dân được học xong GD bắt buộc và tự phát triển bất chấp địa vị tài chính của họ. Luật quy định GD bắt buộc và quyền lợi miễn phí cho tuổi tiền học đường cũng như GD cơ bản. Một số điều kiện GD khác cũng miễn phí ngay cả đối với giáo dục sau khi tốt nghiệp các trường đại học. Chính sách khoa học và giáo dục của Phần Lan nhấn mạnh tới chất lượng, hiệu quả, công bằng và quốc tế hóa. Điều đó đẩy mạnh tính cạnh tranh mạnh mẽ của đất nước này.

Sự thịnh vượng của xã hội Phần Lan được xây nên từ giáo dục, văn hóa và tri thức. Tất cả mọi trẻ em đều được bảo đảm các cơ hội học tập và tự phát triển phù hợp với năng lực của cá nhân, bất chấp về nơi cư trú, ngôn ngữ hoặc tình trạng tài chính. Mọi HS đều được giáo dục tốt với chất lượng cao và được học cách giữ gìn môi trường, sống khỏe mạnh. Sự mềm dẻo của hệ thống GD và cơ sở an toàn giáo dục đã tạo nên sự công bằng và kết quả vững chắc cho GD Phần Lan.”

Trên 10 năm trở lại đây Giáo dục Phần Lan trở thành một hiện tượng nổi trội. Rất nhiều nước đã phải giật mình, theo dõi, quan sát và nghiên cứu, nhất là từ khi bắt đầu xuất hiện Chương trình đánh gía HS quốc tế (PISA). Kết quả xếp hạng của PISA đã làm nhiều quốc gia “bàng hoàng”,“giật mình” về chính sách và hiệu quả đầu tư giáo dục của đất nước mình. Tiêu biểu nhất là Hoa Kỳ. Bức xúc trước những hạn chế của giáo dục phổ thông (GDPT) trong việc thực hiện nâng cao chất lượng, Tổng thống Obama đã quyết định tăng cường ngân sách cho GDPT một cách mạnh mẽ : 5 tỉ USD cho chương trình học sớm (early learning programs), 77 tỉ USD cho việc cải tổ mạnh mẽ giáo dục tiểu học và trung học, đặc biệt dành 5 tỉ USD cho “quỹ cạnh tranh nhằm khuyến khích đổi mới và tham vọng muốn lấp đầy những khoảng trống trong kết quả học tập của HS Hoa Kỳ”…

Trong bối cảnh đó, GD Phần Lan trở thành một hình mẫu mà nhiều nước phải tập trung hướng tới. Giới thiệu về chính sách đối với GDPT, Bộ GD Phần Lan đã khẳng định:Giáo dục và khoa học phát triển làm nền tảng cho kinh tế phát triển. Kinh tế phát triển tiếp tục làm cơ sở vững chắc cho văn hóa, xã hội Phần Lan ngày càng phồn thịnh. ở Phần Lan quyền lợi của GD và văn hóa được ghi trong Hiến pháp. Quyền lợi chung phải bảo đảm điều kiện công bằng cho tất cả mọi người dân được học xong GD bắt buộc và tự phát triển. Một số điều kiện GD khác cũng miễn phí ngay cả đối với giáo dục sau khi tốt nghiệp các trường đại học. Quốc hội đã thông qua luật GD, xác định rõ phương hướng cơ bản của chính sách GD và khoa học. ”

Na Uy cũng là nước điển hìnhcho thấy sự cải tiến chất lượng GDPT đã bao gồm mọi thành phần tham gia của cả hệ thống: từ học sinh hoặc học viên, đến thầy cô và bộ máy quản lý nhà trường, phụ huynh học sinh, chủ nhân của trường, và các cơ quan nhà nước. Hệ thống GDPT của Na Uy được thiết kế cho thế hệ trẻ được tích cực tham gia mọi hoạt động học tập để tạo cho họ một khả năng, mà khả năng ấy chỉ có thể phát huy tác dụng khi được tạo điều kiện cho sử dụng một cách tích cực và sáng tạo. Cho nên người ta không thể xem học sinh là sản phẩm của những gì họ được dạy học thuộc lòng mà chính trong giai đoạn GDPT những gì học sinh được thầy cô tạo điều kiện cho họ tự tìm tòi học hỏi và tự làm ra mới thật là sự giáo dục của họ. Trong giai đoan này họ phải tự giác rằng học hỏi phải cần sự tự kỹ luật và biết cộng tác với tập thể chứ không thể nhẹ dạ xao lãng việc học.

Tại châu Á, Tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục các nước thành viên Tổ chức Diễn đàn Hợp tác Kinh tế các nước Châu á- Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 2 “Giáo dục trong xã hội học tập ở thế kỷ 21” tại Singapore tháng 4-2000 đã thừa nhận rằng: “Giáo dục sẽ nhanh chóng trở thành nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự vững mạnh về kinh tế cũng như xã hội của các nước thành viên”. Các nước trong khu vực cũng đã có những bước đi tích cực để thực hiện tinh thần tuyên bố trên. “ Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, các nền kinh tế Đông Á nhận thấy được tầm quan trọng của GDPT nên đã ưu tiên đầu tư cao nhất cho giáo dục phổ thông”.

Rõ ràng, GDPT phát triển đã tác động rất to lớn vào việc phát triển kinh tế- xã hội. Kinh tế phát triển tiếp tục làm cơ sở vững chắc cho văn hóa, xã hội và kinh tế phát triển thịnh vượng. Gần đây tại Diễn đàn toàn cầu do READ, GS. Eric A. Hanushek ( Đại học Stanford University) trong báo cáo Kết quả học tập và sự tăng trưởng kinh tế cũng đã phân tích và nhấn mạnh mối quan hệ và sự tương tác giữa kết quả GD và sự tăng trưởng kinh tế của xã hội.

Nhật Bản đã mở rộng chế độ giáo dục phổ cập không mất tiền từ 6 năm thành 9 năm trong hệ thống giáo dục 12 năm, Singapore 10 năm, “Chính phủ Thái Lan đã thông qua một chương trình tài trợ tương đương 7.320 tỉ đồng VN cho chương trình giáo dục bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12, mỗi gia đình được cấp thẻ vàng trị giá 915.000 đồng VN để đưa con mình đến trường. Các bậc phụ huynh nào không làm sẽ bị phạt nghĩa vụ công ích.”

Giáo dục phổ thông có một vị trí và tầm quan trọng hết sức to lớn đối với ngành giáo dục nói riêng và đối với nền kinh tế quốc dân nói chung. Các nước có thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội (như Ai-len, Singapore, Hàn Quốc,…) đều coi phát triển giáo dục là ưu tiên hàng đầu để nhanh chóng phát triển đất nước. Thủ tướng của Singapore vào thập kỉ 90, Lý Quang Diệu, đã tuyên bố: Cạnh tranh quốc tế thực chất là cạnh tranh giáo dục, phát triển giáo dục nói chung và GDPT nói riêng là phát triển nguồn nhân lực của quốc gia. Hàn Quốc coi đầu tư cho giáo dục và khoa học – công nghệ là con đường đưa đất nước đứng vào hàng ngũ các nước phát triển nhất. Malaysia đang hướng tới một nền giáo dục tiên tiến trình độ quốc tế. Chính vì vậy, việc phát triển giáo dục phổ thông – trong đó có phát triển CT GDPT – phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh kinh tế – chính trị – xã hội của một đất nước và quốc tế trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, do CT GDPT vừa mang tính ổn định ở từng giai đoạn, vừa luôn vận động, đổi mới. Trong quá trình phát triển CT GDPT Việt Nam, việc tìm hiểu các thông tin về xây dựng CT GDPT của các nước có nền giáo dục phát triển cao và các nước có những đặc điểm văn hóa, xã hội tương đồng với Việt Nam là một yêu cầu tất yếu và cần được thực hiện trong suốt quá trình xây dựng và triển khai chương trình.

  1. Xu hướng quốc tế về đổi mới và phát triển chương trình GDPT

Trong đổi mới GDPT, vấn đề đổi mới chương trình luôn là tâm điểm, nó chi phối và có tác động to lớn đến nhiều yếu tố khác của toàn bộ hệ thống GDPT. Chương trình GD ở đây được hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất, bao gồm các thành tố: Mục tiêu, Nội dung, Phương pháp, Hình thức tổ chức dạy học và Kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Qua CT có thể thấy rõ xu thế đổi mới của GDPT các nước. Đổi mới CT buộc việc bồi dưỡng và đào tạo giáo viên phải thay đổi; từ việc quản lý và quản trị nhà trường đến yêu cầu đẩy mạnh nâng cao trang thiết bị, cơ sở vật chất cũng phải thay đổi… Chính vì thế trong phạm vi chuyên đề này , chúng tôi tập trung tổng quan về xu thế quốc tế về phát triển CTGDPT là chính.

Tổng quan dựa trên những tư liệu và kết quả nghiên cứu kinh nghiệm của

một số nước về các vấn đề liên quan đến phát triển CT. Cụ thể, gồm:

  • Hệ thống giáo dục quốc dân
  • Nền tảng triết lý và tư tưởng trong xây dựng CTGD
  • Chu kì đổi mới CTGD và lí do thay đổi
  • Các cách tiếp cận phát triển CT
  • Một số vấn đề cơ bản về CTGDPT như:

+ Mục tiêu GD: Giới thiệu mục tiêu chung và mục tiêu từng cấp học (nếu có); nhận xét về cách phát biểu mục tiêu (chú ý về những biểu đạt về năng lực).

+ Chuẩn: Cấu trúc của chuẩn, cách biểu đạt chuẩn

+ Cấu trúc khung: Các lĩnh vực môn học; Các mạch nội dung lớn, cách bố trí từ lớp 1 – 12. Nêu rõ về các lĩnh vực học tập, môn học tích hợp; mô tả về hoạt động giáo dục; thời lượng phân bố cho từng môn học, hoạt động GD; xem xét sự thể hiện các môn, lĩnh vực tích hợp trong suốt các cấp học, lớp học; mức độ tích hợp; cấu trúc các nội dung học ở THPT.

+ Xu thế tích hợp và phân hoá thể hiện trong CT: chú ý đến cách tổ chức các môn học tích hợp ở TH, THCS; cách thức phân hoá ở THPT.

+ Quy trình xây dựng CT: chú ý về cách thức tổ chức thí điểm; cách thức tổ chức thực hiện CT, vấn đề phân cấp quản lí CT; kế hoạch GD; cách biên soạn SGK và các nguồn học liệu khác.

+ Các điều kiện triển khai CT: Đào tạo đội ngũ CBQL và GV; Điều kiện CSVC và TBDH, kinh phí, ngân sách,…

  • Nhận xét, đánh giá: Những điểm có thể kế thừa, những gì khó khăn khi vận dụng trong điều kiện của VN.
  • Đề xuất vận dụng cho việc xây dựng CT GDPT của VN: Về hệ thống GD, mục tiêu, cách tiếp cận, tích hợp, phân hoá, quy trình XD, phân cấp, điều kiện thực hiện,…

Sau đây là khái quát xu thế quốc tế về một số vấn đề đã nêu trên.

2.1. Về triết lý và tư tưởng giáo dục

Trước hết cần chú ý tới Triết lí giáo dục mà UNESCO đã tuyên bố trên cơ sở 04 “trụ cột”: Học để biết, Học để làm, Học để chung sống và Học để khẳng định mình ( learning to be). Bốn trụ cột này dành cho triết lí giáo dục phổ quát mang tính toàn cầu và đều được các nước vận dụng, hoàn thiện phù hợp đặc điểm riêng của nước mình.

Nhìn chung, các nước đều đưa ra tư tưởng, triết lí giáo dục và quán triệt trong các hoạt động dạy học, quản lí giáo dục. Cơ sở cho tư tưởng, triết lí giáo dục thường là các học thuyết về nhận thức, liên quan đến bản chất sự phát triển con người. Văn bản chương trình một số nước có thể nêu hoặc không nêu tường minh triết lí hoặc tư tưởng giáo dục chỉ đạo chương trình, tuy nhiên, đa số các nước đều dựa trên những triết lí, tư tưởng giáo dục làm nền tảng chỉ đạo việc xây dựng CT GDPT. Tư tưởng, triết lý thường phụ thuộc vào các yếu tố văn hóa, xã hội, từng giai đoạn phát triển của từng nước, từng nhiệm kì lãnh đạo của các nguyên thủ quốc gia.

Chương trình 2007 của Hàn Quốc tuyên bố hướng đến con người có giáo dục nhất, cụ thể: “Giáo dục Hàn Quốc nhằm giúp mỗi công dân phát triển cá tính và những kĩ năng cần thiết cho cuộc sống của một công dân độc lập dưới ánh sáng tư tưởng nhân đạo và tinh thần trách nhiệm vì sự phồn thịnh của đất nước và nhân loại”.

Chương trình của Liên bang Nga được xây dựng theo tuyên bố của tổng thống Putin: “(Hình thành) con người tự do trong một đất nước tự do”.

Giáo dục Trung Quốc thực hiện đổi mới theo tư tưởng: “Hướng về hiện đại hóa, hướng ra thế giới, hướng tới tương lai” (Đặng Tiểu Bình, 1983).

Triết lí về xây dựng chương trình của Australia được thể hiện trong Tuyên bố Melbourne về mục tiêu giáo dục đối với thanh thiếu niên Úc, do Hội đồng Bộ trưởng thông qua vào tháng 12/2008 nêu rõ: “Tất cả những người trẻ tuổi ở Úc cần được hỗ trợ để trở thành người học thành công, cá nhân tự tin, sáng tạo, công dân hiểu biết và tích cực”.

Triết lí giáo dục của Malaysia được tuyên bố như sau:

“Giáo dục ở Malaysia là sự nỗ lực không ngừng nghỉ để phát triển khả năng tiểm ẩn của cá nhân một cách toàn diện, để đào tạo ra những cá nhân có sự hài hòa về trí tuệ, tinh thần, cảm xúc và thể chất dựa trên nền tảng niềm tin vững chắc vào Chúa. Nỗ lực đó nhằm đào tạo ra những công dân Malysia có kiến thức và khả năng, có phẩm chất đạo đức tốt, có trách nhiệm và sẵn lòng phục vụ gia đình, xã hội và tổ quốc” .

Cùng với triết lí giáo dục của quốc gia, các trường học cũng có thể có những tư tưởng, triết lí của mình, phù hợp với đặc điểm khác biệt của từng trường và nhất quán với tuyên bố của UNESCO. Trong thư ngỏ của Chủ tịch hội đồng quản trị trường Sri Kuala Lumpur (Malaysia) đã nêu rõ: “Triết lí của chúng tôi là cung cấp một nền giao dục toàn diện và đầy đủ cho HS của mình, nhấn mạnh tới những giá trị cộng đồng mạnh mẽ và kỉ luật, đồng thời khuyến khích HS nổi trội về mặt học tập. Chúng tôi cũng là những người tin vào câu ngạn ngữ cổ “một cơ thể khỏe mạnh tạo nên một tâm trí khỏe mạnh” và cam kết của chúng tôi về những hoạt động ngoại khóa và thể thao đã phản ánh niềm tin này”. Những tư tưởng, triết lí có thể được phát biểu dưới dạng “tầm nhìn, sứ mạng” của nhà trường. Chẳng hạn, Trường THPT Middleton (bang Wisconsin – Hoa Kì) đã nêu sứ mệnh là: “Để giáo dục tất cả HS trở thành các thành viên của một xã hội toàn cầu, nhà trường sẽ truyền cảm hứng cho họ với một tình yêu học tập suốt đời, thử thách họ với một CT giảng dạy nghiêm ngặt và trao cho họ những kỹ năng của thế kỷ 21” .

Nhìn chung, nội dung tuyên bố về triết lí, tư tưởng GD của từng nước có khác nhau, song thường đề cập đến các điểm sau:

  • Hướng tới phát triển cá nhân người học.
  • Giáo dục người công dân đa văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Tuyên bố về triết lí, tư tưởng giáo dục do các lãnh tụ của nước đó, hoặc cũng có thể do các hội nghị quan trọng quy mô quốc gia, quốc tế công bố. Triết lí, tư tưởng có thể được thể hiện qua những câu nói ngắn gọn mang tính châm ngôn, có thể được phản ánh trong các quan điểm, mục tiêu giáo dục.

2.2. Về cơ cấu hệ thống giáo dục phổ thông

Theo xu thế chung, hệ thống GDPT của các nước trên thế giới được cấu trúc theo các cấp học: Tiểu học (TH) trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT). GD tiểu học và GD THCS tạo thành giai đoạn giáo dục cơ bản (basic education). Độ tuổi nhập học phổ thông thường là 6 tuổi (127/206 nước; chiếm 61,7%). Số năm học ở phổ thông phổ biến là 12 năm trở lên (163/206 nước, chiếm 78,2%).

Giai đoạn GD tiểu học phổ biến kéo dài trong 6 năm (123/206 quốc gia tương đương 59,7%). GD tiểu học ở hầu hết các quốc gia là GD bắt buộc. Giai đoạn GD THCS thường kéo dài từ 2 đến 5 năm và phổ biến là 3 năm (có 107/205 quốc gia có thời lượng GD THCS là 3 năm, chiếm 52,3%). Giai đoạn GD THPT với thời lượng phổ biến là hai, ba năm.

Cấu trúc các cấp học trong GDPT của các nước theo xu thế chung là: 6 + 3 + 3 (Tiểu học 6 năm, THCS 3 năm và THPT gồm 3 năm) hoặc 6 + 4 + 2 (Tiểu học 6 năm, THCS gồm 4 năm và THPT gồm 2 năm). Với một số quốc gia, giáo dục THCS và THPT được gọi chung là giáo dục trung học. Một số ít nước thực hiện phân luồng giáo dục ngay sau Tiểu học (Đức, Đan Mạch, Hà Lan, Singapore, …), ở các nước này, sau giai đoạn GD tiểu học, HS học ở các loại trường THCS khác nhau phù hợp với năng lực, xu hướng phát triển của từng HS (tuy nhiên các chuyên gia cho rằng sự phân luồng này là quá sớm). Xu thế phổ biến là phân luồng sau THCS và sau THPT. Sau THCS, HS có thể học tiếp ở THPT (có nhiều loại hình trường trong nhóm này) hoặc học nghề, một bộ phận tham gia lao động sản xuất ngay.

Giai đoạn giáo dục cơ bản nhằm trang bị cho HS nền tảng học vấn phổ thông. Thời gian dành cho giáo dục cơ bản phổ biến từ 9 đến 10 năm. Hiện nay, thời gian dành cho giáo dục cơ bản có xu hướng tăng. Một số nước như Australia, Anh, một số Tiểu bang của CHLB Đức quy định là 10 năm. Theo thống kê của INCA, trong số 21 nước có tới 13 nước quy định thời gian dành cho giai đoạn giáo dục cơ bản là 10 năm. Năm 2012, Philipin đã quyết định chuyển hệ thống GDPT 10 năm sang hệ thống 12 năm theo cơ cấu 6 + 4 + 2.

Sau THPT, HS được phân thành các luồng: Theo học ĐH hay CĐ; học nghề hoặc tham gia lao động sản xuất ngoài xã hội.

Như vậy, theo xu thế, đa số các nước thực hiện hệ thống GDPT bao gồm: số năm học là 12 năm, trong đó số năm GD Tiểu học là 6 năm. Cấu trúc 3 cấp học của GDPT là 6+3+3 hoặc 6+4+2. Giai đoạn GD bắt buộc của nhiều nước là 10 năm.

2.3. Tiếp cận phát triển chương trình giáo dục phổ thông

Từ những năm 90 của thế kỉ trước, khi so sánh quốc tế về thiết kế CTGD, người ta thường nêu lên hai cách tiếp cận chính:

Thứ nhất là tiếp cận dựa vào nội dung hoặc chủ đề ( content or topic based approach) và thứ hai là tiếp cận dựa vào kết quả đầu ra (outcome-based approach or outcome-focused curriculum). Để ngắn gọn xin gọi cách 1 là tiếp cận nội dung và cách 2 là tiếp cận kết quả đầu ra.

Tiếp cận nội dung là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh vực/ môn học nào đó. Tức là tập trung xác định và trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn HS cần biết cái gì?(what we want students to know?). Cách tiếp cận này chủ yếu dựa vào yêu cầu nội dung học vấn của một khoa học bộ môn nên thường mang tính “hàn lâm”, nặng về lý thuyết và tính hệ thống, nhất là khi người thiết kế ít chú đến tiềm năng, các giai đoạn phát triển, nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học.

Tiếp cận kết quả đầu ra như NIER (1999) đã xác định“ là cách tiếp cận nêu rõ kết quả- những khả năng hoặc kĩ năng (abilities or skills) mà HS mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường ở một môn học

cụ thể”. Nói cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi: chúng ta muốn HS biết và có thể làm được những gì? (what we want students to know and to be able to do?)

Từ đầu thế kỉ XXI, các nước OECD và nhiều nước khác (có thể công bố rõ hoặc không tuyên bố rõ trong văn bản) đều phát triển CT GDPT theo định hướng phát triển năng lực người học. Với cách tiếp cận này, chương trình sẽ xác định yêu cầu đầu ra HS cần đạt được sau mỗi giai đoạn học tập, trong đó không chỉ yêu cầu “biết” (học thuộc, ghi nhớ kiến thức) mà chú ý tới yêu cầu “làm” thông qua các hoạt động, vận dụng những tri thức được học để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn. Các nội dung giảng dạy không chỉ gồm kiến thức và kĩ năng mà phải đi xa hơn, cụ thể là CT phải hướng đến phát triển cả các yếu tố khác nữa như các kĩ năng sống, các năng lực chung, … Khả năng hành động được đề cao; vai trò của những tình huống phức hợp, tình huống thực tiễn trong việc học tập được chú trọng. HS phải được giáo dục để không chỉ biết mà là làm được những gì trong một loạt các tình huống cụ thể. HS là người có vai trò chính trong việc học của mình. Hiệu quả học tập phụ thuộc chủ yếu vào sự tham gia của HS vào quá trình học, cả về mức độ và chất lượng.

Nghiên cứu chương trình của các nước cho thấy, mặc dù có sự khác nhau trong khung năng lực được xác định, trong cách thức thể hiện cụ thể các năng lực, nhưng trong phát triển chương trình, các nước đều chú ý tới hình thành, phát triển những năng lực, kĩ năng cần cho việc học suốt đời, cho cuộc sống hằng ngày, cần cho người công dân, cho cuộc sống lao động – trong đó chú trọng tới các năng lực, kĩ năng chung (như: Học cách học, có phương pháp học, làm việc; Năng lực cá nhân: tự chủ, tự quản lí bản thân; Năng lực xã hội: năng lực hợp tác, làm việc theo nhóm, năng lực giao tiếp; Tư duy phê phán, tư duy sáng tạo; giải quyết vấn đề, ICT, ….).

Khung năng lực do khối OECD đề xuất (OECD, 2005) là:

– Sử dụng công cụ tương tác:

+ Sử dụng ngôn ngữ tương tác;

+ Sử dụng kiến thức và thông tin tương tác;

+ Sử dụng công cụ tương tác;

– Tương tác trong nhóm phức hợp:

+ Hợp tác;

+ Làm việc nhóm;

+ Quản lý và giải quyết mâu thuẫn;

– Hành động độc lập:

+ Hành động với tư duy tổng thể;

+ Hình thành và thực hiện các kế hoạch trong cuộc sống và dự án cá nhân;

+ Bảo vệ và khẳng định quyền, lợi ích, giới hạn, nhu cầu.

Khung năng lực châu Âu hướng tới “học để học nữa” và được xác định là:

– Giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ;

  • Giao tiếp bằng ngoại ngữ;
  • Năng lực toán học và các năng lực cơ bản trong KH-CN;
  • Năng lực số;
  • Học cách học;
  • Năng lực xã hội và công dân;
  • Sáng tạo và tinh thần doanh nhân;
  • Nhận thức và thể hiện văn hóa.

Khung kĩ năng của Thế kỉ XXI được xác định như sau:

Cách tư duy

Sáng tạo và đổi mới;

Tư duy phê phán, giải quyết vấn đề, ra quyết định;

Học cách học.

Công cụ để làm việc

Kiến thức thông tin, đọc viết;

ICT.

Cách làm việc

Giao tiếp;

Hợp tác.

Cách chung sống trên thế giới

Công dân địa phương và toàn cầu;

Cuộc sống và công việc;

Cá nhân và trách nhiệm xã hội.

