Biện chứng chủ quan là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan

0
113
Rate this post

Biện chứng chủ quan là gì?

Biện chứng khách quan là cụm từ được dùng để chỉ biện chứng của các tồn tại vật chất; còn biện chứng chủ quan là cụm từ được dùng để chỉ biện chứng của ý thức.

Ta nhận thấy, trên thực tế thì sẽ có sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm trong việc thực hiện giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.

Theo quan niệm duy tâm thì biện chứng chủ quan chính là cơ sở của biện chứng khách quan. Bên cạnh đó thì theo quan điểm duy vật lại khẳng định biện chứng khách quan là cơ sở của biện chứng chủ quan.

Ph. Ăngghen khẳng định nội dung sau: Biện chứng gọi là khách quan thì nó sẽ chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng khi gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì nó sẽ phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên.

Sự đối lập nhau trong quan niệm đó cũng chính là cơ sở quan trọng để thực hiện việc phân chia phép biện chứng thành: phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.

Ví dụ về biện chứng chủ quan

Một ví dụ minh họa cho khái niệm chủ quan đó là khi giải quyết một vấn đề. Hai người có thể đưa ra hai phương án khác nhau và đều có những lý luận để bảo vệ ý kiến của mình. Nếu như là một trong hai người trên thì chúng ta sẽ bị cái nhìn phiến diện của bản thân làm ảnh hưởng đến sự đánh giá hai phương án giải quyết.

Khi đó, trường hợp sẽ là biện chứng khách quan khi cùng là 1 trường hợp giải quyết vấn đề của 2 người nhưng sẽ cần có một người khác để đưa ra những đánh giá và nhận xét. Vấn đề duy nhất đó là người thứ 3 cần thật công tâm, tỉnh táo và không được thiên vị bất cứ ai trong hai người.

Biện chứng chủ quan là gì? Ví dụ về biện chứng chủ quan
Biện chứng chủ quan là gì? Ví dụ về biện chứng chủ quan

Mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan

Khách quan và chủ quan là hai mặt, hai yếu tố không thể tách rời trong mọi hoạt động của mỗi chủ thể. Nhưng tính chất của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới lại luôn đòi hỏi chủ thể phải giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan sao cho phù hợp với vai trò, vị trí thực sự của con người trong thế giới – nghĩa là phải phù hợp với lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.

Trong mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan thì suy đến cùng, khách quan bao giờ cùng là cơ sở, tiền đề và giữ vai trò quyết định chủ quan. Bởi vì, các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan, không những luôn tồn tại độc lập không lệ thuộc vào chủ thể, luôn buộc chủ thể phải tính đến trước tiên trong mọi hoạt động, mà còn là cội nguồn làm nảy sinh mọi tri thức, tình cảm, ý chí và nguyện vọng của chủ thể. Cả lí luận và thực tiễn đều cho thấy, nếu chỉ bằng nỗ lực chủ quan của mình, con người chưa và không bao giờ xóa bỏ được bất cứ một điều kiện, khả năng hay quy luật khách quan nào. Trái lại, chính những điều kiện khách quan hợp thành hoàn cảnh, môi trường sống và hoạt động hiện thực của con người và chính việc con người nhận thức được sự vận động, biến đổi của những khả năng và quy luật khách quan là điểm xuất phát, là tiền đề làm nảy sinh ở họ những dự kiến, những kế hoạch, hình thành nên trong họ ý chí, quyết tâm hành động cải biến hiện thực vì nhu cầu lợi ích của mình.

Do bản chất năng động vốn có của mình quy định nên con người luôn vươn tới tự do trong mọi hoạt động. Nhưng con người chỉ được tự do hành động trong chừng mực họ nhận thức được ngày càng sâu sắc hơn các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan. Không phải thế giới khách quan khuôn theo ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người, mà trái lại, ý chí, nguyện vọng của con người chỉ đúng khi nó phản ánh được sự vận động biến đổi của những điều kiện, khả năng và quy luật vốn có của thế giới khách quan. Nói cách khác, khách quan quy định nội dung và sự vận động biến đổi của chủ quan.