Có thể thấy, mặc dù có những cách diễn đạt và gọi tên các năng lực khác nhau, tuy nhiên các nước đều tập trung vào những nhóm năng lực cần thiết để mỗi cá nhân tự khẳng định mình và tham gia tích cực vào cộng đồng, xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.

Các năng lực chung sẽ được thể hiện trong việc xây dựng CT các môn học. Việc thể hiện năng lực trong môn học có những điểm khác nhau ở các nước. CT Australia xác định 7 năng lực chung, các năng lực này được cụ thể hoá và tích hợp trong từng mạch nội dung của mỗi lĩnh vực/môn học. CT Québec (Canada) xác định những năng lực trong từng môn học, được gọi là năng lực môn học cụ thể (Subject – specific competencies) để phân biệt với năng lực xuyên CT- năng lực chung. Chẳng hạn, chương trình Ngôn ngữ tiếng

Anh cấp THCS của Québec đã nêu các nhóm năng lực như sau:

– Nhóm NL 1: Sử dụng ngôn ngữ/lời nói để giao tiếp và nhận thức.

– Nhóm NL 2: Đọc và nghe để viết, nói và tạo lập văn bản truyền thông.

– Nhóm NL 3: Tạo ra các văn bản đáp ứng mục đích của cá nhân và xã hội

Trong mỗi nhóm năng lực đều giới thiệu: Các năng lực cơ bản; đặc trưng của năng lực; bảng tóm tắt các đặc tính cơ bản của các năng lực theo từng giai đoạn; các tiêu chí đánh giá năng lực; kết quả đầu ra; hướng phát triển năng lực; nội dung chương trình.

Nhìn chung không thấy có sự phân biệt rõ giữa các NL chung với NL riêng hay chuyên biệt. Từ các năng lực chung, các năng lực môn học thực chất là sự cụ thể hoá năng lực chung theo thế mạnh và đặc trưng của môn học đó.

Như vậy, phát triển CTGDPT theo tiếp cận năng lực là xu thế đang được nhiều quốc gia thực hiện. Các nước đã đưa ra khung năng lực, chú trọng những phương diện năng lực cần cho việc học suốt đời, cho cuộc sống hằng ngày, cần cho người công dân để thích ứng với xã hội hiện đại. Các năng lực chung sẽ được triển khai cụ thể trong xây dựng chương trình các lĩnh vực/môn học.

2.4. Về mục tiêu, chuẩn và nội dung, phương pháp dạy học

2.4.1. Mục tiêu giáo dục

Trong việc xác định mục tiêu, các nước thể hiện rõ yêu cầu phát triển năng lực người học, với những nét chung như: Sự phát triển toàn diện, hài hòa về thể chất và tinh thần, những kiến thức, kĩ năng cơ bản, năng lực cạnh tranh; các phẩm chất cá nhân; phẩm chất và ý thức trách nhiệm của công dân .

Chẳng hạn, chương trình Hàn Quốc (CT sửa đổi 2009) xác định mục tiêu hướng tới một nền giáo dục sáng tạo và nhân văn, xây dựng hình mẫu con người cần hướng tới:

  • Là người biết phát triển cá tính trên cơ sở phát triển toàn diện và tìm ra định hướng tương lai; Là người biết phát huy cá tính sáng tạo thành ý tưởng và muốn có thử thách mới trên cơ sở năng lực đã có; Là người sống có phẩm chất đạo đức trên cơ sở hiểu biết giá trị đa nguyên và kiến thức văn hóa; Là người tham gia phát triển cộng đồng trên tinh thần quan tâm và chia sẻ với tư cách công dân thế giới.

CHLB Đức cũng thể hiện những kết quả mong đợi ở người học trong mục tiêu chương trình giáo dục: Chương trình GDPT nhằm tạo ra những con người có tri thức khoa học nền tảng, học vấn phổ thông vững chắc; phát triển toàn diện về thể chất và khả năng cảm thụ nghệ thuật (âm nhạc, mĩ thuật); phát huy tối đa tiềm năng cá nhân và tính sáng tạo; khả năng làm việc độc lập, tự lập và tự tin; có khả năng ra quyết định; có trách nhiệm với bản thân, xã hội và nhân loại; có các năng lực chung và năng lực cho tương lai như: phát hiện và giải quyết vấn đề; năng lực sáng tạo; năng lực hợp tác và làm việc trong môi trường đa văn hóa; có phương pháp học, tự học và học tập suốt đời; sử dụng ngôn ngữ (đặc biệt là ngoại ngữ); năng lực tính toán; năng lực quản lý; sử dụng công nghệ thông tin và truyền

thông; năng lực tư duy phê phán.

Nhật bản xác định mục tiêu giáo dục là: “đào tạo người công dân có đủ tri thức, phẩm chất, năng lực phù hợp với xã hội hòa bình, dân chủ và tôn trọng nhân quyền”.

Cùng với việc xác định mục tiêu chung còn có mục tiêu các cấp học và mục tiêu các môn học. Trong Chương trình 2009 Hàn Quốc, mục tiêu cấp học được xác định cụ thể, thể hiện rõ sự phát triển của người học qua mỗi giai đoạn:

Tiểu học: Giáo dục ở nhà trường Tiểu học lấy trọng tâm là việc học của HS, nuôi dưỡng những khả năng cơ bản cần thiết cho cuộc sống hàng ngày, hình hành những thói quen thường nhật.

THCS: Trên cơ sở kết quả của GD Tiểu học, GD cấp THCS nhấn mạnh sự phát triển các khả năng cơ bản, cốt lõi cho việc học tập và cuộc sống hàng ngày; hình thành đức tính cương trực và nuôi dưỡng các phẩm chất của một công dân dân chủ.

THPT: Trên cơ sở kết quả của GD Trung học cơ sở, GD THPT tập trung giúp HS có khả năng tìm ra được một phần nghề nghiệp phù hợp với thái độ và tài năng của mỗi người; nuôi dưỡng những phẩm chất của công dân toàn cầu.

Chương trình của Đức còn xác định mục tiêu cho từng loại trường, ví dụ:

Mục tiêu của trường trung học Hauptschule là giáo dục toàn diện ở mức độ cơ bản (Basic General Education) và rèn luyện các kỹ năng thực hành nghề. Ở trường Hauptchule, HS phải học đến hết lớp 9 (tại Berlin và tiểu bang Nordrhein-Westfalen có thể học đến lớp 10 và khoảng 30% các em tự nguyện học đến lớp 10 để có kiến thức cơ bản cho việc học nghề sau này).

Mục tiêu của trường trung học Realschule là giáo dục toàn diện nhưng ở mức độ cao hơn trường Hauptschule (More Extensive General Education). HS phải học hết lớp 10 để được cấp bằng tốt nghiệp Realschulabschluss hoặc Mittlerer Schulabschluss (ở một số tiểu bang). Đây là điều kiện để HS có thể học tiếp lên bậc THPT và các trường như Berufsfachschule, Fachoberschule, Dual System.

Mục tiêu của trường trung học Gymnasium là giáo dục toàn diện ở mức độ nâng cao (Intensified General Education).

2.4.2. Chuẩn đầu ra

Chuẩn giáo dục phổ thông của Nga qui định rõ các mục tiêu, quá trình, kết quả cũng như các thành tố khác của quá trình giáo dục như điều kiện, phương tiện, nguồn lực,…Năm 2009, Nga xây dựng Chuẩn quốc gia về Giáo dục phổ thông thế hệ thứ hai, trong đó có phần “Hạt nhân của nội dung giáo dục phổ thông”, xác định nội dung chương trình học, cách thức tổ chức hoạt động học tập theo từng môn học riêng biệt và những tri thức phổ thông.

Hoa Kỳ từ những năm 2000 đã ban hành chuẩn nội dung (Content standards); từ năm 2010, bên cạnh chuẩn nội dung, 45 bang đã áp dụng các chuẩn chung cốt lõi (Common Core State Standards) cho môn Tiếng Anh và Toán ở các bang (chuẩn thực hiện). Chương trình của các nước Anh, Pháp có đề cập đến chuẩn theo các giai đoạn, tương ứng với các kết quả đầu ra (Learning outcomes).

Chương trình GDPT của Úc xây dựng chuẩn thành tích theo các mức độ cho các môn học, ở từng lớp. Chẳng hạn, trong chương trình môn Tiếng Anh, từ lớp 0 (tiền tiểu học) đến lớp 10, chuẩn được xác định cho từng năm học; ở lớp 11 và 12, chuẩn được xác định theo 5 cấp độ (từ A đến E), theo từng cặp đơn vị học tập (unit 1 và 2; unit 3 và 4) với các mức độ từ thấp đến cao.

Chương trình của Malaysia cấu trúc chuẩn theo từng môn học độc lập. Chuẩn quy định kết quả đầu ra và tiêu chí cụ thể của các nội dung học tập. trong đó kết quả đầu ra được xác định theo các nội dung học tập; tiêu chí mô tả cụ thể các mức độ thực hiện nội dung (3 mức) để có thể đo lường được; bên cạnh đó có nêu các ví dụ hoặc hoạt động để minh hoạ cho các tiêu chí.

Trong chương trình môn Toán của CHLB Đức, các lĩnh vực năng lực và chuẩn, yếu tố năng lực toán và thành phần lập luận toán học (sau khi tốt nghiệp THPT) được thể hiện như sau:

Các năng lực toán học chung

Các nội dung toán học chủ đạo

§ Lập luận toán học

§ Giải quyết vấn đề toán học

§ Mô hình hóa toán học

§ Sử dụng các cách trình bày biểu đồ, đồ thị, bảng…

§ Sử dụng các ký hiệu, công thức, các yếu tố kĩ thuật

§ Giao tiếp toán học

§ Thuật toán và số học

§ Đo lường

§ Không gian và hình học

§ Quan hệ hàm số

§ Dữ liệu và ngẫu nhiên (thống kê xác suất)

Năng lực lập luận toán học

Năng lực này bao gồm sự phát triển khả năng lập luận và dự đoán toán học độc lập và phù hợp với tình huống cũng như khả năng hiểu và đánh giá các mệnh đề toán học. Mức độ có thể từ những lập luận hợp lí đơn giản đến việc lập luận về nội dung mang tính trực quan cho đến việc chứng minh bằng công thức.

Ví dụ về cách trình bày những câu hỏi, bài tập liên quan đến năng lực này là:

“Hãy lập luận!”, “Hãy biện luận!”, “Có hay không?” hoặc “Có phải điều đó luôn đúng?”

Ba mức độ yêu cầu đối với năng lực này được mô tả như sau:

Mức độ yêu cầu I: Học sinh có thể

§ Tái hiện và ứng dụng những lập luận thông thường (những quy tắc, phương pháp quen thuộc)

§ Thực hiện những lập luận tính toán và rút ra kết luận logic đơn giản

§ Thực hiện những lập luận đơn giản trên cơ sở kiến thức kinh nghiệm

Mức độ yêu cầu II: Học sinh có thể

§ Hiểu, giải thích hoặc phát triển các các lập luận nhiều bước một cách rõ ràng và các kết luận logic

Mức độ yêu cầu III: Học sinh có thể

§ Sử dụng, giải thích hoặc phát triển những chứng minh lập luận đòi hỏi cao.

§ Đánh giá các lập luận khác nhau theo các tiêu chí

2.4.3. Cấu trúc nội dung chương trình GDPT

Chương trình GD các nước thường được kết cấu theo các thành phần sau: Các lĩnh vực chung là bắt buộc đối với mọi HS; Các nội dung cốt lõi bắt buộc; Các môn tự chọn; Tự học; Hoạt động trải nghiệm trong cộng đồng. Các yếu tố này được thực hiện trong chương trình chung cho mọi HS.

Một số lĩnh vực học tập mới liên quan đến công nghệ thông tin, kĩ năng tư duy và giao tiếp, các kĩ năng (bao gồm cả giáo dục công dân và giáo dục tính cách) đang được đưa vào nhà trường phổ thông để đáp ứng đòi hỏi của giáo dục đại học hoặc cuộc sống lao động. Chương trình các nước đều chú ý đến việc khuyến khích sự đa dạng và sự sáng tạo của HS trong học tập và cuộc sống. Chẳng hạn, CT Hàn Quốc bên cạnh những môn học cơ bản đã chú trọng đến một số lĩnh vực/môn học: ở Tiểu học: lớp Một và lớp Hai có môn Tiếng Hàn, Toán, Cuộc sống kỷ luật, Cuộc sống thông minh và Cuộc sống dễ chịu ; môn Công nghệ và Kinh tế gia đình là môn học bắt buộc ở THCS và THPT; bên cạnh đó CT coi trọng hoạt động trải

nghiệm sáng tạo, với các nội dung hoạt động tự chủ; hoạt động câu lạc bộ, hoạt động tình nguyện và hoạt động nghề.

Ở hầu hết các nước, các kiến thức cốt lõi dược xác định dành cho giai đoạn giáo dục bắt buộc gồm ngôn ngữ quốc gia, toán, lĩnh vực khoa học nhân văn (lịch sử, địa lí, nghiên cứu xã hội, giáo dục công dân), giáo dục thể chất/thể thao (có thể gồm thêm giáo dục sức khỏe ở vài nước); các môn tự nhiên (hoặc môn tự nhiên tích hợp), các môn nghệ thuật (mỹ thuật, âm nhạc, nhảy, kịch) và tiếng nước ngoài.

Chẳng hạn, trong CT Australia, các lĩnh vực học tập chủ yếu được xác định là: Nghệ thuật (the arts), Tiếng Anh (English), GD sức khỏe và thể chất (health and physical education – HPE), Các ngôn ngữ ngoài tiếng Anh, Toán, Khoa học, Tìm hiểu xã hội và môi trường (SOSE) và Công nghệ. Trong CT Singapore, các lĩnh vực học tập chủ yếu được xác định là: Ngôn ngữ, Nhân văn và nghệ thuật, Toán và khoa học, Kĩ năng sống (Hoạt động giáo dục), trong đó có các môn học bắt buộc và tự chọn. CT của Anh quốc xác định các môn học chính là Tiếng Anh, Toán, Khoa học được học ở tất cả các giai đoạn và các môn học cơ bản khác là Nghệ thuật và thiết kế, Công dân, Tin học, Thiết kế và công nghệ, Ngoại ngữ/ các ngoại ngữ hiện đại, Địa lý, Lịch sử, Âm nhạc, GD thể chất. Trong CT của Malaysia, các môn học được xác định theo tầng bậc, bao gồm: nhóm các môn cốt lõi/chính (bắt buộc ở tất cả các cấp học, được lựa chọn để thi hết cấp); nhóm các môn bắt buộc ở các cấp nhưng không được lựa chọn để thi; nhóm các môn học mở rộng (ở các cấp) và nhóm môn học tự chọn (ở cấp THPT).

Trong chương trình của hầu hết các nước, việc tổ chức các lĩnh vực, các môn học mang tính tích hợp được thực hiện ở tiểu học và THCS; tổ chức dạy học phân hóa mạnh, định hướng nghề nghiệp cao ở cấp THPT. Theo đó, kế hoạch giáo dục được xác định cụ thể cho từng cấp học, môn học, trong đó có việc xác định thời lượng của mỗi môn học/hoạt động.

2.4.4. Về phương pháp dạy học

Phương pháp dạy học mà các nước vận dụng (thể hiện trong văn bản CT) cũng đã khá quen thuộc với các phương pháp dạy học mới đang được Bộ GD&ĐT triển khai ở Việt Nam hiện nay. Nhìn chung, các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học được chú trọng trong chương trình các nước. Các PPDH này hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, quan tâm đến nhu cầu, khả năng của mỗi cá nhân HS, nhấn mạnh đến việc rèn luyện khả năng giải quyết vấn đề, nhấn mạnh việc đặt HS vào trong tình huống thực của cuộc sống. CT các nước đều khuyến khích sử dụng nhiều PPDH nhằm phát huy tính tích cực của HS như: Dạy học kiến tạo, dạy học theo dự án, dạy học theo nhóm,… khuyến khích HS tìm tòi, khám phá, tự trình bày ý kiến, giải quyết tình huống có ý nghĩa thực tế,…

5. Tích hợp trong xây dựng chương trình

Quan điểm tích hợp được quán triệt trong dạy học ở tất cả các môn học và ở tất cả các cấp học. Xu thế nổi bật là quan điểm tích hợp trong dạy học các môn được hầu hết các nước thực hiện với các mức độ khác nhau, trong đó tích hợp là một quan điểm cơ bản trong việc xây dựng chương trình và sách giáo khoa môn Khoa học từ Tiểu học đến THCS, một số nước đến THPT.

Dạy học tích hợp yêu cầu không chỉ tích hợp nội dung dạy học mà còn cần kết hợp đổi mới đồng bộ về phương pháp dạy học, phương thức tổ chức dạy học,… Tuy nhiên, do vấn đề tích hợp những nội dung dạy học ở các môn học truyền thống thành môn học/lĩnh vực dạy học mới như thế nào vẫn đang là vấn đề khó, vì vậy ở đây chỉ tập trung tìm hiểu vấn đề tích hợp trong nội dung dạy học.

2.5.1. Tích hợp các môn Khoa học tự nhiên

Trên thế giới các kiến thức thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên thường được cấu trúc trong chương trình một số môn học tích hợp. Ở các nước khác nhau, mức độ tích hợp cũng khác nhau. Ở từng cấp học nội dung các môn học cũng được cấu trúc và tích hợp với mức độ khác nhau.

Bảng thống kê tên các môn học thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên của một số nước

STT

Tên nước

Tên môn học ở từng cấp

Tiểu học

THCS

THPT

1

Hàn Quốc

Cuộc sống thông minh (lớp 1,2)

Khoa học (lớp 3 -6)

Khoa học

Khoa học gồm Vật lí, Hoá học, Sinh học…

(các môn học tự chọn)

2

Anh

Khoa học

Khoa học

Các môn Khoa học được tách riêng.

3

CH Pháp

Khám phá thế giới (lớp 1, 2).

Khoa học thực nghiệm và công nghệ (lớp 4-5)

KH sự sống và khoa học trái đất; Vật lí – Hoá học;

Vật lí – Hoá học;KH sự sống và khoa học TĐ (lớp 10)

Vật lí – Hoá học (bắt buộc);KH sự sống và khoa học TĐ (tự chọn) (lớp 11 và 12 ban KH) Khoa học (lớp 11 ban Văn và ban KT-XH)

4

Nga

Vật lý, Hóa học, Sinh học

Vật lý, Hóa học, Sinh học

5

Singapore

Khoa học

Khoa học

Vật lí; Hoá học; Sinh học (các môn học tự chọn)

6

Thuỵ Điển

Khoa học

Sinh vật, vật lí, Hoá học…

Sinh vật, vật lí, Hoá học (các môn học tự chọn)

7

Hungari

Môi trường (Lớp 1-4)

Tự nhiên (Lớp 5, 6).

Tự nhiên (Lớp 7, 8).

Vật lí, Hoá học, Sinh học (Lớp 9).

Vật lí, Hoá học, Sinh học (các môn học tự chọn)

8

Thuỵ Sĩ

KHTN

Vật lí, Hoá học, Sinh học (các môn học tự chọn)

9

Xứ Uên

Khoa học

Khoa học

Khoa học được tách riêng (các môn học tự chọn)

10

Hà Lan

Khoa học

Sinh vật

Vật lí và Hoá học

Khoa học được tách riêng (các môn học tự chọn)

11

CHLB Đức

Khoa học

Các môn KHTN gồm Vật lí, Hoá học và Sinh vật

Các môn KHTN:Vật lí, Hoá học và Sinh vật

(các môn học tự chọn)

12

Canađa (CT một số bang)

Khoa học

Khoa học

Khoa học gồm Vật lí, Hoá học, Sinh học…

(các môn học tự chọn)

13

Mĩ (CT một số bang)

Khoa học

Khoa học

Khoa học gồm Vật lí, Hoá học, Sinh học…

(các môn học tự chọn)

14

Nhật Bản

Môi trường và cuộc sống xung quanh (lớp 1-2);

Khoa học (lớp 3-6)

Khoa học

Khoa học tích hợp (kết hợp vật lí, hoá học, sinh học..); Ngoài ra còn có các môn học tự chọn: Vật lí; Hoá học; Sinh học

15

Australia

Khoa học

Khoa học

Khoa học đại cương; Vật lí; Hoá học; Sinh học(các môn học tự chọn)

16

Niu Di-lân

Khoa học

Khoa học

Khoa học gồm Vật lí, Hoá học, Sinh học…(các môn học tự chọn)

17

Ailen

Khoa học

Khoa học và công nghệ

Vật lí; Hoá học; Sinh học (các môn học tự chọn)

18

Tây ban Nha

Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội

KHTN Vật lí và hoá học; Sinh học và địa chất

KHTN gồm Vật lí, Hoá học, Sinh học…(các môn học tự chọn)

– Ở cấp tiểu học

Đa số các nước đều tích hợp các nội dung vật lý, hóa học, sinh học, địa lý tự nhiên, môi trường, sức khỏe, con người… tạo thành môn học mới có tên là môn Khoa học – đây là mức độ tích hợp cao nhất, xuyên suốt cả cấp học.

Ở lớp 1, 2 thường tích hợp các nội dung của cả KHTN và KHXH thành môn học mới (Cuộc sống thông minh ở Hàn Quốc; Khám phá thế giới ở Pháp; Môi trường và cuộc sống xung quanh ở Nhật);

Ở các lớp 3-5 hoặc 6: Chỉ tích hợp các nội dung của các môn khoa học tự nhiên với nhau thành môn học mới (môn Khoa học ở Hàn Quốc và Nhật, Khoa học thực nghiệm và công nghệ ở Pháp).

– Ở cấp THCS

Xu hướng thứ nhất là tích hợp nội dung của các môn học thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên như Vật lý, Hóa học, Sinh học thành môn học mới với hình thức tích hợp liên môn và tích hợp xuyên môn (Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa kì, Anh, Úc…). Tuy nhiên mức độ tích hợp ở các nước này lại khác nhau.

Xu hướng thứ hai là thực hiện quan điểm tích hợp nhưng không tạo môn học mới (Đức, Nga, Trung quốc). Một số nội dung môn Vật lí, Hoá học, Sinh học còn được tích hợp thành chủ đề tự chọn ở cuối cấp THCS hoặc loại bỏ những nội dung trùng lặp, khai thác sự hỗ trợ giữa các môn.

2.5.2. Tích hợp các môn KHXH

Bảng thống kê tên các môn học thuộc lĩnh vực Khoa học xã hội của một số nước

STT

Tên nước

Tên môn học ở từng cấp học

Tiểu học

THCS

THPT

1

Hàn Quốc

Cuộc sống thông minh (Lớp 1, 2)

Nghiên cứu xã hội (Lớp 3-6)

Nghiên cứu xã hội

Nghiên cứu xã hội

(môn học tự chọn)

2

Anh

Nghiên cứu xã hội

Lịch sử; Địa lí

Nghiên cứu xã hội

Lịch sử; Địa lí

Nghiên cứu xã hội

Lịch sử; Địa lí

(môn học tự chọn)

3

CH Pháp

Khám phá thế giới

(lớp 1, 2)

Lịch sử và Địa lí thuộc Văn hóa nhân văn (lớp 3-5)

Lịch sử- Địa lí và GDCD

Lịch sử – địa lí; Triết; KH KT và XH…(tùy ban)

4

Nga

Lịch sử, Địa lý

Lịch sử; Địa lí

5

Singapore

Nghiên cứu xã hội

Nghiên cứu xã hội

Lịch sử; Địa lí

(môn học tự chọn)

6

Thụy Điển

Khoa học xã hội

Khoa học xã hội

Khoa học xã hội (Địa lí, Lịch sử)

(môn học tự chọn)

7

Hung ga ri

Môi trường (Lớp 1- 4)

Lịch sử và Công dân; Trái Đất và môi trường

Lịch sử và Công dân

Trái Đất và môi trường (môn học tự chọn)

8

Thụy Sĩ

Địa lí; Lịch sử; Công dân

Lịch sử và công dân

Trái Đất và môi trường (môn học tự chọn)

9

Xứ Uên

Lịch sử – Địa lí

Lịch sử- Địa lí

Lịch sử; Địa lí

(môn học tự chọn)

10

Hà Lan

Lịch sử và Chính trị công dân; Địa lí

Lịch sử và nghiên cứu xã hội; Địa lí; Lịch sử (môn học tự chọn)

11

Ý

Lịch sử- Địa lí; Nghiên cứu xã hội

Lịch sử; Địa lí; GDCD

Lịch sử; Địa lí

(môn học tự chọn)

12

CHLB Đức

Lịch sử – Địa lí

Lịch sử; Địa lí

Lịch sử; Địa lí (môn học tự chọn)

13

Tây Ban Nha

Môi trường tự nhiên và xã hội

Nghiên cứu xã hội

Nghiên cứu xã hội (Địa lí, Lịch sử)

(môn học tự chọn)

14

Niu Dilân

Khoa học xã hội

Khoa học xã hội

Khoa học xã hội

(môn học tự chọn)

15

Nhật Bản

Môi trường và cuộc sống xung quanh (lớp 1, 2)

Nghiên cứu xã hội (lớp 3 – 6)

Nghiên cứu xã hội

Địa lí và Lịch sử (môn học tự chọn)

16

Australia

Nghiên cứu xã hội và môi trường

Nghiên cứu xã hội và môi trường

Nghiên cứu xã hội và môi trường

Lịch sử; Địa lí

17

Mĩ (CT một số bang)

Nghiên cứu xã hội

Nghiên cứu xã hội

Nghiên cứu xã hội

(môn học tự chọn)

18

Ailen

Lịch sử; Địa lí

Lịch sử; Địa lí

Nghiên cứu xã hội và môi trường

Lịch sử; Địa lí

(môn học tự chọn)

`19

Canada (CT một số bang)

Xã hội học

Xã hội

Xã hội học

(môn học tự chọn)

Các kiến thức của KHXH thường được cấu trúc trong chương trình một số môn học tích hợp. Ở các nước khác nhau, khả năng tích hợp, mức độ tích hợp cũng khác nhau. Ví dụ, các nước Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc, Singapore,… các nội dung địa lí, lịch sử, kinh tế, xã hội, giáo dục công dân được kết hợp với nhau tạo thành một môn học có tên Nghiên cứu xã hội hoặc môn Xã hội, hoặc Nghiên cứu xã hội và môi trường. Môn học này được dạy từ tiểu học đến THCS. Thông thường tại những nước này, mảng kiến thức địa lí tự nhiên đại cương với tên gọi “Khoa học về Trái đất” được bố trí trong môn Khoa học cùng với các kiến thức về Vật lý, Hoá học, Sinh học. Trong khi đó ở Pháp, môn Lịch sử, Địa lí được kết hợp thành một môn song vẫn gồm hai phần và giữa chúng có sự phối hợp chặt chẽ. Ở Ấn Độ, CHLB Đức,… môn Lịch sử, Địa lí vẫn là những môn học riêng biệt. Yêu cầu tích hợp được tiến hành qua việc lựa chọn các kiến thức của những môn học khác, kể cả môn Lịch sử, có liên quan đến môn Địa lí. Trong CT mới của Đức, tích hợp được thực hiện qua việc bố trí một số bài tập thực hành dưới dạng dự án. Để giải bài tập này, HS cần huy động kiến thức của nhiều bài học địa lí cũng như của nhiều môn học khác nhau.

Ở xu hướng thứ nhất, nhiều nước thực hiện tích hợp các môn học thuộc lĩnh vực KHXH như Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, tôn giáo,… để tạo thành môn học mới với hình thức tích hợp liên môn và tích hợp xuyên môn. Đại diện cho xu hướng này là Nhật Bản, Hàn quốc, Hoa kì, Anh, Pháp,…

Xu hướng thứ hai là việc thực hiện quan điểm tích hợp nhưng không tạo môn học mới. Môn Lịch sử và Địa lí vẫn là các môn học riêng. Đại diện cho xu hướng này là Cộng hòa liên bang Đức, Hà Lan, Thụy Điển,…

Nhìn chung, việc tổ chức dạy học tích hợp của các nước theo hướng như sau: Ở Tiểu học, nhiều nước tích hợp cả 2 lĩnh vực KHTN và KHXH thành 1 môn học (có tên là Cuộc sống thông minh hoặc Khám phá thế giới) ở các lớp 1, 2, 3; một số nước tách 2 lĩnh vực trên thành 2 môn học riêng từ lớp 1. Ở THCS, các môn học tích hợp là môn Khoa học và Tìm hiểu/Nghiên cứu xã hội được thực hiện ở nhiều nước; một số nước khác tổ chức nội dung theo các môn học riêng, chỉ tích hợp theo các chủ đề liên môn. Ở THPT, nhiều nước tổ chức dạy học theo từng môn học riêng để thực hiện phương thức tự chọn. Việc tích hợp trong nội bộ môn học được thực hiện ở cả 3 cấp học.

2.6. Tổ chức dạy học phân hoá

Dạy học phân hóa là xu thế tất yếu của tất cả các nước, trong đó phương

thức phân hóa vĩ mô luôn được chú ý, đó là phân chia HS thành các nhóm khác nhau, mỗi nhóm học theo cách thức phù hợp riêng. Có thể nêu lên một số nhận định chung về xu thế tổ chức dạy học phân hóa của thế giới như sau:

Việc tổ chức dạy học phân hóa ở hầu hết các nước trên thế giới được thực hiện theo nguyên tắc phân hóa sâu dần. Cụ thể, ở cấp tiểu học thường quy định HS học các môn học bắt buộc, đồng thời có một số hoạt động, chủ đề tự chọn, các hoạt động/chủ đề tự chọn này tích hợp các kiến thức, kĩ năng của các môn học bắt buộc. Ở cấp THCS, HS học các môn học bắt buộc, đồng thời có một số môn/chủ đề tự chọn (số môn/chủ đề tự chọn này nhiều hơn ở cấp tiểu học). Ở cấp THPT, việc phân hóa được thực hiện ở mức độ cao hơn, nhằm hướng tới việc đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng, xu hướng nghề nghiệp của từng HS.

Phân luồng trong GDPT cũng là một hình thức phân hóa. Như đã đề cập đến ở phần xem xét hệ thống giáo dục quốc dân, một số ít nước phân luồng HS ngay sau tiểu học. Phần đông các nước thực hiện phân luồng sau THCS và sau THPT: Sau THCS có bộ phận đáng kể HS theo học các trường nghề, một bộ phận học tiếp lên THPT. Ở cấp THPT có nhiều loại hình trường khác nhau phục vụ nhu cầu định hướng nghề nghiệp của HS (chẳng hạn ở Hàn Quốc có loại trường dành cho HS hướng tới các ngành công nghiệp, có loại trường dành cho HS hướng tới các ngành nông nghiệp, …).

Có hai hình thức tổ chức dạy học phân hóa chủ yếu ở THPT là phân ban và tự chọn.

Về phương thức phân ban, HS được học các môn theo cùng một lĩnh vực/ nhóm môn/ngành (như Pháp, Nga, Tunisie, Tây Ban Nha…). Ví dụ, Ở Pháp, cấp THPT chia thành 2 loại hình trường THPT và THPT kĩ thuật, trường THPT tổ chức dạy học theo 3 ban: Khoa học, Văn chương, Kinh tế- xã hội, nhằm chuẩn bị cho học ĐH. Bên cạnh đó, một số nước không tuyên bố phân hóa theo hình thức phân ban nhưng cũng tổ chức học theo các môn thuộc cùng một lĩnh vực/ngành (Anh, Đức,…).

Về phương thức tự chọn, HS được chọn học một số môn học theo danh sách các môn hoặc nhóm môn được đưa ra. Trong dạy học tự chọn lại có thể có các hình thức tự chọn khác nhau: Chọn theo hình thức “tín chỉ”, HS được chọn các môn hoặc các mô đun thuộc các môn sao cho đủ số tín chỉ quy định (CT Hoa Kì, Hàn Quốc); Chọn học các môn học thuộc các lĩnh vực khác nhau (Chương trình IB, …); Chọn môn học tùy ý theo danh sách các môn học/mô đun được đưa ra (chương trình A level của Anh); Học một/một vài bắt buộc và một số môn học tự chọn (Trung Quốc, Australia, Hoa Kì, Hồng Kông, Campuchia, …).

Ví dụ, Chương trình tú tài quốc tế (International Baccalaureate – IB) cấp THPT theo hướng sau: CT được triển khai cho 2 năm cuối cấp THPT; HS chọn ít nhất 6 môn trong 5 hoặc 6 nhóm (Ngôn ngữ và văn học; Ngôn ngữ 2; Toán và KH máy tính; Cá nhân và xã hội; KH thực nghiệm; Nghệ thuật), mỗi nhóm chọn từ 1 đến 2 môn, mỗi nhóm gồm danh sách khoảng 5-6 môn. Ba hoặc bốn môn phải học ở trình độ cao (HL), các môn còn lại ở trình độ chuẩn (SL). Tối thiểu 240 giờ dạy đối với các khóa HL và 150 giờ đối với các khóa SL. Đồng thời HS phải hoàn thành 3 yêu cầu cốt lõi là Tiểu luận mở rộng – Extended essay (4.000 từ); Lý thuyết về tri thức; Tính sáng tạo, hành động, sự phục vụ.

Chương trình THPT của Australia thực hiện phân hóa bằng tự chọn ở lớp 11 và 12. Mỗi học sinh bắt buộc phải chọn 5 đến 6 môn học, trong đó phải có môn tiếng Anh. Các môn học được cấu tạo theo 4 unit. Mỗi unit sẽ được thiết kế để được dạy trong khoảng nửa năm học (khoảng 50-60 giờ bao gồm cả thời gian đánh giá và thi). Mỗi môn học phân thành 3 mức (stage) 1,2,3, môn Toán có thêm mức đặc biệt. Để xét tuyển vào đại học, HS phải chọn ít nhất 4 môn ở trình độ mức 2 trở lên và thi 4 môn này trong kỳ thi tốt nghiệp trung học.

Chương trình THPT của Hoa Kì quy định HS phải học một số môn cốt lõi (môn bắt buộc) và có thể chọn học một số môn học khác theo năng lực, nguyện vọng của cá nhân. Các môn học bắt buộc là Tiếng mẹ đẻ (Tiếng Anh), Khoa học (tự nhiên), Khoa học Xã hội và Toán học và một số môn tùy theo các bang (Sức khỏe/GD Thể chất, Thần học,…). Phần lớn các trường học yêu cầu 4 tín chỉ Tiếng mẹ đẻ và 3 tín chỉ Toán học để tốt nghiệp (một số trường yêu cầu 4 tín chỉ Toán học). Một số môn BB có thể học theo CT nâng cao. Các môn học tự chọn chia theo 8 nhóm. Từng trường học yêu cầu HS hoàn thành số lượng tín chỉ nhất định cho các môn học tự chọn.

Xét từ cấu trúc các năm học của cấp THPT, việc tổ chức DH phân hóa được thực hiện theo 2 hướng: Phân hóa ngay từ lớp 10 (Trung Quốc, Hàn Quốc sau 2009,…) hoặc coi lớp 10 là giai đoạn định hướng, phân hóa mạnh và sâu từ lớp 11 và 12 (Hàn Quốc trước 2009, Pháp, Australia, Đài Loan, CHLB Đức,…). Ví dụ, ở Australia, lớp 10 HS học tập và hoàn thành Chứng chỉ phổ thông, lớp 11 và 12 HS học tập và hoàn thành Chứng chỉ phổ thông trung học.

Ở Phần Lan, sau khi kết thúc giai đoạn GDBB 9 năm, HS có thể học 1 năm giáo dục bổ sung (lớp 10). Việc tham gia này là tự nguyện nhằm bổ sung thêm kiến thức hoặc cải thiện chứng chỉ hết GD cơ sở (có chứng nhận bổ sung khi học thêm lớp 10). Có khoảng vài % học sinh học lớp 10 – (đây là những học sinh khi kết thúc lớp 9 chưa định hình rõ trong tương lai làm gì hoặc muốn cải thiện kết quả học tập). Giáo dục THPT thực hiện 3 năm. HS sẽ chọn học 1 số môn học để thi tốt nghiệp THPT. Có 4 môn phải thi, bao gồm 2 ngôn ngữ quốc gia, 1 ngoại ngữ, toán, hoặc khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn.

Vai trò của lớp “bắc cầu” mang tính định hướng của lớp 10 ở CHLB Đức xác định như sau:

Trường cấp 3 Gymnasium được chia thành hai giai đoạn: 1 năm định hướng và hai năm nâng cao. Năm lớp 10 của khối trung học I (Sekundarbereich I) có thể mang hai chức năng: Là năm cuối của khối trung học I và là năm đầu của trường cấp 3 Gymnasium.

Giai đoạn định hướng của trường cấp 3 Gymnasium còn có thêm chức

năng bắc cầu trong quá trình chuyển sang giai đoạn nâng cao: Chú ý cân bằng các điều kiện khác nhau của HS trước khi bước vào giai đoạn này. Các bang đảm bảo chỉ nhận các HS vào giai đoạn định hướng dựa trên thành tích của các HS. Nếu được nhận vào giai đoạn định hướng dựa vào bằng bậc trung thì HS ấy cần chứng minh được năng lực cao hơn tấm bằng bậc trung của mình.

Như vậy, trong tổ chức dạy học phân hoá, đặc biệt ở cấp THPT, hình thức phân ban chỉ được một số ít quốc gia lựa chọn, trong khi hình thức phân hoá bằng tự chọn là xu thế phổ biến hơn. Đa số các nước tổ chức phân hoá ở 2 năm cuối của GDPT (Australia, Anh, Singapore, Đức, Pháp, Malaysia, Hoa Kì, Chương trình IB,..). Cách lưạ chọn môn học cũng như cách xác định các giai đoạn nhỏ trong cấp học này ở từng quốc gia có những điểm khác nhau, song ở hầu hết các nước, tiếng mẹ đẻ (và toán) là môn bắt buộc và thời lượng được bố trí tương đương với các môn học tự chọn khác.

2.7. Biên soạn sách giáo khoa

Sách giáo khoa trên thế giới hiện nay được tổ chức biên soạn theo các phương thức rất phong phú và đa dạng. Theo thống kê của INCA (2013) ở các nước (Anh; Ai len, Bắc Ai len, Scotland, Xứ Wales, Pháp, Đức, Hungary, Italy, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Australia, Canada, Nhật, Hàn Quốc, New Zealand, Singapore, Nam Phi, Nga, Hoa Kì) việc tổ chức biên soạn và cung cấp, lựa chọn SGK như sau: Ở hầu hết các nước trên, các NXB tổ chức viết SGK trên cơ sở chương trình do nhà nước ban hành; ở một vài quốc gia, nhà nước sẽ tổ chức biên soạn một số cuốn sách (chẳng hạn Hàn Quốc, Singapore). Nhà nước đưa ra quy định về nội dung và tiêu chuẩn chất lượng SGK, cung cấp danh sách các SGK được sử dụng (Italia, Hungary, Đức, Pháp, Hàn Quốc, Thụy Sĩ, Canada, New Zealand, một số bang của Hoa Kì, Nga). Việc chọn SGK để dạy do GV và nhà trường quyết định.

Hàn Quốc có nhiều bộ SGK, nhất là sách của các môn liên quan đến kỳ thi quốc gia (vào đại học – Cao đẳng) như Toán, Tiếng Hàn, Tiếng Anh… Trong nhiều năm qua, Bộ GD giao quyền cho các công ty tư nhân tổ chức biên soạn và in ấn, phát hành sách giáo khoa trừ một số bộ môn, trong đó có bộ môn tiếng Hàn. Sách giáo khoa do đội ngũ các GS đại học, cơ quan chuyên môn của Bộ, Viện CT và Đánh giá Hàn Quốc (KICE) tổ chức biên soạn… Các nhà xuất bản tự tổ chức và gửi lên trên để được xem xét, đánh giá và cấp phép (Textbook certification).

Trung Quốc thực hiện phương châm “Nhất cương đa bản”, tức là trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất theo một chương trình của cả nước, SGK được đa dạng hoá ở các cấp độ khác nhau, thích ứng với các học chế và điều kiện vùng miền khác nhau. Nhà nước khuyến khích và ủng hộ các đơn vị, đoàn thể, cá nhân có đủ các điều kiện do Thông tư quy định biên soạn SGK có chất lượng cao, có bản sắc riêng, phù hợp với yêu cầu cải cách dạy học. Việc biên soạn và thẩm định SGK do cơ quan hành chính giáo dục của Quốc vụ Viện và cơ quan hành chính giáo dục của tỉnh quản lý.

Như vậy, về cơ bản, việc biên soạn và sử dụng SGK theo xu thế sau: Nhà nước xây dựng và ban hành chương trình, các nhà xuất bản biên soạn SGK là chủ yếu, SGK muốn được sử dụng phải qua sự thẩm định và cho phép của nhà nước. Nhà nước có thể chủ động tổ chức biên soạn một số SGK (cho một vài cấp học, môn học hay vùng miền). Việc lựa chọn và sử dụng sách giáo khoa thuộc quyền của các trường và giáo viên.

2.8. Quy trình xây dựng chương trình

2.8.1. Quy trình chung xây dựng chương trình

Nhìn chung, quá trình phát triển CTGDPT của các nước được thực hiện theo quy trình sau:

  • Đánh giá CT cũ (CT hiện hành và các CT trước đó).
  • Định hình chương trình CT mới (đề xuất tư tưởng, cách tiếp cận, các định hướng chỉ đạo chung).
  • Viết chương trình (chương trình khung, chương trình môn học), thẩm định, xin ý kiến từ nhiều kênh khác nhau.
  • Chuẩn bị các điều kiện cho việc thực hiện chương trình: bồi dưỡng GV, chuẩn bị có sở vật chất, sách giáo khoa và các tài liệu hướng dẫn.
  • Triển khai đại trà.
  • Giám sát, đánh giá và cập nhật, điều chỉnh, tiếp tục phát triển chương trình.

Trong số các quốc gia được tìm hiểu, có thể lấy quy trình của Australia được triển khai theo các giai đoạn hết sức bài bản, cụ thể có 4 giai đoạn cơ bản:

1/ Giai đoạn định hướng chung về tư tưởng, mục đích, cấu trúc và tổ chức các lĩnh vực học tập. Giai đoạn này nhằm đưa ra hướng dẫn người viết chương trình, đồng thời cung cấp tiêu chí để đánh giá chất lượng chương trình. Các bên liên quan tham gia vào giai đoạn này gồm: GV và nhà trường, chính quyền giáo dục bang và vùng lãnh thổ, phụ huynh HS và HS, tổ chức chuyên môn, liên đoàn GV, trường ĐH, doanh nghiệp và cộng đồng.

2/ Giai đoạn viết chương trình: Chương trình Úc được viết theo lĩnh vực

cụ thể, nội dung và chuẩn thành tích được các nhà quản lý GD, nhà trường và GV áp dụng ở tất cả các bang và vùng lãnh thổ. Giai đoạn này có sự tham gia của các nhóm tác giả, dưới sự hỗ trợ của nhóm chuyên gia tư vấn, với các bên liên quan chủ chốt gồm: GV và nhà trường (thông qua các hoạt động tham gia tăng cường vào thực nghiệm CT), chính quyền giáo dục bang và vùng lãnh thổ, PHHS và HS, nghiệp đoàn, liên đoàn GV, trường ĐH, doanh nghiệp và cộng đồng. Giai đoạn này sẽ công bố Chương trình quốc gia về lĩnh vực/môn học.

3/ Giai đoạn chuẩn bị thực hiện liên quan tới việc triển khai chương trình ở cấp trường và các nhà quản lý, theo hình thức trực tuyến đối với cấp trường, GV, các nhà quản lý nhà trường để chuẩn bị thực hiện. Việc thực hiện và hỗ trợ thực hiện là trách nhiệm của các nhà chức trách cấp bang, trường học địa phương và chương trình. Cơ quan phụ trách về phát triển chương trình và đánh giá của Úc (ACARA) làm việc với các nhà chức trách này nhằm hỗ trợ kế hoạch thực hiện sắp tới thông qua việc cung cấp tài liệu hướng dẫn, thông tin giới thiệu và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoạch địch trên toàn quốc.

4/ Giai đoạn giám sát, đánh giá chương trình trong Chương trình GDPT Úc được thực hiện với các báo cáo thường niên lên ACARA và chi tiết hóa theo các vấn đề đã được xác định. ACARA xây dựng khung giám sát, gồm cả câu hỏi nghiên cứu và thu thập dữ liệu liên quan, các nhà chức trách GD cấp bang và vùng lãnh thổ có thể sử dụng tài liệu này như một phần trong chiến lược giám sát riêng của cá nhân, nhằm hỗ trợ quá trình thu thập và cung cấp dữ liệu Chương trình cấp bang/vùng lãnh thổ để báo cáo lên ACARA. Qui trình đánh giá có thể dẫn tới một số thay đổi nhỏ, hoặc chỉnh sửa chương trình.

Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc và một số nước phát triển, đội ngũ xây dựng CT bao gồm: Chuyên gia xây dựng CT (Học viện, Viện KH), các GS dạy đại học, cán bộ chỉ đạo dạy học các cấp, các giáo viên giỏi của các bậc học. Số lượng chuyên gia xây dựng CT khung quốc gia và CT môn học không cần nhiều nhưng cần tinh thông (có kinh nghiệm dạy học, có trình độ chuyên môn giỏi,…). Bên cạnh đó cần có ban tư vấn chương trình bao gồm các chuyên gia môn học (từ các trường ĐH, các khu công nghiệp – kĩ nghệ, tác giả CT, các hội nghề nghiệp) và các GV phổ thông được lựa chọn dựa trên cơ sở giỏi chuyên môn. Cần thành lập nhóm góp ý đa dạng và có trình độ ngày từ đầu khi khởi thảo CT khung và CT môn học. Cần có thời gian ít nhất 18 tháng để xây dựng và góp ý CTGD quốc gia (khung) và khung CT môn học (chuẩn môn học) cấp quốc gia. Cần 6 tháng để triển khai CT địa phương trên nền tảng CT quốc gia. Sau khi có CT môn học cần tiến hành bồi dưỡng GV để họ nắm được tư tưởng đổi mới, định hướng xây dựng CT và định hướng nội dung, PPDH, Kiểm tra – đánh giá…(không cần chờ đến khi có SGK).

2.8.2. Tổ chức thực nghiệm chương trình

Thực nghiệm chương trình là một mảng công việc quan trọng khi xây dựng chương trình. Thực nghiệm thường được coi là một phần của đánh giá CT, mặc dù nó được thực hiện ở giai đoạn đầu tiên của quá trình đổi mới CT.

Thực nghiệm CT là một phần của chiến lược đổi mới vì: i) Ảnh hưởng đến quá trình đổi mới chính sách giáo dục; ii) Xem xét sự phù hợp của CT mới trong các điều kiện thực tế khác nhau; iii) Cung cấp những bằng chứng khoa học để khẳng định tính khả thi của chương trình; iv) Khuyến khích tính sáng tạo và xác định những trở ngại của quá trình đổi mới CT; v) Đạt đến sự thống nhất về đổi mới chính sách, xây dựng mô hình và năng lực thực hiện CT. Thực nghiệm CT cũng có thể được hiểu là một bộ phận của quá trình thiết kế CT.

Về hình thức thực nghiệm, trên thế giới có các mức độ sau:

a) Thực nghiệm toàn bộ CT tổng thể và CT các môn học nhằm xác định tính khả thi và tác động của CT mới một cách hệ thống. Song yêu cầu nội dung thực nghiệm phải toàn diện, mất nhiều thời gian và tốn kém tài chính (không có nhiều nước làm theo cách này).

b) Thực nghiệm CT một số môn học có những đổi mới căn bản nhằm xác định tính khả thi và kết quả đạt mục tiêu của CT những môn học này, tập trung thực nghiệm một số nội dung đổi mới của một số môn học, mô hình giáo dục mới (các nước như Malaysia, Thái Lan, Australia,…làm theo cách này). Thái Lan tuyên bố sẽ thực nghiệm CT mới ở 3000 trường vào 2014. Ở Hàn Quốc, với việc thực hiện chủ trương đưa SGK điện tử vào nhà trường, đã tổ chức thí điểm (thực nghiệm) trong năm 2012 ở 42 trường, năm 2013 thí điểm mở rộng ở 160 trường; Hàn Quốc không thí điểm tất cả mọi cấp, mọi lớp hoặc toàn bộ CT một lớp mà chỉ thí điểm những vấn đề mới và khó; thí điểm ở những vùng /địa phương có khó khăn, thời gian không quá dài, chỉ cần 1 năm và làm ở cả 3 cấp học. Ở Trung Quốc, việc tổ chức thí điểm CTmới tập trung vào các vấn đề/nội dung mới hoàn toàn của CTvà thực hiện ở những địa phương có thể sẽ gặp khó khăn khi thực hiện CT mới, phương thức thực nghiệm là khuyến khích các cơ sở tự nguyện tham gia, đồng thời chia thành các giai đoạn và xác định phạm vi thực nghiệm phù hợp.