Giữa các chủ thể có sự khác nhau là ở tính năng động chủ quan trong nhận thức và hành động. Nhưng giới hạn của tính năng động ấy cũng do khách quan quy định. Chủ thể không thể tùy thích đặt ra cho mình những nhiệm vụ, không thể tự mình sáng tạo ra những mục tiêu, phương pháp khi mà quy luật khách quan không cho phép, khi mà điều kiện lịch sử chưa chín muồi. Nói cách khác, mọi hoạt động của con người chỉ là sự phản ánh và hiện thực hóa những nhu cầu đã chín muồi của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ mà con người phải giải quyết là những nhiệm vụ do lịch sử đề ra và quy định nội dung, biện pháp giải quyết. Chúng ta đạt được những thành công trong việc cải tạo hiện thực là do sự phản ánh đúng và hành động theo những quan hệ tất yếu của hiện thực chứ không phải là do những ảo tưởng chủ quan của mình. Tuy vậy, trong khi khẳng định khách quan là nhân tố có vai trò quyết định, triết học Mác-Lênin không những không phủ nhận mà còn đánh giá cao vai trò của tính năng động chủ quan.

Quan điểm trên đây của triết học Mác – Lênin xuất phát từ việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và thế giới khách quan thông qua thực tiễn, xem con người là một thực thể xã hội năng động và hoạt động bản chất của nó là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới, sáng tạo ra đời sống xã hội của chính mình. Chính vì vậy, mặc dù phạm trù chủ quan trước hết phản ánh phẩm chất và năng lực trí tuệ – tinh thần của chủ thể, nhưng vai trò thực sự của nó lại chỉ có thể được đánh giá qua toàn bộ hoạt động của con người so với thế giới khách quan.
Nói đến vai trò của nhân tố chủ quan là nói đến vai trò của con người trong hoạt động (nhận thức và thực tiễn) để cải biến và thống trị thế giới của họ. Con người, do bản chất xã hội của họ quy định, nên luôn có nhu cầu và khả năng tổ chức các hoạt động khám phá thế giới khách quan. Trên cơ sở đó, con người nâng cao tri thức, phát triển ý chí, tình cảm của mình theo hướng ngày càng phù hợp hơn với điều kiện, khả năng và quy luật khách quan của hiện thực. Cũng nhờ đó mà đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ cũng như chủ trương, biện pháp mà con người vạch ra ngày càng đúng đắn hơn, ít mang tính chất chủ quan duy ý chí hơn. Nói cách khác, đó cũng chính là quá trình nhân tố chủ quan của chủ thể ngày càng được khách quan hóa. Đồng thời, chính điều đó lại góp phần nâng cao quyền lực của con người trong việc làm biến đổi thế giới khách quan theo ý chí, nguyện vọng và nhu cầu của họ. Điều đó cũng có nghĩa con người ngày càng trở thành chủ thể thực sự của thế giới khách quan, hay thế giới khách quan ngày càng bị chủ quan hóa bởi hoạt động cải biến của con người.

Vai trò đặc biệt trên đây của nhân tố chủ quan được thể hiện tập trung ở phương thức nó biến các quy luật, các điều kiện và các khả năng khách quan vốn tồn tại và vận động dưới dạng các “xu hướng có thể” thành hiện thực theo hướng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Thông thường, trong tự nhiên, các “xu hướng có thể” tự phát biến thành hiện thực khi đủ điều kiện cần thiết, nhưng trong xã hội quá trình đó lại phụ thuộc một cách quyết định vào vai trò của nhân tố chủ quan.