Với sự thay đổi mang tính điều chỉnh CT, khi thấy rằng sự đổi mới không làm xáo trộn các phương thức giáo dục, không tạo sự lúng túng lớn cho các trường và không dẫn tới các phản ứng tiêu cực của toàn xã hội thì không cần tổ chức thực nghiệm (nhiều nước chỉ công bố CT được điều chỉnh và triển khai đại trà luôn).

c) Một số cách làm khác:

Nhà nước công bố CT ban đầu, các trường thực hiện theo CT này và có phản hồi đánh giá, đề xuất điều chỉnh (như vậy, giai đoạn này cũng có thể coi là giai đoạn thực nghiệm CT). Căn cứ vào kết quả triển khai CT trong thực tiễn, thu thập các ý kiến phản hồi, nhà nước tổ chức hoàn thiện CT và công bố CT đã được hoàn thiện. Trong quá trình trển khai CT, có thể luôn cập nhật những điểm mới (gọi là phát triển CT).

Ở Pháp, theo các văn bản về qui trình biên soạn CT thì không có bước thí điểm CT mới. Thay vào đó là tham vấn, lấy ý kiến, điều tra GV và các đối tác (các công đoàn GV, phụ huynh học sinh …) trong quá trình biên soạn, với một số tiêu chí chính là: tính khả thi, sự thích hợp với điều kiện triển khai thực tế, với trình độ GV và HS. Nhiều ý tưởng của CT đã được thí điểm trước khi xây dựng CT (thực nghiệm nghiên cứu), ở địa phương, các trường, các nhóm GV.

Quy trình phát triển CTGDPT ở nhiều nước rất chặt chẽ, thận trọng với hệ thống tổ chức nhiều cấp có cơ chế hoạt động độc lập, không chồng chéo, đảm bảo tính khách quan, huy động được nhiều chuyên gia giỏi tham gia. Phát triển CT theo từng bước thận trọng, không làm ồ ạt, đồng loạt. Trong quá trình phát triển CT luôn được rút kinh nghiệm, kịp thời điều chỉnh, bổ sung thông qua việc xin ý kiến của các nhà khoa học, giáo viên, cán bộ quản lý, học sinh và nhân dân. Việc thử nghiệm cũng tập trung vào thử nghiệm CT theo các hình thức: tổ chức hội thảo cấp quốc gia, thử nghiệm những nội dung mới tại các cơ sở GD.

2.9. Tổ chức đánh giá, thi

2.9.1 Xu hướng tổ chức kiểm tra, đánh giá

Xu thế chung là hướng tới đánh giá năng lực người học, giúp người học tiến bộ chứ không chỉ tập trung vào đánh giá để xếp hạng, phân loại HS; chú trọng đánh giá quá trình, giúp HS biết tự đánh giá.

2.9.2 Phương thức thi tốt nghiệp và cấp bằng chứng nhận tốt nghiệp

a) Cấp tiểu học, THCS

Trong thống kê 21 nước của INCA, có 16 nước thực hiện thi cấp chứng chỉ ở cuối THCS. Chỉ có Singapore tổ chức thi ở tiểu học và THCS.

b) Cấp THPT

Hầu hết các quốc gia được tổng quan đều tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia. Thống kê của INCA cho thấy, cả 21 nước được xem xét đều có cấp

bằng tốt nghiệp THPT.

Bằng tốt nghiệp THPT ở Singapore dựa trên cơ sở: Thi lấy chứng chỉ GCEA (General Certificate of Examination, Advance Level), đề thi được điều chỉnh từ đề thi của đại học Cambridge, do trường này chấm; điểm kiểm tra năng lực SAT1; bằng tú tài quốc tế IB (International Baccalaureate).

Bằng tốt nghiệp GCSE ở Anh được tổ chức cấp quốc gia. Bên cạnh đó, HS cũng có thể thi lấy bằng nghề Vocational GCSEs ở 8 lĩnh vực: Hội họa ứng dụng, kinh doanh, cơ khí, y tế, chăm sóc xã hội, công nghệ thông tin ứng dụng, du lịch và giải trí, khoa học ứng dụng, sản xuất. Bằng Vocational GCSEs tương đương với bằng GCSE. HS có thể thi lại để lấy bằng này nếu các kỳ thi trước đó không đạt yêu cầu và được thi nhiều lần. Sau khi có bằng GCSE hoặc Vocational GCSEs HS có thể theo học hệ chuẩn bị đại học (6th form school/college) trong hai năm để lấy chứng chỉ “A levels” hoặc “AS levels”.

Australia tổ chức kì thi tốt nghiệp cấp tiểu bang HSC (Hight school certificate, tùy theo từng tiểu bang). Theo tiêu chuẩn HSC, HS phải thi đủ 12 unit (tín chỉ) theo sự lựa chọn của cá nhân ở lớp 11 và 12. Điểm HSC được tính toán trên cơ sở 3 loại: Điểm thi HSC; điểm trung bình cấp THPT; điểm trong kì thi thử HSC (trial examination) theo đề thi của trường. Ba loại điểm thi có trọng số khác nhau và được phân tích xử lý theo mô hình tuyến tính liên quan đến thành tích nhà trường nơi thí sinh học. Chẳng hạn, một thí sinh có điểm trung bình THPT cao nhưng điểm trung bình của trường em học thấp thì hệ số dành cho loại điểm này sẽ thấp hơn so với thí sinh khác có điểm trung bình THPT cao như thế nhưng lại học ở trường giỏi hơn.

2.9.3. Phương thức tuyển sinh đại học

Hầu hết các hệ thống tuyển sinh đại học của các quốc gia đều sử dụng một số tiêu chí tuyển sinh như: Điểm của một hoặc một vài kỳ thi quan trọng (thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển đầu vào, và thi chuẩn hóa năng lực); kết quả học tập ở trường THPT; hồ sơ dự tuyển (gồm một bài tự luận theo chủ đề do nhà trường đưa ra, thư giới thiệu,…) và các yếu tố nhân thân (nữ, dân tộc thiểu số, vùng khó khăn,…).

Có thể phân chia hệ thống tuyển sinh của các quốc gia thành ba nhóm chính:

Nhóm 1: Dựa hoàn toàn vào kết quả các kỳ thi do quốc gia hoặc tổ chức bên ngoài tổ chức để tuyển vào đại học. Ở nhóm này lại có các cách thức khác nhau: Chỉ dựa vào bằng tốt nghiệp THPT quốc gia (Pháp); Chỉ dựa vào kết quả thi tuyển sinh đại học quốc gia (Trung Quốc); Thi tốt nghiệp THPT quốc gia và

kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa (Singapore, Hàn Quốc);

Nhóm 2: Không chỉ sử dụng kết quả kỳ thi mà còn thêm vào những tiêu chí khác trong xét tuyển như: Dựa vào kết quả tốt nhiệp THPT và xét hồ sơ xin học (Anh), xét kết quả học tập cấp THPT (Australia); Dựa vào kết quả thi tuyển sinh đại học quốc gia và xét học bạ THPT ; dựa vào kết quả thi tuyển sinh đại học theo trường và xét học bạ THPT; Xét kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa và hồ sơ xin học (Hoa Kì, Hàn Quốc); Dựa vào kết quả thi tuyển sinh quốc gia và thi tuyển sinh theo trường (Pháp, hệ thống Grande Ecoles); Thi tuyển sinh quốc gia, thi tuyển sinh theo trường và xét học bạ THPT; Thi tốt nghiệp phổ thông và thi tuyển sinh theo trường (Phần Lan);

Nhóm 3: Không tổ chức thi mà chỉ xét học bạ THPT (Na Uy, Canada, một số trường ở Hàn Quốc), hay xét hồ sơ xin học (một số trường ở Hoa Kỳ).

2.9.4. Đánh giá quốc gia và quốc tế

Ở một số nước. các kì thi cấp bằng tốt nghiệp các cấp được coi là đánh giá quốc gia (Singapore).

Để đảm bảo chất lượng giáo dục, các quốc gia đều tăng cường đánh giá quốc gia ở giáo dục bắt buộc (như SAT1 ở Singapore; SAT ở Anh; SAT và CSAT ở Hàn Quốc; SAT, AIMS và Stanford 10 ở Hoa Kỳ;…) để đánh giá năng lực của HS, chủ yếu tập trung vào năng lực đọc, viết và làm toán.

Ở một số nước, đánh giá quốc gia một lĩnh vực chương trình được thực hiện hàng năm như Anh, Uganda,…, còn những nước khác lại thực hiện định kỳ. Các đánh giá này có thể thực hiện trên tất cả HS như Australia, Anh,…, cũng có thể thực hiện trên mẫu như Hàn Quốc và đều dùng đề kiểm tra viết được chuẩn hóa để đánh giá các năng lực.

Anh thực hiện đánh giá quốc gia ở lớp 2, lớp 6 và lớp 8, với ba môn Toán, Tiếng Anh và Khoa học, trên tất cả HS.

Canada thực hiện đánh giá quốc gia SAIP từ năm 1993, trên mẫu ngẫu nhiên HS lứa tuổi 13 đến 16, với các môn Toán, Đọc, Viết, và Khoa học. Từ năm 2007 thực hiện thêm chương trình đánh giá năng lực mới là PCAP.

Ở Hàn Quốc, SAT được sử dụng hai năm/lần đối với các môn Ngôn ngữ, Toán, Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội, hai năm/lần đối với hai môn Tiếng Anh và Kỹ năng ICT và với khoảng 1% mẫu. CSAT bao gồm các môn học/lĩnh vực Tiếng Hàn Quốc, Tóan, Tiếng Anh, Khoa học xã hội và Khoa học tự nhiên. Các bài thi chủ yếu đánh giá khả năng tư duy bậc cao, khả năng phân tích và hiểu biết rộng trên nhiều lĩnh vực.

Bên cạnh ĐG quốc gia, nhiều quốc gia tham gia vào các kì đánh giá quốc tế (PISA, TIMS, PIRLS,…) và nhờ kết xem xét các kết quả đã điều chỉnh chương trình, chính sách giáo dục của mình. Nhờ đó, một số nước đã nâng cao chất lượng giáo dục quốc gia.

Kinh nghiệm nổi bật của giáo dục Đức hiện nay là kinh nghiệm cải cách giáo dục từ sau “cú sốc PISA” 2000. Kết quả kì khảo sát trình độ HS quốc tế PISA 2000 là một cú sốc cho nước Đức khi HS Đức chỉ xếp loại trung bình và dưới trung bình. Tuy nhiên “cú sốc PISA” đã trở thành một cú hích quan trọng cho nước Đức tiến hành một cuộc cải cách giáo dục tuy không tuyên bố chính thức nhưng thực sự là một cuộc cải cách “căn bản và toàn diện”. Từ sau 2000, Đức là một trong số ít các nước trên thế giới có thành tích PISA liên tục được cải thiện vị trí xếp hạng từ 2003, 2006, 2009 và 2012 trong tất cả các lĩnh vực Toán, khoa học tự nhiên và đọc hiểu. Cần lưu ý rằng việc cải cách giáo dục ở Đức sau 2000 tuyệt nhiên không phải việc đối phó với PISA mà là một cuộc cải cách thực sự toàn diện.

Có thể thấy về phát triển chương trình GDPT, các quốc gia trên thế giới đã có bước phát triển mới về giáo dục phổ thông, đã xích lại gần nhau và có nhiều điểm chung về cách thức phát triển chương trình. Tuy nhiên, xét về mặt hệ thống, khó có thể áp dụng y nguyên ( cho dù đó là những ưu điểm) việc phát triển chương trình của bất kỳ nước vào Việt Nam, vì bối cảnh mỗi nước rất khác nhau. Do vậy, khi tiến hành xây dựng CTGDPT Việt Nam, cần vận dụng một cách sáng tạo, vừa bảo đảm đúng xu thế, vừa phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam.

ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VIỆT NAMTỪ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

Để đổi mới và phát triển giáo dục phổ thông nói chung và CTGD nói riêng các nước thường dựa trên 03 căn cứ chính sau đây:

  • Xu thế quốc tế về đổi mới giáo dục phổ thông
  • Hiện trạng của nền GD nước nhà và bối cảnh đổi mới
  • Yêu cầu của đất nước, dân tộc thông qua các văn kiện của các cấp/ tổ chức lãnh đạo quốc gia.

Vấn đề đổi mới GDPT Việt Nam đã được đặt ra từ Đại hội Đảng CSVN lần thứ XI năm 2011. Sau đó được cụ thể hóa bằng Nghị quyết 29/TW8 ( 2013) mang tên:“Về đổi mới cản bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội hập quốc tế”. Tiếp theo là Nghị quyết 88/2014/QH13 về Đổi mới CT và SGK giáo dục phổ thông của Quốc Hội 13 ( 2014) và Quyết định 404/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ( 2015).

Định hướng chung của việc đổi mới căn bản toàn diện GD-ĐT nói chung cũng như CT và SGK phổ thông nói riêng có thể tóm tắt một số điểm quan trọng sau đây:

  • Mục tiêu: tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2021.

Phấn đấu đến năm 2021, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương.

  • Nhiệm vụ và giải pháp

– Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số; dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài. Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.

– Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.

– Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn. Biên soạn sách giáo khoa, tài liệu hỗ trợ dạy và học phù hợp với từng đối tượng học, chú ý đến học sinh dân tộc thiểu số và học sinh khuyết tật.

– Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.

– Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.

– Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Trước mắt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế giới.

– Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm.

3) Một số định hướng đổi mới cụ thể

3.1. Về cơ cấu hệ thống giáo dục phổ thông

Theo xu thế hiện nay, số năm học GDPT trên thế giới là 12 năm, tuổi nhập học là 6 tuổi, số năm GD Tiểu học là 6 năm, số năm GD THCS là 3 năm, số năm GD THPT là 3 năm. Giai đoạn giáo dục bắt buộc của nhiều nước là 10 năm, trong đó một số nước vẫn giữ là 9 năm. Sau THCS thường phân luồng theo các hướng: THPT, TH nghề – kĩ thuật.

Về cơ cấu hệ thống GDQD, Việt Nam cũng có thể xem xét việc đều chỉnh giai đoạn giáo dục cơ bản là 10 năm và điều chỉnh cấu trúc số năm học của 3 cấp, bên cạnh đó cần coi trọng việc phân luồng sau THCS một cách hợp lí và phân luồng mạnh sau THPT. Tuy nhiên cần quan tâm đến các điều kiện thực tiễn của Việt Nam để đảm bảo tính khả thi khi thực hiện.

Có thể đề xuất các phương án cho hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam cho các giai đoạn trước mắt và tiếp theo như sau:

Trước mắt Hệ thống GDPT đã được Quốc Hội và Chính phủ thông qua là:

  • GD cơ bản 9 năm (gồm GD TH 5 năm; GD THCS 4 năm); GD cơ bản là bắt buộc. Sau THCS có phân luồng hợp lí (theo học nghề hoặc học tiếp THPT).
  • GD THPT 3 năm. Phân luồng mạnh sau THPT (sau THPT, một bộ phận HS sẽ học nghề; Một bộ phận học CĐ học ĐH; Một bộ phận HS đáng kể cũng có thể tham gia lao động sản xuất luôn).

Về lâu dài, có thể điều chỉnh tiếp theo hướng:

  • GD cơ bản 10 năm (gồm GD Tiểu học 6 năm; GD THCS 4 năm); GD cơ bản là bắt buộc. Sau THCS có phân luồng hợp lí (học nghề hoặc học lên THPT).
  • GD THPT 2 năm. Phân luồng mạnh sau THPT (sau THPT, một bộ phận HS sẽ học nghề; một bộ phận học CĐ học ĐH; một bộ phận HS có thể tham gia lao động sản xuất luôn).

3.2. Triết lý và tư tưởng giáo dục

Bốn trụ cột của UNESCO được coi là triết lí GD phổ quát, toàn cầu. Triết lí GD là nền tảng và định hướng tư tưởng cho việc phát triển GD trong 1 bối cảnh lịch sử nhất định. Tư tưởng/triết lí giáo dục nên bao quát các vấn đề về:

– Phát triển cá nhân

– Các yêu cầu về phẩm chất của người công dân trong XH với bối cảnh hội nhập quốc tế, trong đó yêu cầu cao về sự năng động, sáng tạo

– Những nét bản sắc có giá trị của dân tộc Việt Nam.

Tư tưởng/triết lí giáo dục có thể được thể hiện một cách tường minh trong chương trình GD, có thể được phản ánh trong mục tiêu và quan điểm phát triển CT. Cần thấy, triết lí/tư tưởng GD không là khẩu hiệu suông, mà nó phải được quán triệt trong tất cả các việc làm, các giai đoạn, ở các cấu phần trong hệ thống giáo dục, ở mọi nơi, mọi lúc trong một giai đoạn dài.

Việc đổi mới chương trình GDPT Việt Nam lần này cũng đã và đang đặt ra vấn đề triết lý GD. Chúng tôi cho rằng nếu hiểu như trên thì các quan điểm và nguyên tắc đổi mới giáo dục- đào tạo được nêu trong các nghị quyết 29-TW8 của Ban chấp hành Trung ương và NQ 88-QH13 của Quốc hội chính là nội dung tư tưởng, triết lý GD cho việc Đổi mới chương trình và SGK phổ thông giai đoạn tới.

3.3. Cách tiếp cận phát triển CTGDPT

Hiện nay, nhiều QG trên thế giới đã tuyên bố phát triển chương trình theo hướng tiếp cận năng lực. OECD, EU, ATC21S và nhiều QG đã đưa ra khung NL trong đó có một số NL chung được chú ý là: tự học, học cách học; tự chủ, tự quản lí; xã hội, hợp tác; giao tiếp; tư duy; GQVĐ. Các NL cần cho học suốt đời, cho cuộc sống hàng ngày, thể hiện phẩm chất công dân được coi trọng. NL chung được thể hiện trong các lĩnh vực/môn học. Bên cạnh NL chung, một số nước xác định các năng lực theo đặc thù của từng lĩnh vực/môn học (CT Québec gọi là Subject – specific competencies để phân biệt với năng lực xuyên CT – năng lực chung).

Chương trình GDPT tổng thể của Việt Nam sẽ quy định hệ thống phẩm chất và các NL chung nhằm hình thành và phát triển cho HSPT toàn quốc

Mỗi phẩm chất và năng lực cần được mô tả cụ thể: từ quan niệm, các thành tố cơ bản, yêu cầu/mức độ cần đạt trong các giai đoạn học tập.

3.4. Về mục tiêu, chuẩn và nội dung, phương pháp dạy học

Chương trình GDPT mới của Việt Nam cần chú ý đến việc xác định mục tiêu và chuẩn theo định hướng sau:

3.4.1) Về mục tiêu giáo dục phổ thông Việt Nam

  • Mục tiêu được xác định theo hướng hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực
  • Khi xác định mục tiêu của GDPT cần tập trung khẳng định yêu cầu về sự phát triển hài hòa giữa:

+ Con người cá nhân và con người xã hội

+ Con người truyền thống và con người hiện đại

+ Con người Việt Nam và công dân toàn cầu

+ Đạo đức, trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ (Đức, Trí, Thể, Mỹ)

3.4.2) Về xác định chuẩn các môn học

Khi xây dựng Chuẩn các môn học cần chú ý:

+ Xác định các thành tố của Năng lực cần đạt của môn học

+ Thiết lập các chỉ số biểu hiện năng lực và phát biểu Chuẩn dưới dạng các yêu cầu về năng lực với các động từ chính như: nói được ( Say), làm được ( Do), tạo ra được ( Make), viết được (Write),

+ Phân chia các chỉ số thành các cấp độ, thiết lập đường phát triển năng lực và mô tả cấc cấp độ năng lực

+ Các mức độ cần đạt của Chuẩn môn học cần rõ ràng, cụ thể và đo lường được và cần được thử nghiệm, đo trên thực tế để xác định mức chuẩn cho phù hợp.

+ Trong quá trình thử nghiệm và điều chỉnh chuẩn cần có các bài làm của HS để minh họa cho các mức chuẩn.

  • Về nội dung và PPDH

Đồng thời với việc xác định mục tiêu và chuẩn, cần chú ý đến các yêu cầu về nội dung và phương pháp dạy học nhằm hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực học sinh.

– Nội dung dạy học cần thiết kế theo hướng :

+ Lựa chọn những nội dung thật cơ bản, thiết thực liên quan nhiều đến các tình huống trong thực tiễn cuộc sống và phù hợp với yêu cầu của các giai đoạn GD khác nhau ( GD cơ bản và GD định hướng nghề nghiệp )

+ Không sa đà và lệ thuộc nhiều vào hệ thống lý thuyết của khoa học tương ứng với các môn học nhằm giảm thiểu những tri thức kinh viện, quá chuyên sâu, khó hiểu, chưa hoặc không cần thiết với HS phổ thông các cấp.

+ Chú ý các nội dung liên quan nhiều giữa các môn học trong một lĩnh vực để thực hiện tốt dạy học tích hợp và hình thành các chủ đề liên môn, tránh trùng lặp nội dung giữa các môn học. lĩnh vực.

+ Các nội dung phân hóa ( nhất là ở THPT) cần đủ độ sâu để thể hiện rõ yêu cầu gắn với định hướng nghề nghiệp.

– Đổi mới phương pháp theo hướng:

+ Vận dụng tất cả các phương pháp, kĩ thuật và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt mục tiêu , yêu cầu của chương trình và có hiệu quả cao

+ Tập trung vào các phương pháp, kĩ thuật và hình thức tổ chức học tập có ưu thế trong việc hình thành và phát triển năng lực người học như: Dạy học theo nhóm; dạy học giải quyết vấn đề; dạy học theo dự án, …

+ Chú ý hình thành phương pháp học và tự học: tự tìm kiếm, thu thập , mô tả , xử lý thông tin và tự rút kết luận; trao đổi, đối chiếu, so sánh kết quả của mình với bạn bè và các nguồn thông tin khác để khẳng định hoặc điều chỉnh, xem xét lại kết quả của mình…

3.5. Tích hợp trong xây dựng chương trình

Từ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn phát triển CTGDPT của Việt Nam, trước hết, trong giai đoạn đầu thực hiện tích hợp theo yêu cầu sau:

– Với từng môn, quán triệt tính hợp trong nội bộ môn học, tăng cường các bài tập yêu cầu tích hợp các kiến thức và kĩ năng từ nhiều nội dung bài học, chương, phần khác nhau.

– Tích hợp các nội dung dạy học ở một số môn/ lĩnh vực thành môn học mới như: Tích hợp nội dung các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học, khoa học trái đất … thành nội dung môn Khoa học tự nhiên (science) theo hướng: Cấu trúc nội dung môn học này vẫn bao gồm các mạch kiến thức của vật lí, hoá học, sinh học nhưng ưu tiên lựa chọn các nội dung có liên quan với nhau, soi sáng cho nhau…và đặc biệt có tác dụng cao trong việc hình thành và phát triển năng lực ( NL chung và NL chuyên biệt). Bên cạnh đó xây dựng các chủ đề tích hợp liên môn.

Về lâu dài nên xây dựng nội dung tích hợp theo xu hướng các nước phát triển, đó là cấu trúc nội dung môn Khoa học (Science) thông qua hệ thống các chủ đề tích hợp như: Vật chất, năng lượng, khoa học về sự sống, khoa học trái đất, môi trường, … xuyên suốt các lớp.

– Có thể tích hợp Lịch sử và địa lí và môt số nội dung khác thành môn Xã hội. Cấu trúc nội dung tương tự như cấu trúc môn Khoa học.

Tuy nhiên, trong bối cảnh nhà trường Việt Nam cần tính đến những khó khăn khi tổ chức dạy học tích hợp. Khó khăn lớn nhất là chuẩn bị đào tạo và bồi dưỡng GV ở THCS và THPT để dạy môn tích hợp. Với giai đoạn đầu, khi vẫn chấp nhận các mạch nội dung kiến thức theo từng môn “truyền thống” thì mỗi trường THCS chỉ cần lựa chọn và bồi dưỡng một số GV về nội dung và phương pháp dạy học các chủ đề này.

Về lâu dài, cần có chiến lược đào tạo GV có thể dạy được các môn tích hợp. Việc đó đòi hỏi có Chương trình đào tạo mới ở các cơ sở đào tạo GV THCS.