Mặc dù mọi hoạt động của con người đều phải dựa vào những điều kiện khách quan nhất định, nhưng con người không thụ động chờ đợi sự chín muồi của điều kiện khách quan, mà trái lại, có thể dựa vào năng lực chủ quan của mình để phát hiện các điều kiện khách quan và dựa vào các điều kiện đó để tổ chức, xúc tiến tạo ra những điều kiện khách quan khác cần thiết cho những nhiệm vụ cụ thể của mình. Bằng cách đó, con người có thể thúc đẩy nhanh hơn tiến trình biến khả năng thành hiện thực. Tương tự, trong một phạm vi, một sự vật hiện tượng cụ thể, tiến trình khách quan có thể có nhiều con đường, nhiều khả năng phát triển. Ở đây, vai trò của con người có thể dựa vào năng lực vốn có của mình để lựa chọn, tác động sao cho chỉ một con đường, một khả năng khách quan nào đó phù hợp nhất với tiến trình lịch sử cụ thể và nhu cầu của mình. Bằng cách đó, như thực tế lịch sử cho thấy, con người có thể đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình phát triển của sự vật mà vẫn bảo đảm tính lịch sử tự nhiên của nó. Cuối cùng, vai trò to lớn của nhân tố chủ quan còn thể hiện ở chỗ, mặc dù không xóa bỏ hoặc sáng tạo ra bất cứ quy luật khách quan nào, nhưng bằng năng lực chủ quan của mình, con người có thể điều chỉnh hình thức tác động của quy luật khách quan và kết hợp một cách khéo léo sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật theo hướng phục vụ tốt nhất cho mục đích của mình. Sở dĩ như vậy là vì tính tất yếu về sự tác động của quy luật khách quan không mâu thuẫn với tính phong phú về hình thức và trật tự tác động của nó trong những điều kiện cụ thể khác nhau; mà việc làm biến đổi những điều kiện này lại nằm trong khả năng thực tế của con người.

Tóm lại, “thế giới không thỏa mãn con người, và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình” . Nhưng hành động biến đổi thế giới của con người chỉ có hiệu quả khi nó được thực hiện bởi những công cụ, phương tiện vật chất và phù hợp với quy luật vốn có của thế giới vật chất, nghĩa là hành động ấy luôn là một thể thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn. Quá trình thực tiễn – nhận thức – thực tiễn là một quá trình vô tận với sự chuyển hóa không ngừng giữa khách quan và chủ quan theo hướng đứa con người trở thành chủ thể thực sự của thế giới khách quan. Đó chính là quá trình biện chứng “khách quan hóa chủ quan và chủ quan hóa khách quan”, chống “khách quan chủ nghĩa” và chống “chủ quan duy ý chí”.

Mối quan hệ giữa chủ quan & khách quan
Mối quan hệ giữa chủ quan & khách quan

Biện chứng cái chủ quan và cái khách quan trong tư tưởng của V.I.Lênin

Trước Lênin, khi khám phá ra các quy luật phát triển của xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh đầy thuyết phục vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng. Bằng cách đó, các ông đã luận chứng cho cách tiếp cận duy vật vấn đề mối tương quan giữa cái chủ quan và cái khách quan. Tuy nhiên, vào thời của mình, do hoàn cảnh khách quan mà Mác và Ăngghen đã chủ yếu chú ý luận chứng cho vai trò quyết định của các điều kiện vật chất trong sự phát triển của xã hội. Thời Mác và Ăngghen, cuộc cách mạng XHCN vẫn còn là công việc của tương lai khá xa, trong xã hội tư bản thời đó chưa hình thành đầy đủ các tiền đề kinh tế cần thiết cho bước chuyển từ CNTB lên CNXH.

Trong các nghiên cứu và hoạt động chính trị của mình, Lênin luôn tuân thủ học thuyết Mác về sự thống nhất cái chủ quan và cái khách quan. Người viết: “Chủ nghĩa Mác khác tất cả các lý luận xã hội chủ nghĩa khác ở chỗ nó kết hợp một cách tài tình tính sáng suốt khoa học hoàn toàn trong việc phân tích tình hình khách quan và sự tiến hóa khách quan, với việc thừa nhận một cách hết sức dứt khoát tác dụng của nghị lực cách mạng, tính sáng tạo cách mạng và tính chủ động cách mạng của quần chúng, – và dĩ nhiên là cả của những cá nhân, những tập đoàn, những tổ chức và những chính đảng biết phát hiện ra và thực hiện được sự liên hệ với những giai cấp này hoặc giai cấp khác”.