3.6. Tổ chức dạy học phân hoá (vĩ mô)

Các nước đều thực hiện phân hoá ở TH và THCS bằng các môn/chuyên đề/HĐ tự chọn; đồng thời thực hiện phân luồng sau THCS. Ở THPT có hai hình thức phân hoá là phân ban và tự chọn, trong đó hình thức phân hoá bằng tự chọn

đang được nhiều nước triển khai.

Việt Nam cần thực hiện dạy học phân hoá bằng phương thức tự chọn trong CT GDPT mới theo hướng :

– Ở tiểu học có các hoạt động tự chọn, chủ đề tự chọn theo hình thức ngoại khóa, câu lạc bộ, hoạt động trải nghiệm,…

– Ở THCS ngoài chủ đề, hoạt động tự chọn như tiểu học có thêm các môn học tự chọn

– Ở THPT: Tổ chức dạy học tự chọn theo phương án:

+ Lớp 10 là lớp dự hướng nghề nghiệp, giúp học sinh tiếp tục phát triển các phẩm chất và năng lực đã có ở giai đoạn giáo dục cơ bản và được học tập, khám phá các môn học riêng biệt, làm tiền đề cho việc lựa chọn môn học ở lớp 11 và lớp 12 theo định hướng nghề nghiệp.

+ Lớp 11 và lớp 12, HS được tự chọn hoàn toàn với một số ( dự kiến 5 môn) theo quy định và phù hợp với ở thích, định hướng nghề nghiệp của các em sau THPT.

Có thể hình dung những khó khăn nảy sinh khi tổ chức dạy học phân hóa theo tự chọn ở THPT:

Việc tổ chức dạy học tự chọn là thách thức với quản lí, đặc biệt là quản lí nhà trường, do vậy, bồi dưỡng năng lực cán bộ quản lí là cần thiết.

Trong dạy học tự chọn theo định hướng nghề nghiệp, công tác hướng nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng. Hướng nghiệp trong giáo dục là hệ thống các biện pháp tiến hành trong và ngoài nhà trường để giúp HS có kiến thức về nghề nghiệp và có khả năng lựa chọn nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội.

Khi tổ chức dạy học tự chọn, có thể sẽ có những biến động về nhu cầu sử dụng đội ngũ GV do số lượng HS lựa chọn môn học khác nhau sẽ khác nhau.

Mặt khác, một số môn HS chọn ít, chẳng hạn: Lịch sử, Địa lí, Sinh học; trong trường hợp này có thể điều chuyển GV sang dạy các môn mới (Môi trường, Xã hội học, Tâm lí học,…). Bên cạnh đó, việc có thêm một số môn mới (Kinh doanh, Xã hội học, Tâm lí học, Môi trường, các môn tự chọn về nghệ thuật, thể thao,…) cũng là một thách thức đối với việc xây dựng chương trình và đào tạo đội ngũ GV trong giai đoạn trước mắt.

Về cơ sở vật chất, cũng sẽ là khó khăn khi HS không học theo lớp mà theo phòng học bộ môn, số phòng học sẽ tăng.

Để giải quyết các khó khăn nêu trên cần chú ý một số vấn đề sau:

Tổ chức thử nghiệm mô hình tự chọn ở THPT khoảng 1 năm trên một số

trường mang đặc thù khác nhau (thành thị, nông thôn, vùng núi, vùng xa, vùng sâu, vùng đồng bằng, trung du, vùng ven biển,..). Từ đó xác định được những hoạt động cơ bản của một trường THPT theo mô hình tự chọn. Có được một hướng dẫn cụ thể cho cán bộ QL và GV các trường THPT về phương thức dạy học tự chọn.

Cần có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ quản lí về các thức tổ chức mô hình dạy học tự chọn ở THPT (cách thức xác định các lớp học, nhóm học tập theonguyenj vọng HS, cách thức huy động bố trí phòng học, huy động GV, xây dựng thời khóa biểu, quản lí hồ sơ học tập,…).

Về tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho HS: Mục đích chủ yếu của công tác hướng nghiệp là Phát hiện, bồi dưỡng tiềm năng sáng tạo của cá nhân, giúp họ hiểu mình và hiểu yêu cầu của nghề, chuẩn bị cho thanh niên sự sẵn sàng tâm lý đi vào những nghề mà các thành phần kinh tế trong xã hội đang cần nhân lực, trên cơ sở đó đảm bảo sự phù hợp nghề cho mỗi cá nhân

Hiệu quả thực hiện công tác hướng nghiệp tùy thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức, quản lí của từng trường phổ thông. Để làm được điều này, mỗi trường cần có Ban chỉ đạo công tác hướng nghiệp, giúp Hiệu trưởng nhà trường thực hiện các chức năng: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra, giám sát đối với công tác hướng nghiệp.

HS cũng phải được cung cấp thông tin về hệ thống đào tạo nghề ở các trường ĐH, CĐ, trường nghề, về đội ngũ giảng viên, về cơ sở vật chất, yêu cầu về học phí, về đầu vào khi tuyển sinh, … để có thể lựa chọn trường theo học sau THPT một cách phù hợp.

Về GV: Với các chủ đề tự chọn, sẽ huy động các GV dạy các môn tương ứng đảm nhiệm. Trường hợp các chủ đề khá xa với các môn học bắt buộc và tự chọn thì cần bồi dưỡng GV, huy động các chuyên gia có chuyên môn tương ứng đảm nhiệm các giờ dạy chủ đề này.

Về cơ sở vật chất: Theo kinh nghiệm quốc tế, nếu HS đăng kí từ 15 đến 20 HS thì mới thành lập lớp. Nếu HS không chọn đủ thì có các phương án:

+ Thỏa thuận lại với HS để lựa chọn theo cách khác.

+ Liên kết các trường để HS có thể học môn này ở trường khác và lấy kết quả về. Theo kinh nghiệm của trường THPT Thực nghiệm, nếu tổ chức học tự chọn theo lớp có 25 em thì không tăng số phòng học.

Riêng với các một số môn học đặc thù (chẳng hạn Nhạc, Họa, Thể dục – Thể thao) thực tế không phải trường nào cũng phải dạy và dạy được các môn này. Trong một vùng chỉ cần có 1 trường đủ điều kiện dạy môn học đó (kèm theo CSVC tương ứng). Những HS theo môn TC này thường là những HS đã TC môn đó ở THCS và bộc lộ năng khiếu rõ ràng.

3.7. Về việc biên soạn, thẩm định, xuất bản, phát hành và lựa chọn, cung ứng sách giáo khoa

Nghị quyết 88 của Quốc hội và Quyết định 44 của Chính phủ về Đổi mới CT và SGK phổ thông đã yêu cầu thực hiện chủ trương “một chương trình, nhiều sách giáo khoa”. Nhà nước ban hành CT giáo dục (bao gồm cả chuẩn đầu ra), công bố tiêu chí SGK. Các tổ chức và tư nhân (thông thường là các nhà xuất bản, các hội, liên hiệp hội,…) tham gia viết SGK và các tài liệu học tập khác. Nhà nước tổ chức thẩm định và cho phép SGK nào đảm bảo chất lượng và cho phép được sử dụng. GV và các trường phối hợp với phụ huynh HS sẽ căn cứ vào chất lượng từng cuốn SGK và nhu cầu của HS mà chọn sử dụng SGK phù hợp.

Có thể hình dung những khó khăn có thể nảy sinh trong việc thực hiện chủ trương này. Trên thực tế, sẽ có những cuốn SGK được ít nhà xuất bản, nhóm tác giả đăng kí viết (lí do có thể là nội dung khó viết, khả năng số lượng xuất bản không nhiều); đồng thời có những cuốn SGK lại có nhiều nhà xuất bản, tác giả muốn viết. Có thể nảy sinh tiêu cực trong quá trình vận động để được tham gia viết SGK, để được Hội đồng thẩm định đánh giá tốt, vận động để được nhiều trường mua sách của mình.

Mặt khác, nếu không giám sát tốt, Nhà nước có thể không chủ động được trong việc đảm bảo đủ SGK cho HS học tập. Chính vì thế để chủ động triển khai đổi mới đúng tiến độ, Quốc hội và Chính phủ đã giao cho Bộ GD&ĐT tổ chức 01 bộ SGK hoàn chỉnh; đồng thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn SGK.

Để phòng ngừa những khó khăn có thể xảy ra này, cũng có thể triển khai theo lộ trình từng bước:

Sau khi công bố về CT mới, Nhà nước cần quản lí, tổ chức việc đăng kí viết SGK của các NXB và nhóm tác giả (công bố tiêu chí) tổ chức thẩm định hồ sơ đăng kí của NXB và nhóm tác giả, lựa chọn một số lượng nhất định cuốn SGK cần viết cho mỗi môn học ở từng lớp (chẳng hạn, thời gian đầu không nên quá 4 bộ SGK khác nhau, mỗi NXB viết không quá 1 bộ SGK).

Căn cứ vào kết quả đăng kí, xét chọn NXB và nhóm tác giả tham gia viết từng SGK, nhà nước sẽ đảm nhiệm tổ chức (hoặc chỉ định NXB nào đó) viết những cuốn SGK cần thiết cho HS nhưng chưa được các NXB và nhóm tác giả lựa chọn.

Giám sát, đôn đốc quá trình viết SGK và có đánh giá thường xuyên chất lượng SGK trong quá trình biên soạn (từ việc xem xét đánh giá đề cương chi tiết đến việc xem xét đánh giá từng chương, chất lượng thử nghiệm những nội dung của SGK,..).

Tổ chức thẩm định và đánh giá khách quan chất lượng các cuốn SGK để cho phép ban hành những SGK đạt chuẩn nhất định.

Có các biện pháp ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực có thể nảy sinh (như NXB có tác động tiêu cực tới hội đồng thẩm định, tới các trường hoặc các nhóm tác giả công kích lẫn nhau,..).

3. 8. Về quy trình xây dựng chương trình

Việc xây dựng CT GDPT của các nước khá thống nhất theo một quy trình chung. Mặc dù quy trình xây dựng CT GDPT của Việt Nam đã phù hợp xu thế chung của thế giới, tuy vậy, có thể tiếp tục hoàn thiện để đảm bảo tính khoa học và theo các điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Bài học với Việt Nam là: Cần quan tâm đến tính khả thi và sự quản lý, giám sát, đánh giá trong giai đoạn thực hiện CT và việc biên soạn, thẩm định SGK cần mang tính chuyên nghiệp hơn…

3.9. Tổ chức đánh giá, thi

Xu thế chung là ĐG dựa theo NL theo một quy trình khá bài bản. Việc

tuyển sinh đầu cấp thực hiện theo hình thức xét và thi tuyển. Nhiều nước không tổ chức thi ở giai đoạn GD bắt buộc; nhiều nước tổ chức thi tốt nghiệp THPT QG. Việc tuyển sinh ĐH được căn cứ trên KQ thi/xét tốt nghiệp, kết quả tuyển sinh ĐH theo hướng chuẩn hóa NL. Vấn đề đánh giá quốc gia có thể được tổ chức ở giai đoạn GD bắt buộc; có ĐG hàng năm, ĐG định kì.

Trong CT GDPT của Việt Nam sau 2015, vấn đề đánh giá hết cấp học ở Tiểu học và THCS có thể vẫn như hiện nay.

Về đánh giá tốt nghiệp trung học PT, có thể có những cách đánh giá sau:

Cách tích lũy các “tín chỉ”: HS sẽ đảm bảo học và đạt yêu cầu một số lượng môn học nhất định và sẽ được cấp bằng tốt nghiệp. Việc tuyển sinh đại học căn cứ vào kết quả học các môn ở THPT và kết quả đánh giá riêng các năng lực phù hợp với từng trường đại học.

Tổ chức thi tốt nghiệp cấp bằng nhưng giao quyền tổ chức thi và cấp bằng TN về cho các địa phương; thi một số bắt buộc và tự chọn. Điểm tổng kết cuối năm của các môn khác và chủ đề tự chọn được coi là điều kiện cần để cho thi tốt nghiệp.

Theo đó, việc tuyển sinh đại học giao cho các trường đại học thực hiện theo hướng tự chủ.

Như vậy, việc tổ chức học phân hóa ở THPT sẽ đồng bộ với việc tổ chức tuyển sinh đại học, cao đẳng hoặc các trường nghề sau THPT.

3.10. Thử nghiệm chương trình

Tham khảo kinh nghiệm quốc tế, khi xây dựng và triển khai CTGDPT của Việt Nam, hoạt động thí điểm những điểm mới của CT cần được quan tâm. Tuy nhiên, do mức độ đổi mới, nội dung đổi mới và trọng tâm đổi mới ở các cấp học trong giai đoạn tới sẽ khác nhau. Vì thế cách thức tổ chức thí điểm ở từng cấp cũng sẽ khác nhau.

Khi lập kế hoạch thí điểm cần xác định mục tiêu, nội dung, phương thức thí điểm phù hợp từng cấp học. Với mỗi cấp học khác nhau thì sẽ có cách thực hiện thí điểm khác nhau.

Với cấp Tiểu học, do chu kì trước đã thực hiện quan điểm tích hợp khá thành công, GV đã quen với dạy những nội dung tích hợp rồi, việc thí điểm không cần ở quy mô lớn mà ở giới hạn trong phạm vi nhỏ. Tập trung thí điểm những nội dung mới như “Cuộc sống quanh ta”, “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo”.

Với cấp THCS, việc thí điểm cần kĩ hơn ở Tiểu học, do xuất hiện môn tích hợp mới, GV chỉ quen dạy từng môn học riêng lẻ; Vì vậy cần tập trung thí điểm về dạy học môn tích hợp mới, về việc bồi dưỡng GV để đảm đương được các môn tích hợp.

Ở THPT thì cái mới khá nhiều gồm cả nội dung, phương pháp và cả mô hình tổ chức dạy học (theo phương thức tự chọn). Do vậy, cần tổ chức thí điểm kĩ ở THPT, thời gian thí điểm ở THPT có thể dài hơn. Với THPT có thể theo kinh nghiệm của Trung Quốc: mới đầu thí điểm ở một số trường THPT (đại diện cho các vùng, miền, đại diện cho vùng kinh tế văn hóa). Sau đó có thể mở rộng diện thí điểm và cho phép triển khai đại trà. Trong quá trình trển khai CT, có thể luôn cập nhật những điểm mới để có sự điều chỉnh kịp thời.

Cần thực hiện thử nghiệm cả CT và SGK; thử nghiệm CT chủ yếu là thử nghiệm đo các mức độ yêu cầu cần đạt (chuẩn môn học) của mỗi môn học theo từng giai đoạn (cấp hoặc lớp); thử nghiệm để điều chỉnh và xác định mức chuẩn cho phù hợp giữa yêu cầu và thực tiễn HS của HS ở các vùng miền khác nhau. Việc thử nghiệm của SGK do các tác giả sách tự thực hiện với sự hỗ trợ về pháp lý của Bộ GD-ĐT.

III. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THẢO LUẬN

1) Kinh nghiệm phát triển CTGDPT của một số nước đã được đề cập trên những bình diện cơ bản nào?

2) Từ việc hiểu vai trò của GDPT, hãy xác định vai trò của GD Tiểu học.

3) Chương trình tiếp cận theo năng lực khác và giống CT tiếp cận nội dung như thế nào?

4) Anh/ chị hiểu thế nào là triết lý giáo dục? Thử nêu một số triết lý GD mà anh chị thấy tâm đắc và phù hợp với GDPT Việt Nam hiện nay.

5) Tại sao phải thay đổi Chương trình và SGK?

6) Mục tiêu CTGD là gì? Theo anh/chị những nội dung chính của Mục tiêu GD cấp Tiểu học cần hướng tới là gì?

7) Anh/ chị hiểu Chuẩn chương trình ( kết quả học tập) là gì? Chuẩn kết quả dựa trên năng lực có gì giống và khác chuẩn dựa vào nội dung?

8) Xu thế tích hợp và phân hoá thể hiện trong CT một số nước trên thế giới và đề xuất của anh/chị đối với cấp Tiểu học Việt Nam;

9) Phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo năng lực có gì khác với CT tiếp cận nội dung?

10) Những điểm có thể kế thừa về phát triển CTGDPT khi vận dụng trong điều kiện của VN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • An International Comparative Study of School Curriculum – NIER 1999.
  • Bộ GD và ĐT ( 2015)- Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và triển khai CTGDPT– Nhiệm vụ cấp thiết cấp Bộ 2014- Mã số B2014-37-05 NV ( chủ nhiện ĐT: Nguyễn Thị Hồng Vân)
  • Bộ Giáo dục và Đào tạo(2014). Đề án Đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau 2015 (Dự thảo).
  • Ban Chỉ đạo Đổi mới CT, SGK GDPT sau 2015 – Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012). Kỉ yếu HT Chuyên đề Xác định các năng lực chung, cốt lõi trong CTGDPT sau 2015.
  • Báo cáo tổng kếtĐề tài Phát triển chương trình GDPT theo định hướng phát triển năng lực người học (2011) – Đề tài cấp Bộ, mã số B 2008 – 37 – 52 TĐ. (chủ nhiệm ĐT: Lương Việt Thái)
  • Basic Education Revisited: A Look at the Current content and Reform,Winston Hodge Director, Training and development Division, Ministry of Education Singapore.
  • Chương trìnhcủa hệ thống IB
  • Chương trìnhgiáo dục phổ thông của một số nước (Canada, Úc, Singapore,…).
  • California State Board of Education Policy , Guidelines for Piloting Textbooks and Instructional Materials.
  • Đỗ Ngọc Thống (2011)- Xây dựng chương trình GDPT theo hướng tiếp cận năng lực – Tạp chi KHGD số 68.
  • Đỗ Ngọc Thống (chủ nhiệm đề tài) (2007). Xây dựng mục tiêu GDPT Việt Nam cho nhà trường VN giai đoạn 2015-2020 – Đề tài cấp Bộ, mã số B2005-80-25.
  • Education in Finland(Finnish National Board of Education, 2009)
  • Educational Studies, Universiti Sains Malaysia, Semina Preparing primary teachers in Malaysia and Vietnam.
  • European commission (2010). Organisation of the education system in Germany. Information on Education Systems and Policies in Europe.
  • European commission (2011). National system overview on education systems in Europe and ongoing reforms. Information on Education Systems and Policies in Europe.
  • Hazri Lamil, 2011, Primary Education and Teacher Professional Development in Malaysia School
  • INCA- htttp://inca.org.uk
  • KICE- http://eng.kice.kr
  • Kinh nghiệm quốc tế về phát triển CT GDPT – NXB ĐHQG Hà Nội – GS.TS. Nguyễn Lộc – PGS.TS. Vũ Quốc Chung (Đồng Chủ biên)
  • Ministry of Education Malaysia, 2003 Sience primary syllasbus.
  • Ministry of Education Malaysia, 2003, Sience secondary syllasbus.
  • Ministry of education: Primary school education
  • Ministry of education: Science Syllabus Lower secondary express/nomal (academic), 2013
  • OECD (2001). Knowledge and skills for life: first results from PISA 2000. OECD Publishing, Paris, France.
  • The education system in the Feferal Republic of Germany 2011/2012, Secretariat of the Standing Conference of the Minister of Education and Cultural Affairs of the Bang in the Federal Republic of Germany, 2013.
  • TrầnHậu, Nước Nga công bố Dự thảo chuẩn giáo dục trung học phổ thông, Báo Giáo dục và Thời đại số đặc biệt cuối tháng 2/2011.
  • Trần Hậu, Tiến trình Bologna, nước Nga và toàn cầu hoá, Báo Giáo dục & Thời đại số đặc biệt tháng 4/2011.
  • UNESCO(2005), Phát triển chương trình giáo dục. Module 7 Piloting and Innovation
  • Finnish National Board of Education. Chương trình quốc gia cho giáo dục cơ sở của Phần Lan, 2004.
  • Finnish National Board of Education. Chương trình quốc gia cho giáo dục trung học phổ thông của Phần Lan,
  • Федеральный государственный образовательный стандарт среднего (полного) общего образования (Министерство образования и науки Российской Федерации – ПРОЕКТ , 2011 года)
  • Фундаментальное ядро содержания общего образования – PAO, Москва, 2009г.
  • Примерная основная образовательная программа начального общего образования, 2010г.
  • education.gov.uk (Review of the National Curriculum in England – DFE report . The Framework for the National Curriculum A report by the Expert Panel for the National Curriculum review và các bản report khác)

Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên Tiểu học hạng II

3. Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên tiểu học hạng 2 mẫu 3

I. PHẦN MỞ ĐẦU

Qua quá trình tập huấn được học tập và nghiên cứu cũng như sự hướng dẫn, truyền đạt của các thầy, cô giáo phụ trách giảng dạy Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học ở hạng II, tôi nắm bắt được các nội dung như sau:

Nắm bắt xu hướng phát triển của giáo dục, tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, các mô hình trường học mới. Những mặt được và mặt hạn chế của các mô hình trường học đó. Vận dụng sáng tạo và đánh giá được việc vận dụng những kiến thức về giáo dục học và tâm sinh lý lứa tuổi vào thực tiễn giáo dục học sinh tiểu học của bản thân và đồng nghiệp. Chủ động, tích cực phối họp với đồng nghiệp, cha mẹ học sinh và cộng đồng để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh tiểu học.
Nắm vững và vận dụng tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương về giáo dục tiểu học; chủ động tuyên truyền và vận động đồng nghiệp cùng thực hiện tốt chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng. Hiểu rõ chương trình và kế hoạch giáo dục tiểu học; hướng dẫn được đồng nghiệp cùng thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục tiểu học.

II. HIỆN TRẠNG GIÁO DỤC TIỂU HỌC, GIÁO DỤC PHỔ THÔNG, ĐIỂM MẠNH, ĐIỂM YẾU, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC (SWOT)

1. Bảng liệt kê SWOT

Điểm mạnh

Điểm yếu

– Có đủ số lượng CBQL ở các trường

– Có đủ cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học.

– Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục

– Đảm bảo chất lượng tối thiểu

– Còn học sinh lưu ban

– Việc tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên chưa thương xuyên.

– Tỉ lệ giáo viên/ lớp chưa đạt yêu cầu (1, 5GV/L).

– Tự đánh giá chất lượng giáo dục ở cơ sở và việc lưu giữ minh chứng trong hoạt động tự đánh giá chưa tốt.

Cơ hội

Thách thức

– Có nhiều dự án đầu tư cho giáo dục (Huyện miền núi).

– Được các cấp lãnh đạo địa phương quan tâm nhiều đến giáo dục.

– Với yêu cầu: Đổi mới căn bản và toàn diện trong giáo dục (NQ29) đòi hỏi các thầy cô cần nỗ lực tự học nâng cao trình độ chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của giáo dục.

2: Ma trận SWOT

Điểm mạnh

Điểm yếu

Cơ hội

– Việc quản lí, chỉ đạo nâng cao chất lượng có nhiều thuận lợi.

– Có thể tổ chức nhiều hoạt động gáo dục trong nhà trường.

– Tận dụng tốt các nguồn lực trong xã hội.

– Giữ vững và nâng cao các tiêu chí của trường chuẩn quốc gia.

– Phối hợp với các lực lượng giáo dục (gia đình, xã hội) nhằm giảm tỉ lện học sinh lưu ban.

– Tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.

– Tham mưu với các cấp có thẩm quyền tuyển dụng, điều động đủ tỉ lệ giáo (1, 5 GV/L).

– Thường xuyên tổ chức tập huấn cho giáo viên kỹ năng tự đánh giá và lưu giữ minh chứng.

Thách thức

– CBQL cần thương xuyên học tập nâng cao trình độ quản lí.

– Thường xuyên nâng cấp, tu sửa cơ sở vật chất, bổ sung thiết bị dạy học.

– Tuyên truyền, vận động các tổ chức xã hội, doanh nghiệp tham gia vào quá trình giáo dục.

– Đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.

-Áp dụng các biện pháp giáo dục đối với học sinh yếu.

– Cử giáo viên tham gia các lớp tập huấn, nâng cao trình độ.

– Phân công giáo viên giảng dạy phù hợp với điều kiện nhà trường.

– Phân công giáo viên trực tiếp thu thập minh chứng và lưu giữ minh chứng, đánh giá chất lượng theo từng tiêu chuẩn.

Từ những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đó đòi hỏi phải có sự đổi mới cho phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.