1. Lênin hiểu điều kiện khách quan là những hoàn cảnh không phụ thuộc vào “ý chí và ý thức, mơ ước và lý thuyết của những cá nhân này hay khác” nhưng lại là cơ sở hoạt động của con người, xác định xu hướng, tính chất và các nhiệm vụ phát triển xã hội, chế định ý chí và các dự định của các chủ thể hành động lịch sử, trực tiếp xác định nội dung hoạt động của họ, đặt ra trước con người những nhiệm vụ xác định và cung cấp phương tiện cho việc giải quyết chúng. Lênin đưa vào khái niệm điều kiện khách quan lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất như là cơ sở vật chất của sự phát triển xã hội, được định hình như kết quả lao động của nhiều người, và do vậy, không phụ thuộc gì vào ý thức và ý chí của từng thế hệ riêng rẽ. Các điều kiện khách quan còn bao gồm cả chế độ chính trị – xã hội, tương quan giữa các giai cấp và lực lượng chính trị trong nước và trên trường quốc tế. Mối liên hệ bên trong giữa các nhân tố khách quan được phản ánh trong các quy luật phát triển xã hội. Như vậy, Lênin không đồng nhất các điều kiện khách quan chỉ riêng với sản xuất vật chất. Chẳng hạn, khi xây dựng khái niệm tình huống cách mạng ông đưa vào các điều kiện khách quan của nó những dấu hiệu vốn không trực tiếp thuộc về tồn tại vật chất.

Lênin đã luận chứng toàn diện cho luận điểm mácxít về vai trò của nhân tố chủ quan trong lịch sử. Đối với Lênin, nhân tố chủ quan là hành trang tinh thần và tư tưởng của mọi người, sự chín chắn chính trị, tính tự giác và tính có tổ chức của họ hướng đến đạt những mục tiêu nhất định. Nhân tố chủ quan phản ánh trước hết những lợi ích của các giai cấp xã hội. Nội dung của nó mang tính giai cấp. Lênin đã phân tích sâu sắc các thành tố cơ bản của nhân tố chủ quan vốn biểu hiện các mục tiêu, ý đồ của chủ thể sáng tạo lịch sử. Thuộc tính cố hữu của nhân tố chủ quan là tính có tổ chức, – là sự kết tinh cao nhất của ý thức giai cấp. Lênin viết: “Chính là để cho quần chúng của một giai cấp nhất định có thể học tập để hiểu rõ những lợi ích của họ và địa vị của họ, học tập để biết cách thực hiện chính sách của họ, chính vì thế mà cần ngay lập tức và với bất kỳ giá nào phải có một tổ chức của những phần tử tiên tiến của giai cấp ấy”.

Thành tố quan trọng của nhân tố chủ quan là trạng thái tâm lý của những người tham gia vào hoạt động cải biến xã hội. Lênin viết: “còn cách mạng – trong những lúc mà tất cả những tài trí con người được đặc biệt phát huy và đặc biệt khẩn trương – lại là sự nghiệp của ý thức, ý chí, nhiệt tình và trí tưởng tượng của hàng chục triệu người được cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhất khích lệ”. Ngoài ra, các trạng thái đạo đức của con người (tính vững chãi, kiên định) cũng là những thành tố thuộc cái chủ quan. Tuy nhiên, cũng không thể dựa vào đó mà quy nhân tố chủ quan chỉ về ý thức con người, về cái tinh thần. Cách hiểu quá hẹp như vậy làm nghèo đi nội dung thực tế của nhân tố đó, hạn chế tính hiệu lực của nó. Ý thức và tính tự giác là những thành phần không tách rời của nhân tố chủ quan, thể hiện trong hoạt động thực tiễn của quần chúng, trong chính hoạt động của con người. “Chúng ta căn cứ vào cái gì để xét đoán “những tư tưởng và tình cảm” thực của những cá nhân có thực? – Lênin hỏi: “Tất nhiên, căn cứ đó chỉ có thể là những hành động xã hội của các cá nhân ấy, tức là những dữ kiện xã hội”. Lênin nhấn mạnh tính định hướng hành động thực tiễn của nhân tố chủ quan khiến cho nó có sức sống, gắn kết tất cả các thành tố của nó thành một chỉnh thể thống nhất. Tính tự giác tự thân mà không có hoạt động thực tiễn của con người sẽ không mang lại kết quả.