III. XU HƯỚNG QUỐC TẾ VÀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

1. Vai trò của giáo dục

Đã từ lâu Đảng và nhà nước ta đã coi giáo dục là quốc sách hàng đầu là bệ phóng cho sự phát triển của đất nước. Giáo dục có một vị trí và tầm quan trọng hết sức to lớn đối với nền kinh tế quốc dân, nhất là trong giai đoạn các quốc gia cần nhiều lực lượng lao động có chất lượng cao, phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa. GS Võ Tòng Xuân đã nhận xét :” Trong một nền kinh tế toàn cầu của thị trường tự do cạnh tranh mãnh liệt, một lực lượng lao động được đào tạo ở trình độ chất lượng cao là yếu tố sống còn của một nền kinh tế quốc gia để thu hút đầu tư nước ngoài vào tạo nên việc làm và của cải cho đất nước. Vì thế chất lượng giáo dục phổ thông bắt đầu từ Tiểu học ngày càng được công nhận là cơ sở quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế và được coi như công cụ để đạt được những mục tiêu phát triển khác. Các tổ chức phát triển quốc tế đã và đang tài trợ mạnh cho giáo dục phổ thông tại các nước nghèo chậm tiến vì họ công nhận hai vai trò của giáo dục : vừa là yếu tố nhằm tăng trưởng kinh tế, vừa là yếu tố giúp giảm đói nghèo”.

2. Xu hướng quốc tế về đổi mới và phát triển chương trình giáo dục phổ thông

Trong đổi mới GDPT, vấn đề đổi mới chương trình luôn là tâm điểm, nó chi phối và có tác động to lớn đến nhiều yếu tố khác của toàn hệ thống GDPT. Chương trình GD được hiểu đầy đủ nhất bao gồm các thành tố : Mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra kết quả học tập.

Một số vấn đề cơ bản về CTGDPT:

– Mục tiêu GD; giới thiệu mục tiêu chung và mục tiêu từng cấp học.

– Chuẩn ; Cấu trúc của chuẩn, cách biểu đạt chuẩn

– Cấu trúc khung; các lĩnh vực môn học ; các mạch nội dung lớn

– Xu thế tích hợp và phân hóa ; tích hợp chủ yếu là tích hợp ở các môn khoa học tự nhiên và tích hợp ở các môn khoa học xã hội. đối với dạy học phân hóa đó là một xu thế tất yếu của thế giới cũng như của Việt Nam. phân hóa được thực hiện qua 2 hình thức phân ban và tự chọn. Đối với dạy học phân ban học sinh có thể học theo môn, theo cùng một lĩnh vực, nhóm môn, ngành. Đối với dạy học phân ban có một khoảng thời gian chúng ta bàn luận rất nhiều nên giữ hay bỏ trường chuyên, lớp chọn. và rồi chúng ta đã bỏ loại hình trường này. Đối với dạy học tự chọn là HS được chọn học một số môn học, nhóm môn học được đưa ra. trong dạy học tự chọn lại có thể có các hình thức tự chọn khác nhau:

– Hình thức tín chỉ ; HS được chọn các môn học hoặc modul thuộc các môn sao cho đủ số tín chỉ quy định.

– Chọn các môn thuộc các lĩnh vực khác nhau.

– Chọn các môn học tùy ý theo danh sách các môn học được đưa ra.

– Học một số môn học bắt buộc và một số môn tự chọn.

Tổ chức dạy phân hóa đặc biệt ở cấp PT hình thức phân ban chỉ được một số ít quốc gia áp dụng, trong khi hình thức tự chọn là xu thế phổ biến hơn. Dạy học phân hóa được thực hiện theo nguyên tắc phân hóa sâu dần. Cụ thể ở cấp Tiểu học thường quy định HS học các môn học bắt buộc, đồng thời có một số hoạt động, chủ đề tự chọn, các hoạt động, chủ đề tự chọn này tích hợp các kĩ năng, kiến thức của các môn học bắt buộc. Ở cấp THCS học sinh học các môn học bắt buộc, đồng thời có một số môn chủ đề tự chọn nhiều hơn cấp Tiểu học. Ở cấp THPT được phân hóa sâu hơn, nhằm tới việc đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng, xu hướng nghề nghiệp của từng học sinh. Phân luồng trong giáo dục cũng là một hình thức phân hóa. Đa số phân luồng sau THCS và sau THPT một bộ phận đáng kể học sinh theo học các trường nghề một số tiếp tục học lên cấp học cao hơn.

Chính vì vậy đổi mới căn bản toàn diện giáo dục là tất yếu và hợp với xu thế phát triển của thế giới.

IV. ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC

1. Cơ sở pháp lí của việc đổi mới

Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Nghị định số 404/QĐ -TTg ngày 27 tháng 3 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê chuẩn Đề án đổi mới Chương trình, SGK giáo dục phổ thông.

2. Cơ sở thực tiễn

Thế giới thay đổi rất nhanh, có nhiều thành tựu mới của khoa học giáo dục cần bổ xung kịp thời vào chương trình giáo dục.

Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành có những hạn chế, bất cập chính sau đây:

– Chương trình nặng về truyền đạt kiến thức, chưa đáp ứng tốt yêu cầu về hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh vẫn nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy người, chưa coi trọng hướng nghiệp.

– Giáo dục tích hợp và phân hóa chưa thực hiện đúng và đủ; các môn học được thiết kế chủ yếu theo kiến thức các lĩnh vực khoa học, chưa thật sự coi trọng về yêu cầu sư phạm; một số nội dung của một số môn học chưa đảm bảo tính hiện đại, cơ bản, còn nhiều kiến thức hàn lâm chưa thực sự thiết thực, chưa coi trọng kĩ năng thực hành, kĩ năng vận dụng kiến thức, chưa đáp được mục tiêu giáo dục đạo đức, lối sống.

– Hình thức dạy học chủ yếu là dạy trên lớp, chưa coi trọng các hoạt động xã hội, hoạt động trải nghiệm. Phương pháp giáo dục và đánh giá chất lượng giáo dục nhìn chung còn lạc hậu chưa chú trọng dạy các học và phát huy tính chủ động, khả năng sáng tạo của học sinh.

– Trong thiết kế chương trình chưa đảm bảo tính liên thông trong từng môn học. Còn hạn chế trong việc phát huy vai trò tự chủ của nhà trường và tích cực, sáng tạo của giáo viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục; chưa đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục của các vùng khó khăn, chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện chương trình còn thiếu tính hệ thống.

3. Những yếu tố cơ bản trong đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục

a/ Đổi mới mục tiêu giáo dục

Mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới nhấn mạnh yêu cầu phát triển năng lực, chú ý phát huy tiềm năng vốn có của mỗi học sinh. Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành các cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên THCS

Mục tiêu này là cái đích cuối cùng để các nhà quản lí kiểm soát chất lượng giáo dục, cũng như phát hiện lỗi để điều chỉnh và xây dưng được môi trường giáo dục phù hợp để đạt được mục tiêu đề ra.

b/ Đổi mới chương trình giáo dục, từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực

Từ trước đến nay, và chương trình hiện hành về cơ bản vẫn là chương trình tiếp cận nội dung. Theo tiếp cận nội dung tức là chỉ tập trung xác định và trả lời câu hỏi : Chúng ta muốn học sinh biết cái gì? Nên chạy theo khối lượng kiến thức, ít chú ý dạy cách học, nhu cầu, hứng thú của người học.

Chương trình mới chuyển sang cách tiếp cận năng lực. đó là cách tiếp cận nêu rõ học sinh sẽ làm được gì và làm như thế nào vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường.

c/Đổi mới hoạt động giáo dục theo trải nghiệm tiếp cận trải nghiệm sáng tạo là một đổi mới căn bản quan trọng

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức các kĩ năng tích lũy kinh nghiệm riêng và phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân.

d/ Đổi mới đội ngũ giáo viên

Đội ngũ giáo viên hiện nay cơ bản đáp ứng đủ số lượng. Gần 100% đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo, có tinh thần trách nhiệm và phẩm chất tốt. Tuy nhiên cần tập huấn để đáp ứng yêu cầu của đổi mới : tập huấn về mục tiêu, nội dung, phương pháp và tổ chức dạy học, kiểm tra -đánh giá quy định trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, trong chương trình từng môn học.

Nâng cao năng lực về vận dụng các phương pháp dạy học, giáo dục, kiểm tra đánh giá theo định hướng tích hợp phân hóa, phát triển năng lực học sinh. Hướng dẫn học sinh hoạt động trải nghiệm sáng tạo, kĩ năng tham vấn học đường tư vấn hướng nghiệp cho học sinh.

Thực hiện và thu hút mọi thành phần xã hội tham gia vào quá trình giáo dục. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của nhà nước và của toàn dân. Phối hợp tốt giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường. Ban đại diện cha mẹ học sinh có tổ chức, nhiệm vụ quyền, trách nhiệm và hoạt động theo Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh ; nhà trường tạo mọi điều kiện thuận lợi để Ban đại diện cha mẹ học sinh hoạt động. Phối hợp tốt giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội, nhà trường chủ động tổ chức, hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động Đoàn – Đội, hoạt động xã hội tích cực góp phần thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội địa phương.

V. BẢN CHẤT CỦA ĐỘNG LỰC VẬN DỤNG LÍ THUYẾT ĐÁP ỨNG NHU CẦU CỦA MASLOW ĐỂ TẠO ĐỘNG LỰC CHO GIÁO VIÊN

1. Bản chất của động lực

Động lực là các yếu tố bên trong thúc đẩy cá nhân tiến hành hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Động lực được coi là yếu tố bên trong -yếu tố tâm lý – tuy vậy yếu tố tâm lý này cũng có thể nảy sinh từ các tác động của yếu tố bên ngoài. Các yếu tố bên ngoài tác động đến cá nhân làm nảy sinh yếu tố tâm lý bên trong thúc đẩy hoạt động. Do vậy một cách mở rộng, khái niệm động lực không chỉ đề cập đến các yếu tố bên trong mà cả các yếu tố bên ngoài thúc đẩy cá nhân tiến hành hoạt động lao động.

Tạo động lực là quá trình xây dựng, triển khai các chính sách, sử dụng các biện pháp, thủ thuật tác động của người quản lí đến người bị quản lí nhằm khơi gợi các động lực hoạt động của họ. Bản chất của động lực là quá trình tác động để kích thích hệ thống động lực của người lao động, làm cho các động lực đó được kích hoạt hoặc chuyển hóa các kích thích bên ngoài thành động lực tâm lý bên trong thúc đẩy cá nhân hoạt động.

Tao động lực lao động chú ý các nguyên tắc sau:

– Xem xét các điều kiện khách quan của lao động nghề nghiệp có thể tác động đến tâm lí con người.

– Đảm bảo sự kết hợp giữa yếu tố vật chất và tinh thần.

– Các phương pháp kích thích cần cụ thể, phù hợp.

Đặc điểm của lao động sư phạm là:

– Là lao động có trí tuệ cao

– Lao động có công cụ chủ yếu là nhân cách của người thầy giáo

– Lao động có sản phẩm đặc biệt – nhân cách của người học

– Lao động có tính khoa học và tính nghệ thuật.

Trong thế kỉ XXI xuất hiện những các thách thức và yêu cầu giáo viên cần có sự thay đổi :

– Đảm nhận nhiều chức năng khác hơn so với trước đây, có trách nhiệm nặng hơn trong việc lựa chọn nội dung dạy học và giáo dục

-Chuyển mạnh từ truyền thụ kiến thức sang tổ chức việc học của học sinh, sử dụng tối đa nguồn tri thức trong xã hội.

– Coi trọng hơn việc cá biệt hóa trong dạy học, thay đổi tính chất trong quan hệ thầy trò.

– Yêu cầu sử dụng rộng rãi hơn những phương tiện dạy học hiện đại, do vậy cần trang bị thêm các kiến thức cần thiết.

– Yêu cầu hợp tác rộng rãi hơn với các giáo viên cùng trường, thay đổi cấu trúc trong mối quan hệ giữa các giáo viên.

– Yêu cầu thắt chặt hơn quan hệ với cha mẹ và cộng đồng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống

– Yêu cầu giáo viên tham gia các hoạt động rộng rãi hơn trong và ngoài nhà trường

– Giảm bớt và thay đổi kiểu uy tín truyền thống trong quan hệ với học sinh và cha mẹ học sinh.

Đó là những xu hướng thay đổi trong nghề nghiệp của người giáo viên. Từ các thách thức đó người quản lí phải biết tạo động lực cho giáo viên.

Theo Maslow nhà tâm lý học người Mỹ thì nhu cầu gồm : nhu cầu bậc thấp trong đó có nhu cầu sinh lí và nhu cầu an toàn. Nhu cầu bậc cao trong đó có nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu hoàn thiện

Các yếu tố quản lý được sử dụng để thỏa mãn các nhu cầu khác nhau được minh họa như sau:

Hệ thống thứ bậc nhu cầu

Yếu tố thỏa mãn chung

Nhân tố tổ chức quản lí

1. Sinh lí

Thức ăn, nước, tình dục, ngủ không khí

a. Lương

b. Điều kiện làm việc

c. Quán ăn tự túc

2. An toàn

An toàn, an ninh, ổn định, bảo vệ

a. Điều kiện làm việc

b. Phúc lợi công ty

c. An ninh công việc

3. Xã hội

Tình yêu thương, cảm xúc, họ hàng, giao lưu, hợp tác

a. Nhóm làm vệc

b. Lãnh đạo thân thiện

c. Hợp tác nghề nghiệp

4. Tôn trọng

Lòng tự trọng, tự tôn, uy tín, vị thế

a. Sự thừa nhận

b. Vị trí công tác

c. Công việc ở địa vị cao

5. Tự khẳng định bản thân

Tăng trưởng, tiến bộ, sáng tạo

a. Công việc thách thức

b. Cơ hội thể hiện óc sáng tạo

c. Thành đạt trong công việc

Muốn tạo động lực làm việc cho giáo viên thì việc quan trọng hàng đầu là nhận biết nhu cầu của họ. Mỗi cá nhân có nhu cầu có tính thúc đẩy ở các thứ bậc khác nhau. Biện pháp kích thích chỉ có thể có tác dụng khi phù hợp với nhu cầu của cá nhân.

Trong các phương pháp tạo động lực cho giáo viên thì phương pháp kinh tế là một phương pháp quan trọng. Tạo động lực thông qua tiền lương, tiền công, tiền thưởng, qua phụ cấp, phúc lợi và dịch vụ. Sự đảm bảo về lợi ích cho giáo viên giúp giáo viên toàn tâm toàn ý sáng tạo, trách nhiệm hơn trong công tác giáo dục. Nhưng hiện nay với mức lương của giáo viên là quá thấp so với mức sinh hoạt hiện nay. Và như vậy khi hoàn cảnh kinh tế, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thì các giáo viên có ít thời gian đầu tư công sức cho giảng dạy, bởi họ còn phải dành thời gian lo cơm, áo, gạo, tiền đảm bảo mưu sinh… thì khó có thể hài lòng và tâm huyết với công việc được.

Muốn tạo động lực động viên, khuyến khích đội ngũ giáo viên dạy tốt – học tốt “

Ngoài phương pháp kinh tế còn phải làm tốt công tác thi đua khen thưởng. Thi đua khen thưởng phải tự nguyện, tự giác, công khai và công bằng. Ở cơ sở đã xảy ra tình trạng những danh hiệu thi đua thường được chỉ định cho cán bộ quản lí hoặc các tổ trưởng, tổ phó, trưởng các đoàn thể, điều đó gây ra tâm lí không phấn đấu của giáo viên, vì cho rằng mình làm tốt cũng đâu cũng không đến lượt mình. Đó là sự mất công bằng. vậy nên để tạo động lực cần xây dựng một môi trường làm việc thân thiện, an toàn, cởi mở và tạo cơ hội thách thức cho giáo viên thể hiện bản thân mình góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu đổi mới hiện nay.

VI. MÔ HỌC TRƯỜNG HỌC MỚI VIỆT NAM VNEN, THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI TẠI CÁC ĐỊA PHƯƠNG

Mô hình trường học mới VNEN khi được đưa vào dạy thí điểm ở một số địa phương được các nhà quản lí, một số các nhà nghiên cứu giáo dục đánh giá là có nhiều ưu điểm. Như học sinh mạnh dạn hơn, tự tin hơn. Nhưng tại sao chính những người giáo viên đang hàng ngày thực hiện giảng dạy, rồi các phụ huynh học sinh lại gay gắt phản đối mô hình trường học này. Các cụm từ ” chuột bạch” rồi ” Cấp Tiểu học như một nồi lẩu thập cẩm” ngày càng xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng. Khi một trường có đến mấy chương trình. Lớp 1 học Công nghệ giáo dục của Hồ Ngọc Đại. Lớp 2, 3 học VNEN lớp 4, 5 học theo chương trình đại trà. Và rồi gần đây bộ giáo dục phải thừa nhận đã vội vã triển khai mô hình trường học, Giám đốc sở giáo dục tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đã lên tiếng xin lỗi khi đã triển khai. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến sự phản đối này.

Nguyên nhân mà mô hình VNEN bị phản đối chính là các bậc phụ huynh vẫn giữ thói quen nhìn nhận thành tích của con mình bằng điểm số, tức là con mình học được gì. Chứ không nhìn nhận con mình học như thế nào?làm như thế nào?

Tiếp theo đó là cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu dạy và học. Sĩ số học sinh đông, nhận thức của các đối tượng học không đồng đều, từ đó làm giảm đi hiệu quả của các hoạt động dạy và học.

Đối với giáo viên vì không đủ trang thiết bị dạy học giáo viên phải chuẩn bị nhiều đồ dùng, trong khi đó còn phải dành thời gian ngoài giờ lo cơm, áo, cho gia đình vì tiền lương không đủ trang trải cho cuộc sống tối thiểu.

Phải khẳng định rằng chúng ta đang trong thời kì đổi mới, và đổi mới là một xu thế tất yếu của thời đại. Đối với giáo dục chúng ta đang áp dụng rất nhiều mô hình trường học ở cấp Tiểu học và đều đang là thí điểm. Chúng ta cần phải có cái nhìn tổng quát, toàn cảnh nền giáo dục nước nhà, điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất khi áp dụng một chương trình hoặc một mô hình trường học mới vào thực tiễn.

VII. PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN TIỂU HỌC HẠNG II

1. Khái niệm về năng lực

Có rất nhiều khái niệm về năng lực nhưng tựu chung đều khẳng định năng lực là tổ hợp các thuộc tính tâm lí của cá nhân, được hình thành và phát triển trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể; là sức mạnh tiềm tàng của con người trong giải quyết các vấn đề thực tiễn.

2. Thực trạng năng lực giáo viên Tiểu học

Hiện nay ở cấp Tiểu học có hơn 99% giáo viên đạt chuẩn trở lên. Nhưng một bộ phận đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí trường Tiểu học còn một số hạn chế, bất cập; Số lượng cán bộ quản lí có trình độ cao về chuyên môn quản lí còn ít, tính chuyên nghiệp, kĩ năng dạy học của nhiều giáo viên chưa cao. Nhiều giáo viên và cán bộ quản lí còn hạn chế về chuyên môn khai thác, sử dụng thiết bị dạy học để đưa phương pháp dạy học tích cực theo hướng tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học. Nhiều cán bộ quản lí giáo dục Tiểu học còn hạn chế về kĩ năng tham mưu, xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức hoạt động giáo dục theo các mô hình mới, còn bất cập trong kiểm tra, đánh giá chất lượng và hiệu quả giáo dục.

3. Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên Tiểu học

Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên Tiểu học là sự phát triển nghề nghiệp mà một giáo viên đạt được do có các kĩ năng nâng cao, qua quá trình học tập, nghiên cứu, tích lũy kinh nghiện nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của việc giảng dạy một cách hệ thống.

Giáo viên cần có các năng lực sau:

– Năng lực tìm hiểu học sinh Tiểu học

– Năng lực tìm hiểu môi trường nhà trường Tiểu học

-Năng lực tìm hiểu môi trường xã hội

– Năng lực dạy học các môn học

– Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng xã hội, kĩ năng sống và giá trị sống cho học sinh Tiểu học

– Năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo

– Năng lực giải quyết các tình huống sư phạm

– Năng lực giáo dục học sinh có hành vi không mong đợi

– Năng lực tư vấn và tham vấn giáo dục Tiểu học

– Năng lực hiểu biết các kiến thức khoa học nền tảng rộng, liên môn

-Năng lực chủ nhiệm lớp

– Năng lực giao tiếp

– Năng lực hoạt động xã hội, năng lực phát triển nghề nghiệp và năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục Tiểu học.

Trên những thực trạng năng lực giáo viên Tiểu học tôi đề xuất một số giải pháp phát triển năng lực sau:

Một là, thay đổi cách đánh giá giáo viên tiểu học, để tạo điều kiện cho giáo viên phát huy năng lực sáng tạo trong giáo dục và dạy học của mỗi giáo viên.

Hai là, Tăng cường hỗ trợ chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới sinh hoạt chuyên môn để cập nhật những xu hướng mới trong giáo dục. Giải quyết những khó khăn của giáo viên trong quá trình giáo dục học sinh.

Ba là, khuyến khích giáo viên tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, nâng cao năng lực ngoại ngữ, tin học để ứng dụng trong hoạt động nghề nghiệp.

Bốn là, Thường xuyên tổ chức thực hiện phát triển năng lực đội ngũ nhà giáo để giáo viên không ngừng phát triển và hoàn thiện chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp.

VIII. ĐÁNH GIÁ VÀ KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRƯỜNG TIỂU HỌC

1. Các thành tố tạo nên chất lượng đào tạo bao gồm: đầu vào, quá trình giáo dục, đầu ra, và bối cảnh

– Khái quát về chất lượng giáo dục tiểu học;

– Nội dung và trình độ kiến thức được trang bị;

– Kỹ năng kỹ xảo thực hành và khả năng vận dụng của học sinh;

– Năng lực nhận thức và năng lực tư duy của học sinh tiểu học; Phẩm chất và kĩ năng xã hội của học sinh tiểu học.

2. Đánh giá chất lượng giáo dục

– Các loại đánh giá; gồm : đánh giá học sinh, đánh giá cán bộ quản lí và đánh giá giáo viên, đánh giá cơ sở giáo dục.

Các tiêu chuẩn tiêu chí đánh giá chất lượng;

Tiêu chuẩn 1:Tổ chức và quản lí nhà trường

Tiêu chuẩn 2: Cán bộ quản lí, giáo viên nhân viên và học sinh

Tiêu chuẩn 3: Cơ sở vật chất và trang thiết bị

Tiêu chuẩn 4:Quan hệ giữa nhà trường gia đình và xã hội

Tiêu chuẩn 5: Kết quả giáo dục

Minh chứng đánh giá.

3. Kiểm định chất lượng giáo dục trường tiểu học

Mục tiêu kiểm định; Đặc trưng của kiểm định;

Đánh giá trong (hoạt động tự đánh giá);

Đánh giá ngoài;

Thông báo kết quả;

Xử lý kết quả đánh giá.

IX. XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU NHÀ TRƯỜNG

Văn hóa nhà trường và phát triển thương hiệu nhà trường có vai trò quan trọng, có tác động mạnh tới việc nâng cao chất lượng giáo. Có thể coi văn hóa nhà trường là một trong những kĩ năng sống của học sinh giúp học sinh thích nghi với xã hội, có thể điều chỉnh chính mình phù hợp với hoàn cảnh sống, ứng xử hợp lí với cuộc sống xung quanh.

Trong các nhà trường nói chung và trong trường tiểu học nói riêng văn hóa nhà trường được xây dựng cơ bản trên những mối quan hệ sau:

– Quan hệ giữa con người với con người, bao gồm : giáo viên với giáo viên, giáo viên với phụ huynh, giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh, lãnh đạo với giáo viên

– Quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Xây dựng trường học thân thiện, môi trường học tập xanh, sạch, đẹp.

Văn hóa nhà trường được tạo dựng và nuôi dưỡng bầu không khí cởi mở, dân chủ, hợp tác, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau. Giáo viên hiểu ró vai trò, trách nhiệm của mình trong giảng dạy.

Đối với học sinh thì văn hóa nhà trường có tác động tích cực tạo ra bầu không khí học tập liên tục, học sinh có điều kiện phát huy tính sáng tạo, được thể hiện mình, là chính mình.