Cũng là không đúng nếu coi hoạt động tự giác của con người dựa trên tri thức về các quy luật phát triển xã hội mới là nhân tố chủ quan. Lênin đưa vào khái niệm nhân tố chủ quan cả hoạt động tự phát của quần chúng. Lênin viết, Công xã Pari đã “nảy sinh một cách tự phát, không ai chuẩn bị nó một cách có ý thức và có kế hoạch cả”. Chú ý đến hoạt động tự phát trong thành phần của nhân tố chủ quan, nhưng phải hiểu: nấc thang phát triển cao nhất của nhân tố chủ quan là hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân, của các giai cấp, của các tập đoàn xã hội, của các chính đảng tuân theo các quy luật phát triển xã hội đã được nhận thức và nhờ đó mà sơ bộ từ trước đã có thể thấy những kết quả chính yếu do các cải biến xã hội được thực hiện mang lại.

Biện chứng cái chủ quan và cái khách quan trong tư tưởng của V.I.Lênin
Biện chứng cái chủ quan và cái khách quan trong tư tưởng của V.I.Lênin

2. Lênin vạch ra sự tương tác biện chứng phức tạp giữa cái chủ quan và cái khách quan. Vai trò hàng đầu trong sự phát triển lịch sử – xã hội thuộc về các điều kiện khách quan vốn quyết định tính chất và chiều hướng chủ yếu của các quá trình xã hội. Nhân tố chủ quan, xét về nguồn gốc và các chức năng – là sản phẩm của các điều kiện khách quan. Những tình cảm, tư tưởng, ý chí, mong muốn đa dạng đều được xác định bởi các điều kiện khách quan. Chẳng hạn, tính tự phát, tính thiếu tổ chức của các cuộc nổi dậy nông dân chống áp bức và bóc lột phong kiến là kết quả của sự phân tán, manh mún về kinh tế, trong khi đó, tính tự giác, tính tổ chức và tính cách mạng của giai cấp công nhân được lý giải trước hết bởi vị trí của nó trong hệ thống sản xuất TBCN.

Tuy nhiên, nhân tố chủ quan không phải là hệ quả tự nhiên của các điều kiện khách quan. Nó cũng có tính độc lập tương đối, có các tính quy luật phát triển, logic riêng của mình và chỉ xét đến cùng mới bị quyết định bởi các điều kiện khách quan. Trong lịch sử đã có những trường hợp khi các tiền đề khách quan của sự cải biến xã hội đã có rồi mà nhân tố chủ quan còn chưa chín muồi. Chẳng hạn, việc có tình huống cách mạng ở nước Đức vào năm 1918 nhưng đã không dẫn đến thắng lợi của giai cấp vô sản, bởi lẽ, như Lênin viết “trong thời gian khủng hoảng, công nhân Đức không có một chính đảng thật sự cách mạng”. Đó là do thiếu nhân tố chủ quan, chỉ có riêng những điều kiện khách quan là chưa đủ để thực hiện những cải biến cách mạng căn bản, các điều kiện đó chỉ biểu hiện như những khả năng hiện thực. Chính nhân tố chủ quan đã chín muồi mới là lực lượng hiện thực hóa khả năng đã có sẵn trong các điều kiện khách quan. Do vậy, Lênin dành nhiều nỗ lực để vạch ra nhân tố chủ quan của cách mạng trong sự thống nhất biện chứng với các yếu tố khách quan.