Xây dựng thương hiệu nhà trường là một bước đột phá ở các trường công lập. Khi nhà trường có thương hiệu giúp phụ huynh học sinh tin tưởng hơn, học sinh được học trong một môi trường giáo dục hoàn thiện, cơ sở vật chất đầy đủ đáp ứng quá trình dạy và học. Từ thương hiệu đó giáo viên và học sinh, đến cán bộ quản lí đều phải nỗ lực dạy và học thật tốt để giữ gìn và phát triển thương hiệu đó.

Đối với giáo dục địa phương những năm qua đã thực hiện tốt, thường xuyên, liên tục các phong trào ” xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” ” Thi đua dạy tốt học tốt”, phong trào đổi mới phương pháp dạy và học phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Giáo viên là người tổ chức hướng dẫn và kết hợp đánh giá, học sinh là người chủ động học tập và được tự đánh giá. Từ đó đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và bước đầu xây dựng thương hiệu nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân.

. . . . . . . . . . . . . , ngày. . . tháng. . . năm. . . .

NGƯỜI VIẾT

4. Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên tiểu học hạng 2 mẫu 4

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG TIÊU CHUẨN

CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP

Cho giáo viên Tiểu học hạng II

Họ và tên

:

…………………………………………….

Nơi công tác

:

Trường Tiểu học ………………………..

Địa điểm bồi dưỡng

:

…………………………………………….

VẤN ĐỀ

Vận dụng các kiến thức đã học để phân tích, đưa ra các định hướng phát triển nghề nghiệp của bản thân.

BÀI LÀM

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Giáo dục (GD) luôn giữ một vai trò rất trọng yếu trong sự phát triển của mỗi quốc gia, là biện pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo lợi thế so sánh về nguồn lao động tri thức. Hầu hết các nước trên thế giới đều coi đầu tư cho GD là đầu tư cho phát triển và thậm chí còn nhìn nhận GD là một ngành sản xuất đặc biệt. Đối với các nước kém và đang phát triển thì GD được coi là biện pháp ưu tiên hàng đầu để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách về công nghệ. Do vậy, các nước này đều phải nỗ lực tìm ra những chính sách phù hợp và hiệu quả nhằm xây dựng nền GD của mình đáp ứng yêu cầu của thời đại, bắt kịp với sự tiến bộ của các quốc gia trên thế giới. Trong GD, đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên có vai trò quan trọng nhất, quyết định trực tiếp đến chất lượng giáo dục và đào tạo (GD&ĐT). Họ là những người hưởng ứng các thay đổi trong nhà trường; là người xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển nhà trường; người xây dựng, vun trồng và phát triển văn hóa nhà trường; người tham gia huy động và sử dụng các nguồn lực của nhà trường. Bởi vậy trong bối cảnh chung như đã nêu trên mỗi nhà trường, mỗi cơ sở giáo dục muốn duy trì và phát triển chất lượng giáo dục nhất thiết cần có những biện pháp bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên của nhà trường.

Muốn phát triển sự nghiệp GD thì việc đầu tiên cần làm là xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí trường mầm non đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu đảm bảo yêu cầu về chất lượng. Đảng ta xác định “Phát triển GD&ĐT là một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”, thông qua việc đổi mới toàn diện GD&ĐT, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy học theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”, phát huy tính sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học, “phát triển nguồn nhân lực, chấn hưng giáo dục Việt Nam, trong đó đội ngũ viên chức đóng vai trò then chốt quyết định chất lượng đào tạo”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành TƯ Đảng khóa VIII đã khẳng định “viên chức là nhân tố quyết định chất lượng GD và được xã hội tôn vinh”. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009-2020 đã nhấn mạnh 2 giải pháp mang tính chất đột phá là “Đổi mới quản lý giáo dục” và “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”. Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban bí thư đã đề ra mục tiêu “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí GD được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo thông qua việc quản lí, phát triển đúng định hướng và hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.Tại Khoản 3, Điều 27 Luật Giáo dục có ghi “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.”[7]. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên tại các trường Tiểu học có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng Giáo dục Tiểu học, công tác này được thực hiện với nhiều biện pháp, trong đó, bồi dưỡng nâng hạng giáo viên theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên Mầm non hạng II là một trong những biện pháp căn bản, đảm bảo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên trường Tiểu học nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung.

B. NỘI DUNG

1. Bối cảnh xã hội hiện nay và những yêu cầu mới đối với giáo dục, đối với giáo viên

Trong thời đại ngày nay, nhân loại đang sống trong xã hội hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, kĩ thuật, công nghệ; sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức. Sự phát triển của thời đại đã mang đến nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của xã hội nói chung và phát triển giáo dục, đội ngũ giáo viên nói riêng. Song bên cạnh đó, nó cũng đưa đến những yêu cầu mới – yêu cầu ngày càng cao đối với giáo dục, đối với giáo viên các bậc học trong đó có giáo dục Tiểu học và giáo viên Tiểu học.

2. Thực trạng giáo dục trong nhà trường và hoạt động của bản thân

2.1. Công tác giáo dục trong nhà trường

* Cán bộ quản lí của nhà trường:

Trường Tiểu học ……………….. có 0 hiệu trưởng và 01 hiệu phó (Phụ trách nhà trường). Hiệu phó đạt chuẩn về trình độ đào tạo và đã có các chứng chỉ nghiệp vụ quản lí giáo dục đảm bảo chất lượng.

* Giáo viên của nhà trường:

– Tổng số giáo viên của trường là 34.

– 100% giáo viên đạt chuẩn về trình độ đào tạo.

* Số lớp trong nhà trường: 24

* Số học sinh trong nhà trường: 929 em

* Chất lượng dạy học và giáo dục học sinh:

– Đánh gá về hoạt động giáo dục: Hoàn thành tốt: 530 em

Hoàn thành: 399 em

– Đánh giá về năng lực và phẩm chất: Tốt:754 em

Đạt: 175 em.

2.2. Đánh giá về những ưu điểm và tồn tại của bản thân trong hoạt động nghề nghiệp của bản thân

* Ưu điểm của bản thân trong hoạt động nghề nghiệp.

– Phẩm chất tốt, đáp ứng đầy đủ yêu cầu theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học.

– Năng lực chuyên môn tốt,vững vàng tay nghề,

* Một số tồn tại trong hoạt động nghề nghiệp của bản thân

– Kĩ năng sử dụng ngoại ngữ chưa thành thạo.

– Khả năng phối hợp các phương pháp dạy học và giáo dục tích cực.

– Khả năng phối hợp các lực lượng cộng đồng trong giáo dục học sinh.

3. Những kiến thức đã thu nhận được từ các chuyên đề bồi dưỡng

3.1. Chuyên đề 1 “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”

* Khái niệm nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Nhà nước là một hiện tượng đa dạng và phức tạp; do vậy, để nhận thức đúng bản chất củầ nhà nước cũng như những biến động trong đời sống nhà nước cần lí giải đầy đủ hàng loạt vấn đề, trong đó nhất thiết làm sáng tỏ nguồn gốc hình thành nhà nước, chỉ ra những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước.

Học thuyết Mác – Lênin đã giải thích một cách khoa học về nhà nước, trong đó có vấn đề nguồn gốc của nhà nước. Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước là một phạm trà lịch sử, nghĩa là có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, nhưng không phải là hiện tượng xã hội vĩnh củư và bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa.

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại, được thể hiện trong quan điểm của cảc nhà tư tưởng ở Hi Lạp, La Mã; sau này được các nhà triết học, chính trị và phảp luật tư sản thế kỉ XVII – XVIII ở phương Tây phát triển như một thế giới quan pháp lí mới. Tư tưởng nhà nước pháp quyền dần dần được xây dựng thành hệ thống, được bổ sưng vấ phát triển về sau này bởi các nhà chính trị, luật học tư sản thành học thuyết về nhà nước pháp quyền.

Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là hình thức phân công và tổ chức quyền lực nhà nước.

* Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

– Một là, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;

– Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cợ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước;

-Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ của đời sống xã hội;

– Bổn là, Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lí giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ đồng thời tăng cường kỉ cương, kỉ luật;

– Năm là, Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam đã kí kết hoặc gia nhập;

– Sáu là, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước pháp quyền XHCN, sự giám sát của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

Như vậy, ngoài việc đáp ứng các yêu cầu, đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền nói chung (trong đó CÓ thể hiện sâu sắc, cụ thể hơn các nội dung này phù hợp với thực tiễn Việt Nam), xuất phát từ bản chất của chế độ, điều kiện lịch sử cụ thể, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam còn có nhũng đặc trưng riêng thể hiện rõ nét bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN. Đó là:

* Phương hướng chung trong quá trình hoàn thiện nhà nước pháp quyên xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

– Xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông nhân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kiên định con đường lên chủ nghĩa xã hội, đảm bảo tính giai cấp công nhân gắn bó với chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân của Nhà nước ta, phát huy đầy đủ tính dân chủ trong mọi sinh hoạt của Nhà nước, xã hội.

* Biện pháp xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta

Một là, nâng cao nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Trước đây trong một thời gian dài ở các nước XHCN nói chung đều không thừa nhận nhà nước pháp quyền, đối lập nhà nước chuyên chính vô sản với nhà nước pháp quyền. Từ khi các nưởc này tiến hành cải tổ, cẳi cách, đổi mới mới đặt vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền và đi sâu nghiên cứu về nhà nước pháp quyền.

Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 còn khẳng định nhà nước ta là “nhà nước chuyên chính vô sản”. Phải đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), vấn đề nhà nước pháp quyền XHCN mới được đưa vào Hiến pháp. Điều 2 của Hiến pháp năm 2013 cũng đã xác định: “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai câp nông dân và đội ngũ trí thức.

Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn về bản chất, đặc trưng, tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Chẳng hạn, trong Hiến pháp 1992 (sứa đổi, bổ sung năm 2001) và trong các Văn kiện của Đảng trước Đại hội XI (năm 2011) khi đề cập mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ mới dừng ở “sự phân công và phối họp” thì đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung vẩn đề “kiểm soát quyền lực”, bởi vì quyền lực không bị ldểm soát sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền, lộng quyền.

Hai là, phát huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nước và quản lí xã hội.

Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lí giữa Nhà nước với công dân. Quyên và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền không tách rời nghĩa vụ công dân.

Trong những năm đổi mới, dân chủ XHCN đã có bước phát triển đáng kể gắn liền với việc xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Dân chủ được phát huy trên nhiều lĩnh vực kể cả chiều rộng và bề sâu.

Dân chủ về kinh tế có những thay đổi quan trọng. Những cơ chế, chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, bảo hộ quyền sở hữu họp pháp của kinh tế tư nhân, chính sách, pháp luật về đất đai với các quyền của người sử dụng đất được mở rộng hơn.

Dân chủ về chính trị, xã hội tiếp tục được nâng cao. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình thông qua hai phương thức: dân chủ trực tiếp và dân chù gián tiếp (dân chủ đại diện).

Ba là, đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật.

Nhà nước pháp quyền phải đề cao vai trò của pháp luật; Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lì xâ hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường.,; pháp chế XHCN. Vì vậy, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Bốn là, đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước.

Bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước được thể hiện trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 2013. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, to pháp. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho mỗi cơ quan nhà nước thi hành có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, không phải là sự phân chia cắt khúc, đối lập nhau giữa cẳc quyền lập pháp, hành pháp và to pháp, mă ở đây có sự phối hợp, hỗ trợ nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước.

Tuy vậy, việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lí đất nước. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan nhà nước chưa thật rõ, còn chồng chéo; năng lực xây dụng thể chế, quản lí, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy và biên chế ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lí. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp úng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Năm là, đảm hảo vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối VỚI nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Điều đó đã được khẳng định trong Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 và trong các Hiến pháp 1980, 1992 và 2013. Hiến pháp 2013 đã chính thức khẳng định địa vị pháp lí của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt. Nam, đại biểu trung thành lợi ích cửa giai câp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênịn và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền XHCN là tất yếu khách quan, là tiền đề và điều kiện để nhà nước giữ vũng tính chất XHCN, bản chất của dân, do dân, vì dân của mình. Trong những năm qua, Đảng luôn củng cố, giũ’ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền và có nhà nước pháp quyền XHCN, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng nhà nước và thông qua nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng không làm thay nhà nước. “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuỵên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”.

Tuy nhiên, sự lãnh dạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước, vừa có tình trạng buông lỏng và vừa có tình trạng bao biện, chồng chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của nhà nước. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nuýc trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ của Đảng đoàn, ban cán sự Đảng chựa được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới chậm, hội họp còn nhiều, nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm.

3.2. Chuyên đề 2. Xu hướng quốc tế và đổi mới giáo dục phổ thông (GDPT) Việt Nam

* Quan điểm phát triển giáo dục phổ thông của Việt Nam

Phát triển GDPT trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoả trong điều ỉứện kinh tể thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế’, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết sẻ 88/2014/QH13 về đổi mới chưcmg trình, sách giáo khoa GDPT, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Mục tiêu đổi mới được Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội quy định: ‘‘Đổi mới chương trình, sách giáo khoa GDPT nhằm tạo chuyển biển căn bản, toàh diện về chất lượng và hiệu quả GDPT; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phan chuyển nền giáo dục nặng về truyềnĩhụ líĩến tĩũĩc sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài ho à đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi HS.”

+ Phát triển GDPT gắn với nhu cầu phát triển của đất nước và những tiến bộ của thời đại về khoa học – công nghệ và xã hội;

+ Phát triển GDPT phù họp với đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam, các giá trị truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các sáng kiến và định hướng phát triển chung của UNESCO về giáo dục;

+ Phát triển GDPT tạo cơ hội bình đẳng về quyền được bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn trọng và được tham gia của HS;

+ Phát triển GDPT đặt nền tảng cho một xã hội nhân văn, phát triển bền vũng và phồn vinh.

* Đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam

– Quan điểm phát triển GDPT;

– Đổi mới mục tiêu và phương thức hoạt động giáo dục;

– Đổi mới cấu trúc GDPT theo hai giai đoạn;

– Đổi mới quản lý giáo dục phổ thông về mục tiêu của CTGD các cấp, mục tiêu cả 3 cấp học trong CT GDPT mới đều có phát triển so với mục tiêu từng cấp học của CT GDPT hiện hành. Mục tiêu các cấp trong GT GDPT hiện hành chỉ nêu khái quát chung.

3.3. Chuyên đề 3 “Xu hướng đổi mới quản lí giáo dục phổ thông”

* Những tác động của môi trường đối với giáo dục hiện nay

Education Commission of the States (Janaury, 1999) viết: Giáo dục không phải là một ốc đảo. Nó chịu tác động không chỉ bởi những yếu tố diễn ra trong giáo dục má còn bởi tất cả những gì diễn ra trong xã hội. Vì vậy dự báo các xu thế phát triển là hết sức cần thiết để giúp các nhà hoạch định giáo dục tập trung vào tương lai của một nền giáo dục sẽ như thế nào. Tuy nhiên dự báo không đông nghĩa với việc định sẵn tương lai sẽ như thế nào vì những vấn đề dự báo có thể sẽ thay đổi. Tổ chức này dự báo những xu hương sau đây sẽ xảy ra và tác động lên giáo dục:

Tăng cường vai trò làm chủ của công nghệ trong kinh tế và xã hội;

Xã hội học tập và học tập suốt đời;

Giảm tâng lớp trung gian, tăng khoảng cách giữa những người giàu và những người nghèo;

Tăng tốc độ đô thị hoá;

Tăng kiến thức công nghiệp và sự phụ thuộc ldến thức lẫn nhau trong xã hội;

Gia tăng sự phát triển của các tập đoàn lớn;

Phát triển kinh tế toàn cẩu;

Xu hướng quy mô gia đình nhỏ ngày càng tăng;

Tăng xu hướng dịch chuyển nghề nghiệp;

Tăng sự đòi hỏi về trách nhiệm đối với việc sử dụng ngân sách công;

Gia tăng mối quan tâm đối với quyền riêng tư cá nhân;

Gia tăng quá trình tư nhân hoá các dịch vụ của Chính phủ.

Tuy nhiên ảnh hưởng của những yếu tố này thì khác nhau tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh ở mỗi nước.

UNESCO Institute for Statistics Organisation for Economic Co-operation and Development (Michael Bruneforth and Albert Motivans, 2005) nhận định: Thế giới thay đổi một cách đáng kể với sự phụ thuộc lẫn nhau của các nước trên thế giới, sự cạnh.tranh và. những .thay .đổi ngắn hạn đáng.kể- đối với kinh tế -và-Sự thịnh vượng của các quốc gia. Các nhu cầu về học tập cũng tăng lên tù’ mầm non đến đại học do nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đối với lợi ích lâu dài của bản thân mỗi người. Sau đây là một số tác động chính:

– Tác động của những thay đổi trong kinh tế: Kinh tế ngày nay thiên về các hình thức lao động họp tác, các quá trình ra quyết định được thực hiện từ dưới lên, đòi hỏi cao về hàm lượng tri thức trong các sản phẩm lao động. Sự phân quyền trong quản lí xã hội và kinh tế ngày càng mạnh.

– Tác động của các xu thế xã hội: Các tổ chức phi chính phủ ngày càng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội; xu hướng coi trọng giá trị tiêu dùng (chủ nghĩa tiêu dùng) và các tệ nạn xã hội gia tăng. Các tiếp xúc xã hội trực tiếp ngày càng giảm mà gia tăng các tiếp xúc qua mạng Thay đổỊ cơ cấu tổ chức xã hội và nhấ trường theo hướng gia tăng các network.

– Xu thế chính trị: Đòi hỏi cao đối với trách nhiệm xã hội; chuyển từ quản lí tập trung sang quản lí phân cấp – phi tập trung hoá.

– Tác động của công nghệ thông tin và truyền thông: Các network được hình thành để trao đổi thông tin và sản xuất kiến thức ngày càng nhiều, các hình thức trao đổi thông tin phong phú, đa dạng, nhiều loại hình phương tiện số rẻ tiền, đơn giản được sử dụng trong giảng dạy và học tập. Các nội dung và hình thức học tập mới được hình thành. Việc học tập với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông dễ dàng được cá nhân hoá nhiều hơn Và có sự cộng tác nhiều hơn.

– Văn hoá mới: văn hoá cộng đồng, văn hoá mạng.

– Sự biến động liên tục của môi trường, các vấn đề về ô nhiễm môi trường gia tăng, các mối quan tâm mới để giữ gìn và cải thiện môi trường.

– Tác động của toàn cầu hoá về cấc mặt kinh tể: tính cạnh tranh trong sản xuất và yêu cầu về năng lực cạnh tranh của người lao động, sự đồng nhất về văn hoá, nhất là vấn đề ngôn ngữ; gia tăng sự đầu tư cho giáo dục ở tất cả các nước, và có nhiều hình thức học tập toàn cầu (Trends Shaping Education – 2008 Edition).

– Các giá trị xã hội và văn hoá được chú trọng: văn hoá tham gia, cộng tác và hợp tác, quyền tụ’ do cá nhân, sự công bằng và bình đẳng, quyền được tôn trọng tín ngưỡng, các giá trị đạo đức nhân văn…

* Năng lực và phẩm chất của công dân thế kỉ XXI

Những năng lực, phẩm chất của công dân thế kỉ XXI được các nhà nghiên cúư đề cập đến gồm: (Jed Willard, Global Competencies – 11/2003)

– Sáng kiến;

– Nhiệt tình;

– Tò mò, ham hiểu biết;

– Luôn luôn thích thú học hỏi;

– Dũng cảm;

-Tự lực;

– Tự tin;

– Tự kiểm soát;

– Tự hiểu biết;

– Lạc quan trước các khó khăn, thử thách;

– Độc lập, tôn trọng sự đa dạng;

– Kiên nhẫn;

Sáng tạo;

Linh hoạt;

– Thoải mái với các biến động của hoàn cảnh, cởi mở tư duy;

– Các kĩ năng ngôn ngữ và giao tiếp;

– Quyết đoán;

– Hài hước.

Một số các quan niệm khác về các năng lực phẩm chất toàn cầu của công dân – Công dân quốc tế:

– Có các kĩ năng giao tiếp đa văn hoá thành thạo;

– Học thông qua lăng nghe và quan sát; –

– Phát triển mạnh trong các hoàn cảnh đa văn hoávới các phẩm chất cá nhân và các phong cách học tập đa dạng;

– Nhanh chóng thiết lập các mối quan hệ;

– Có khả năng làm việc có hiệu quả trong nhóm làm việc đa dân tộc hoặc đa quốc gia;

– Hiểu biết và làm việc có hiệu quả trong các môi trường đa vănhoá;

– Học nhanh;

– Khả năng hoà hợp;

– Năng lực thích nghi và linh hoạt trong môi trường mới, nhiều thử thách;

– Giải quyết tốt các tình huống khó khăn, làm việc tốt trong môi trường đa văn hoá và bất ổn định;

– Có năng lực làm việc trong các hoàn cảnh khó khăn và không thuận lợi;

– Lãnh đạo đa văn hoá;

– Là một người làm việc có hiệu quả trong nhóm cũng như làm việc cá nhân;

– Chấp nhận sáng kiến và rủi ro;

– Giao tiếp vượt qua các rào cản;

– Hiểu sự khác biệt và sự giống nhau của các nền văn hoá;

– Giải quyết tình trạng căng thẳng;

– Xác định vấn đề và sử dụng các nguồn lực có sẵn để giải quyết vấn đề;

– Có năng lực giao tiếp đa văn hoá thông thạo và khuyến khích những người khác thực hành giao tiếp.

Các nhà giáo dục Mỹ xác định các phẩm chất năng lực tương lai mà HS Mỹ cần được đào tạo, giáo dục bao gồm:

Năng lực cạnh hanh: Năng lực tìm kiếm, phân tích, xử lí và sử dụng thông tin. Nhiều nghiên cứu cho thấy các công ty thành công trên thị trường toàn cầu nếu họ biết thu thập, phân tích thông tin và sử dụng chúng một cách có chiến lược.

Năng lực sản xuất kiến thức – kết quả của tư duy sáng tạo, biết phê phán và biết sử dụng thông tin.

Năng lực cạnh tranh – hợp tác và giao tiếp thành công.

Kĩ năng sống và năng lực tự phát triển cá nhân.

Hiểu biết về toàn cầu, kinh doanh và tài chính.

Con người cần có các giá trị đạo đức cơ bản: trung thực, thật thà, biết thông cảm, chia sẻ, biết tha thứ, biết ơn, hoà bình, hữu nghị, tình yêu và lòng kính trọng.

3.4. Chuyên đề 4 “Động lực và tạo động lực cho giáo viên”

* Tạo động lực cho giáo viên

Tạo động lực là một trong những công việc qụan trọng của người lãnh đạo, nhà quản lí và những người tham gia vào công việc dân đăt hoạt động của tập thê.

Tạo động lực là quả trình xây dựng, triển khai các chỉnh sách, lựa chọn, sử dụng các biện pháp, thủ thuật của người quản lí để tác động đến người bị quản lí nhằm khơi dậy tỉnh tích cực hoạt động của họ.

Bản chất của tạo động lực là quá trình tác động để kích thích hệ thống động cơ (động lực) của người lao động, làm cho các động lực đó được kích hoạt hoặc chuyển hoá các kích thích bên ngoài thành dộng lực tâm lí bên trong thúc đẩy cá nhân hoạt động. Trong thực tế, việc tạo động lực không chỉ là công việc của nhà quản lí. Mọi cá nhân trong tập thể đều có thể tham gia vào việc tạo động lực làm việc, trước hết là tạo động lực làm việc cho bản thân và sau đó là cho đồng nghiệp.

Tạo động lực lao động cần chú ý ba nguyên tắc:

Xem xét các điều kiện khách quan của lao động nghề nghiệp có thể tác động đến tâm lí con người. Ví dụ: vị thế xã hội của nghề nghiệp, các điểm: hấp dẫn của nghề, các lợi thế của nghề dạy học với các nghề khác.

Các phương pháp kích thích cần cụ thể, phù hợp. Mỗi GV là một chủ thể với sự khác biệt về định hướng giá trị, về nhu cầu, về kì vọng. Do vậy, yếu tố tạo động lực đối với các cá nhân có thể khác nhau. Phương pháp tạo động lực không phù họp thì hiệu quả tạo động lực không cao.

* Một Số trở ngại đối với việc có động lực và tạo động lực đối với giáo vỉên

Tạo động lực làm việc là công việc thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố: các yếu tố liên quan đến chính sách, chế độ; các yếu tố liên quan đến đặc điểm cá nhân và điều kiện hoàn cảnh từng cá nhân. Do vậy, ý thức được các trở ngại là điều cần thiết để có thể tạo động lực có hiệu quả. Có thể khái quát một số trở ngại sau đây:

Những trở ngại tâm lí – xã hội từ phía GV: Tính ỳ khá phổ biến khi GV đã được vào “biên chế” làm cho GV không còn ý thức phấn đấu. Tư tưởng về sự ổn định, ít thay đổi của nghề dạy học cũng làm giảm sự cố gắng, nỗ lực của GV. Nghề dạy học nhìn chung còn được coi là nghề không có cạnh tranh, do vậy sự nỗ lực khẳng định bản thân cũng phần nào còn hạn chế. Từ phía các nhà quản lí giáo dục: ý thức về việc tạo động lực cho GV chưa rõ hoặc không coi trọng việc này. Quản lí chủ yếu theo công việc hành chính.

Những trở ngại về môi. trường làm việc: Môi trường làm việc có thể kể đến là môi trường vật chất (thiết bị, phương tiện…) và môi trường tâm lí. Nhiều trường học, do không được đầu tư đủ cho nên phương tiện, thiết bị dạy học thiếu thốn. Phòng làm việc cho GV cũng không đầy đủ cũng dễ gây chán nản, làm suy giảm nhiệt tình làm việc. Môi trường tâm lí (bầu không khí tâm lí) không được quan tâm và chú ý đúng mức, các quan hệ cấp trên – cấp dưới, đồng nghiệp – đồng nghiệp không thuận lợi, xuất hiện các xung đột gây căng thẳng trong nội bộ GV.

Những trở ngại về cơ chế, chỉnh sách: Mặc dù quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” được khẳng định rõ ràng, song do những cản trở khác nhau mà việc đầu tư cho giáo dục, trực tiếp là cho GV còn nhiều hạn chế. Thu nhập thực tế của đại đa số GV còn ở mức thấp. Nghề sư phạm không hấp dẫn được người giỏi. Bên cạnh đó, công tác phúc lợi tại các nhà trường về cơ bản còn hạn hẹp, đặc biệt với các trường công lập quỹ phúc lợi rất hạn hẹp do không có chế độ thu học phí.

3.5. Chuyên đề 5 “Quản lý hoạt động dạy học và phát triển chương trình giáo dục nhà trường tiễu học”

* Hoạt động dạy học

Hoạt động dạy học gồm hai hoạt động chính: hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Mỗi hoạt động có mục đích, chức năng, nội dung và phương pháp riêng nhưng, gắn bó mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, bổ sung cho nhau do hai chủ thể thực hiện đó là thầy và trò; quá trình tương tác giữa hai chủ thể này được hiểu là quá trình dạy học.

Hoạt động dạy của giáo viên

Đó là hoạt động tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của HS, giúp HS tìm tòi khám phá tri thức, qua đó thực hiện có hiệu quả chức năng học của HS.

Hoạt động học của học sinh

Là hoạt động tụ’ giác, tích cực, chủ động, tự’ tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của người học nhằm thu nhận, xử lí và biến đổi thông tin bên ngoài thành hi thức của bản thân, qua đó người học thể hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình.

Quá trình dạy học

Quá trình dạy học là quá trình hoạt động tương tác và thống nhất giữa giáo viên và học sinh trong đó dưới tác động chủ đạo của giáo viên, học sinh tự giác, tích cực, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt dộng học để thực hiện các nhiệm vụ dạy học; Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học nhằm kiểm soát hiệu quả của cả hoạt động dạy và hoạt động học.

Hai hoạt động dạy và học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tồn tại song song và phát triển trong cùng một quá trình thống nhất, bổ sung cho nhau, chế ước nhau và là đối tượng tác động chủ yếu của nhau, nhằm kích thích động lực bên trong của mỗi chủ thể để cùng phát triển.

Người dạy luôn luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng, tô chức, điêu khiển và thực hiện các hoạt động huyền thụ tri thức, lã năng, kĩ xảo đến người học một cách khoa học.

Người học sẽ ý thức và tổ chức quá trình tiếp thu một cách tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo hệ thống nhũng kiến thức, lã năng, kĩ xảo nhằm hình thành năng lực, thái độ đúng đắn, tạo ra các động lực cho việc học với tư cách là chủ thể sáng tạo và hình thành nhân cách cho bản thân.

* Quản lí hoạt động dạy học

Dạy học là hoạt động trung tâm của nhà trường, là một trong những hoạt động giữ vai trò chủ đạo. Mặt khác, hoạt động dạy học còn là nền tảng cho tất cả các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường. Có thể nói rằng: Dạy học là hoạt động giáo dục cơ bản nhất, có vị trí nền tảng và chức năng chủ đạo trong quá trình giáo dục ở nhà trường.

Quản lí hoạt động dạy học là điều khiển hoạt động dạy học vận hành một cách có kế hoạch, có tổ chức và được chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thường xuyên nhằm tùng bước hướng vào thực hiện các nhiệm vụ dạy học để đạt mục đích dạy học.

Quản lí hoạt động dạy học là một hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lí tới khách thế quản lí trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục tiêu dạy học. Quản lí hoạt động dạy học phải đồng thời quản lí hoạt động dạy của giáo viên và quản lí hoạt động học của HS. Yêu cầu của quản lí hoạt động dạy học là phải quản lí các thành tố của quá trình dạy học, Các thành tô đó sẽ phát huy tác dụng thông qua quy trình hoạt động của người dạy một cách đồng bộ đúng nguyên tắc dạy học.

3.6. Chuyên đề 6: “Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên Tiểu học hạng II”

* Khải niệm năng lực

Năng lực được định nghĩa theo rất nhiều cách khác nhau, tuỳ thuộc vào bối cảnh và mục đích sử dụng các năng lực đó.

* Cấu trúc của năng lực

Theo các nhà Tâm lý học, nội dung và tính chất của hoạt động quy định thuộc tính tâm lý của cá nhân tham gia vào cấu trúc năng lực của cá nhân đó. Vì thế, thành phần của cấu trúc năng lực thay đổi tùy theo loại hình hoạt động. Tuy nhiên, cùng một loại năng lực, ở những người khác nhau có thế có cấu trúc không hoàn toàn giống nhau.

* Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên tiểu học

Phát triển nghề nghiệp giáo viên là sự phát triển nghề nghiệp mà một giáo viên đạt được do có các kỹ năng nâng cao (qua quá trình học tập, nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm nghề nghiệp) đáp ứng các yêu cầu sát hạch việc giảng dạy, giáo dục một cách hệ thống. Đây là quá trình tạo sự thay đổi trong lao động nghề nghiệp của mỗi giáo viên nhằm gia tăng mức độ thích ứng của bản thân với yêu cầu của nghề dạy học.

3.7. Chuyên đề 7 “Dạy học và bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu trong trường Tiểu học”

* Mẫu giáo viên tiền chuyên nghiệp

Thời đại chúng ta đang sống là thời đại chạy đua về khoa học công nghệ giữa các quốc gia. Trong bối cảnh đó, quốc gia nào không phát triển được năng lực khoa học công nghệ của mình thì quốc gia ấy sẽ tránh khỏi tụt hậu, chậm phát triển. Do vậy, một nền giáo dục tiên tiến tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng đón góp cho sự phát triển năng lực khoa học – công nghệ quốc gia, thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững đích mà tất cả các quốc gia nhắm tới. Mục tiêu của giáo dục là khơi dậy sự say mê học tập, kích thích sự tò mò và sáng tạo của học sinh (HS) để các em có thể kiến tạo kiến thức từ những gì nhà trường mang đến cho họ, để họ thực sự thấy rằng mỗi ngày đến trường là một ngày có ích. Sự hiện diện của một nền giáo dục (GD) như vậy phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quyết định nhất là quan niệm về vai trò của người thầy.

* Mẫu giáo viên hiệu quả

Người giáo viên hiệu quả phải có các phẩm chất nghề phù hợp như: Thế giới quan khoa học; lí tưởng nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lòng yêu nghề (yêu lao động sư phạm).

Người giáo viên hiệu quả phải có năng lực sư phạm phù hợp: Năng lực dạy học, năng lực giáo dục.

Năng lực của người GV là nhũng thuộc tính tâm lí giúp họ hoành thành tốt hoạt động dạy học và giáo dục. Năng lực của người GV được chia thành ba nhóm: nhóm năng lực dạy học, nhóm năng lực giáo dục, nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm.

Nhóm năng lực dạy học

– Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục

– Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy giáo

– Năng lực lựa chọn và khai thác nội dung học tập.

– Năng lực tổ chức hoạt động của học sinh, sử dụng các kĩ thuật dạy học phù hợp trong quá trình dạy học.

– Năng lực ngôn ngữ.

Nhóm NL giáo dục

– NL vạch dự án phát triển nhân cách cho HS.

– Năng lực giao tiếp sư phạm.

– Năng lực cảm hóa học sinh.

– Năng lực ứng xử sư phạm.

– Năng lực tham vấn, tư vấn, hướng dẫn

– Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm.

3.8. Chuyên đề 8 “Đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục trường Tiểu học”

* Khái quát về chất lượng giáo dục và chất lượng giáo dục tiểu học

Hiện nay, trên thế giới có khá nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng giáo dục. Từ quan niệm “Chất lượng là mức độ đáp ứng mục tiêu”, có thể hiểu “Chất lượng giáo dục là mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục”. Ở đây, mục tiệu giáo dục được hiểu một cách toàn diện, bao gồm cả triết lý giáo dục, định hướng, mục đích của cả hệ thống giáo dục và sứ mạng, các nhiệm vụ cụ thể của cơ sở giáo dục. Nó thể hiện những đòi hỏi của xã hội đối với con người – nguồn nhân lực mà giáo dục có nhiệm vụ phải đào tạo.Sản phẩm của quá trình giáo dục – đào tạo là con người với tổng hoà những chuẩn mực về nhân cách, trình độ, kỹ năng, đạo đức,.. . hết sức đa dạng, phức tạp và luôn biến động, phát triển. Tuy người học có chung chế độ xã hội, thể chế chính trị, môi trường giáo dục (thậm chí học chung một trường, một lớp) nhưng sự phát triển nhân cách của họ hoàn toàn khác nhau vì động cơ, thái độ, năng lực, bản lĩnh, điều kiện của họ khác nhau. Nhà trường không thể tạo ra những con người hoàn toàn giống nhau và dù có tạo ra được, thì đó cũng không phải mục tiêu mà một nền giáo dục tiên tiến hướng đến.

* Đánh giá chất lượng giáo dục

– Các loại đánh giá: Đánh giá chuẩn đoán, đánh giá hình thành, đánh giá tổng kết.

– Các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng: Theo Thông tư số 42/2012/TT–BGDĐT ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường tiểu học.

– Minh chứng đánh giá: Minh chứng đánh giá là các số liệu, kết quả, các hoạt động, các thông tin, các mối quan hệ, hồ sơ, văn bản, quyết định, biên bản, các băng đĩa, hình ảnh, mô hình…

* Kiểm định chất Iượng giáo dục trường tiểu học

– Mục tiêu kiểm định: Đánh giá hiện trạng của cơ sở giáo dục đáp ứng các tiêu chuẩn đề ra như thế nào?– tức là hiện trạng cơ sở giáo dục có chất lượng và hiệu quả ra sao?; Đánh giá hiện trạng những điển nào là điểm mạnh so với các tiêu chuẩn đề ra của cơ sở giáo dục; Đánh giá hiện trạng những điểm nào là điểm yếu so với các tiêu chuẩn đề ra của cơ sở giáo dục; Trên cơ sở điểm mạnh và điểm yếu phát hiện được so với các tiêu chuẩn đề ra, định ra kế hoạch phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu để phát triển.

9. Chuyên đề 9 ”Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường tiểu học”

* Tác động của hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng đối với nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục

– Giúp phát triển và củng cố triết lí, quan điểm giáo dục của nhà trường.

– Cung cấp những sáng kiến, ý tưởng đổi mới thực tế và hiệu quả hơn.

– Tăng cường sự gắn kết giữa lí thuyết và thực hành trong giáo dục, dạy học.

– Cung cấp cơ sở, cư cứ khoa học thực tế giúp điều chỉnh hợp lí các hoạt động giáo dục và dạy học.

– Giúp cập nhật những kiến thức, kĩ năng giáo dục, dạy học mới nhất.

– Phát triển chuyên môn cho giáo viên và tạo nên môi trường văn hóa học thuật chuyên nghiệp.quan giữa điểm số các bài kiểm tra sử dụng trong NCKHSPƯD và điểm các bài kiểm tra thông thường là một cách kiểm chứng độ giá trị của dữ liệu.

Ba phương pháp có tính ứng dụng cao trong việc kiểm chứng độ giá trị của dữ liệu trong nghiên cứu tác động gồm: Độ giá trị nội dung; Độ giá trị đồng quy, Độ giá trị dự báo.

Do độ giá trị dự báo phụ thuộc vào kết quả bài kiểm tra sẽ thực hiện trong tương lai, người nghiên cứu cần chờ đợi.

1.10. Chuyên đề 10 “Xây dựng môi trường văn hóa, phát triển thương hiệu nhà trường và liên kết, hợp tác quốc tế”

* Một số khía cạnh của văn hóa nhà trường

Vân hoá ứng xử

Xét trên nhiều khía cạnh, văn hoá ứng xử tương đồng với văn hoá giao tiếp, văn hoá hành vi (trong môi trường học đường). Văn hoá ứng xử được biểu hiện thông qua hành vi ứng xử của các chủ thé tham gia hoạt động giáo dục đào tạo trong nhà trường, là lối sống văn minh trong trường học thể hiện như:

– Ứng xử của thầy, cô giáo với HS, sinh viên thể hiện như: sự quan tâm đến HS, sinh viên, biết tôn trọng người học, biết phát hiện ra ưu điểm, nhược điểm của người học để chỉ bảo, hướng dẫn, giáo dục… Thầy, cô luôn gương mẫu trước HS, sinh viên.

– Ứng xử của HS, sinh viên với thầy, cô giáo thế hiện ở sự kính trọng, yêu quý của người học với thầy, cô giáo; hiểu được những chỉ bảo, giáo dục của thầy, cô và thực hiện điều đó tự giác, có trách nhiệm.

– Ứng xừ giữa lãnh đạo với GV, nhân viên thể hiện ở chỗ: người lãnh đạo phải có năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục. Người lãnh đạo có lòng vị tha, độ lượng, tôn trọng GV, nhân viên, xây dựng được bầu không khí lành mạnh trong tập thể nhà trường.

– Ứng xử giữa các đồng nghiệp, HS, sinh viên với nhau thể hiện qua cách đối xử mang tính tôn trọng, thân thiện, giúp đỡ lẫn nhau.

Tất cả các úng xử trong nhà trường là nhằm xây dựng một môi trường sống văn minh, lịch sự trong nhà trường.

Văn hoá học tập

Trong nhà trường, hoạt động chủ đạo là hoạt động dạỵ học của GV và hoạt động học tập của HS. Vì vậy, vãn hoá học tập phải là khía cạnh nổi bật trong nhà trường. Một môi trường mà ở đó không những người học mà cả người dạy đều không ngừng học tập nhằm tìm kiếm những tri thức mới: thầy học tập trò, trò học tập thầy, giữa các em HS học tập lẫn nhau, cùng giúp đỡ nhau tiến bộ.

Văn hoá thi cử

Trong nhà trường, văn hoá thi cử được biểu hiện ở chỗ: HS tự giác, nghiêm túc thực hiện nội quy, quy chế thi; không có hiện tượng HS quay cóp bài, sử dụng tài liệu trong kì thi; không có hiện tượng mua, bán điểm nhằm làm sai lệch kết quả kì thi. GV thực hiện nghiêm túc quy chế thi; đảm bảo tính khách quan, công bằng trong khâu coi và chấm thì; không có hiện tượng “chạy trường, chạy lớp”…

Văn hoá chìa sẻ

Trong nhà trường, văn hoá chia sẻ được thề hiện ở tinh thần đoàn kết của tập thề nhà trường vượt qua những khó khăn, trở ngại, thách thức; đồng cam, cộng khổ, giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở chân thành, thẳng thắn.

Văn hoá chia sẻ bao gồm các nội dung như: trao đổi về chuyên môn, học thuật của các cán bộ GV, chia sẻ nhũng kiến thức trong quá trình học tập của HS… nhằm tạo nên bầu không khí tươi vui, dân chủ, kích thích tính sáng tạo trong học tập của người học

Trong nhà trường, văn hoá chia sẻ được thể hiện ở các mối quan hệ sau đây:

Sự chia sẻ giữa các giữa thầy, cô giáo với HS

Sự chia sẻ giữa HS với thầy, cô giáo

Sự chia sẻ giữa lãnh đạo với GV, nhân viên

Sự chia sẻ giữa các đồng nghiệp, HS với nhau

Bao trùm lên các khía cạnh của văn hoá nhà trường là văn hoá giao tiếp

Khái niệm văn hoá giao tiếp:

“Văn hoá giao tiếp là một bộ phận trong tồng thể văn hoá, nhằm chỉ quan hệ giao tiếp có văn hoá của mỗi người trong xã hội, là tổ họp của các thành tố: lời nói, cử chỉ, hành vi, thái độ, cách ứng xử,.,.” … Giao tiếp trong môi trường tự nhiên hay xã hội đã làm nồi bật lên phong cách đặc trưng, nét văn hoá của mỗi người. Văn hoá giao tiếp không chỉ là phẩm chất có được qua rèn luyện mà còn là tài năng của mỗi người.

– Văn hoá giao tiếp học đường:

Nói đến văn hoá học đường là nói đến văn hoá tổ chức trong nhà trường, vãn hoá môi trường và đặc biệt íà văn hoá giao tiếp học đường. Vãn hoá giao tiếp học đường là quan hệ giao tiếp có văn hoá của mỗi người trong môi trường giáo dục của nhà trường, là lối sống văn minh trong trường học, thể hiện qua các mối quan hệ chính như sau:

+ Giao tiếp giữa thây, cô giáo với HS: thể hiện ở sự quan tâm và tôn trọng HS, biết động viên khuyến khích và hướng dẫn các em vượt qua khó khăn, biết uốn nắn và cảm thông trước những khuyết điểm của HS… Thầy, cô luôn là tấm gương mẫu mực trong công việc và ứng xử trước HS.

+ Giao tiếp giữa HS với thầy, cô giáo: thể hiện bằng sự kính trọng, yêu quý của người học với thầy, cô giáo. Biết lắng nghe và tự giác thực hiện những hướng đẫn đúng đắn và chân thành của thầy, cô.

+ Giao tiếp giữa lãnh đạo với GV, nhân viên: thể hiện người lãnh đạo phải có năng lực giao nhiệm vụ và hướng dẫn cấp dưới cách thức hoàn thành nhiệm vụ. Người lãnh đạo phải có thái độ cởi mở, tôn trọng cấp dưới, biết lắng nghe và biết góp ý chân thành. Có như vậy mới xây dựng được bầu không khí lành mạnh trong tập thể nhà trường.

+ Giao tiếp giữa các đồng nghiệp, HS với nhau: thể hiện qua cách đối xử tôn trọng, thân thiện, giúp đỡ lẫn nhau trong thực hiện nhiệm vụ và học tập.

Thực hiện tốt các mối quan hệ giao tiếp trên là nhằm xây dựng một môi trường nhà trường văn minh, lịch sự, một môi trường văn hoá.

Văn hoá giao tiếp trong nhà trường được coi là các giá trị văn hoá, đạo đức, thấm mĩ mà mỗi cá nhân phải tu dưỡng, rèn luyện mới có được. Các gía trị ấy thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói của chính cá nhân đó. Vãn hoá giao tiếp trong nhà trường thể hiện rõ nhất trong các mối quan hệ cơ bản: thầy – trò, HS – HS. Văn hoá giao tiếp trong nhà trường tuân thủ những quy ước chung về văn hoá giao tiếp của cộng đồng, của dân tộc; tiếp thu các tinh hoa văn hoá của nhân loại dựa trên các giá trị nền tảng truyền thống của dân tộc; đồng thời có những đặc trưng riêng do môi trường văn hoá học đường quy định.

* Những biểu hiện của văn hóa nhà trường

Những biểu hiện tích cực, lành mạnh của văn hóa nhà trường

– Nuôi dưỡng bầu không khí cởi mở, dân chủ, hợp tác, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau;

– Mỗi cán bộ, GV đều biết rõ công việc mình phải làm, hiểu rõ trách nhiệm, luôn có ý thức chia sẻ trách nhiệm, tích cực tham gia vào việc đưa ra các quyết định dạy và học;

– Coi trọng con người, cổ vũ sự nỗ lực hoàn thành công việc và công nhận sự thành công của mỗi người;

– Nhà trường có những chuẩn mực để luôn luôn cải tiến, vươn tới;

– Sáng tạo và đổi mới;

Khuyến khích GV cải tiến phương pháp nâng cao chất lượng dạy và học; GV được khuyến khích tham gia đóng góp ý kiến trong mọi hoạt động của nhà trường;

– Khuyến khích đối thoại và hợp tác, làm việc nhóm;

– Chia sẻ kinh nghiệm và trao đổi chuyên môn;

– Chia sẻ quyền lực, trao quyền, khuyến khích tính tự chịu trách nhiệm;

– Chia sẻ tầm nhìn;

– Nhà trường thể hiện sự quan tâm, có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, lôi kéo cộng đồng cùng tham gia giải quyết những vấn đề của giáo dục.

– Những biểu hiện tiêu cực, không lành mạnh trong nhà trường

– Kiểm soát quá chặt chẽ, đánh mất quyền tự do và tự chủ của cá nhân;

– Quan liêu, nguyên tắc một cách máy móc;

– Trách mắng HS vì các em không có sự tiến bộ;

– Thiếu sự động viên khuyến khích;

– Thiếu sự cởi mở, thiếu sự tin cậy;

– Thiếu sự hợp tác, thiếu sự chia sẻ học hỏi lẫn nhau;

– Mâu thuẫn xung đột nội bộ không được giải quyết kịp thời.

4. Biện pháp vận dụng những kiến thức của các chuyên đề trong phát triển nghề nghiệp bản thân

Biện pháp 1. Nắm vững những kiến thức lí luận từ các chuyên đề bồi dưỡng có liên quan đến hoạt động nghề nghiệp.

Biện pháp 2. Tích cực vận dụng một cách thường xuyên những kiến thức thu lượm được vào hoạt động công tác của bản thân.

Biện pháp 3. Thường xuyên chia sẻ với đồng nghiệp trong quá trình công tác.

C. KẾT LUẬN

Cán bộ quản lí, giáo viên Tiểu học có vai trò và tầm quan trọng to lớn đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục Tiểu học. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên Tiểu học thông qua bồi dưỡng nâng hạng giáo viên Tiểu học theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp là một biện pháp quan trọng và mang lại những hiệu quả thiết thực. Để có thể không ngừng phát triển nghề nghiệp bản thân, mỗi cán bộ quản lí, giáo viên Tiểu học cần có nhận thức đầy đủ, đúng đắn những nội dung của các chuyên đề bồi dưỡng, nắm vững các kĩ năng có liên quan, đồng thời tích cực vận dụng hiệu quả những kiến thức, kĩ năng đã được lĩnh hội trong các hoạt động nghề nghiệp của bản thân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình Pháp luật đại cương (Dùng cho các trường ĐH,CĐ không chuyên ngành luật), NXB Đại học Sư phạm.

2. Nguyễn Vũ Bích Hiền (Chủ biên, 2015), Phát triển và Quản lí Chương trình giáo dục, NXB Đại học Sư phạm.

3. Nguyễn Công Hoàn (2006), Giao tiếp sư phạm, NXB Giáo dục.

4. Giang Hà Huy (1999), Kĩ năng trong quản lí, NXB Thống kê.

5. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật giáo dục, NXB Chính trị Quốc gia.

6. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật trẻ em, NXB Chính trị Quốc gia.

7. Trường ĐHSP Hà Nội (2018), Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên Tiểu học hạng II, NXB Đại học Sư phạm.

8. Phạm Viết Vượng (2004), Nghiên cứu khoa học giáo dục, NXB Giáo dục.

Giáo dục

Bản quyền bài viết thuộc thcs-thptlongphu. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Tác giả: https://thcs-thptlongphu.edu.vn – Trường Lê Hồng Phong
Nguồn: https://thcs-thptlongphu.edu.vn/bai-thu-hoach-nang-hang-giao-vien-tieu-hoc-hang-ii/

Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn

Chuyên mục: Tổng hợp