Khi đã có các điều kiện khách quan cần thiết thì nhân tố chủ quan giữ vai trò quyết định trong các cải biến xã hội. Lênin viết: “Trong lúc các nước tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư bản đang tan rã, trong lúc giai cấp đó tuyệt vọng và gặp cơn khủng hoảng, thì chỉ có nhân tố chính trị đó mới là nhân tố quyết định… Trong trường hợp này, cái quyết định chính là sự tự giác và tính kiên quyết của giai cấp công nhân. Nếu giai cấp công nhân sẵn sàng hy sinh, nếu nó tỏ ra có khả năng dốc toàn lực ra thì nhiệm vụ khắc được giải quyết… Tinh thần quyết tâm của giai cấp công nhân, ý chí sắt đá của nó trong việc thực hiện khẩu hiệu “Chúng ta thà chết chứ không chịu khuất phục!” không phải chỉ là nhân tố lịch sử mà còn là nhân tố quyết định, nhân tố chiến thắng nữa”.

Lênin không ít lần nhấn mạnh rằng, vai trò cải biến, tích cực của nhân tố chủ quan có thể biểu hiện chỉ khi nào, nó, thứ nhất, dựa trên những điều kiện khách quan đã chín muồi, xuất phát từ chúng; thứ hai, được chỉ đạo bởi các các quy luật phát triển xã hội; thứ ba, được củng cố thêm bởi các khả năng vật chất cần thiết; thứ tư, kịp thời, đúng lúc thể hiện hiệu lực của mình. Sự nhạy bén thiên tài đã giúp Lênin chọn lựa thời điểm cho những thay đổi cần thiết. Ông đã chính xác khi lựa chọn thời điểm cho cuộc khởi nghĩa vũ trang vào tháng 10-1917. Theo Người, chậm trễ hơn nữa là mất hết.

3. Ngoài việc xây dựng học thuyết hoàn chỉnh về các bộ phận và sự chín muồi của nhân tố chủ quan trong cách mạng XHCN ở thời kỳ giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, Lênin còn phân tích sâu sắc biện chứng của cái khách quan và cái chủ quan trong quá trình xây dựng CNXH. Ông luận chứng cho luận điểm mới về nguyên tắc rằng, sau khi giai cấp công nhân nắm quyền lãnh đạo chính trị và thủ tiêu chế độ bóc lột thì giữa các nhân tố khách quan và chủ quan sẽ có một sự tương thích xác định, sự phát triển của chúng sẽ diễn ra đồng đều hơn. Cơ sở của sự phù hợp như thế là việc xác lập sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, hoạt động kiến tạo của nhà nước XHCN, vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản. Xã hội XHCN không phải phát triển một cách tự phát, mà là một cách có kế hoạch, điều này có cơ sở từ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, sự nhận thức các tính quy luật của công cuộc kiến thiết XHCN. Đây cũng chính là cội nguồn của sự thống nhất cái chủ quan và cái khách quan dưới CNXH.

Việc thiết lập sự cân bằng giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan có nghĩa là hoạt động của con người ngày càng trở thành hình thức hiện thực hóa phù hợp hơn với các quy luật khách quan của công cuộc xây dựng CNXH. Các quá trình xã hội phụ thuộc hơn vào tính tự giác và tính tổ chức của con người. Mọi người, được trang bị tri thức về các quy luật khách quan, sẽ hướng toàn bộ quá trình xã hội vào việc thực hiện các mục đích đặt ra từ trước một cách tự giác và có kế hoạch. Lênin nói rằng, tính kế hoạch trong sự phát triển xã hội là sự cân đối được tự giác đảm bảo. Điều đó có nghĩa là con người nhận thức trước trong các kế hoạch của mình những đòi hỏi của các điều kiện khách quan và của khả năng thực hiện chúng.

Dĩ nhiên, việc thiết lập sự tương thích giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan diễn ra không phải tức thì, mà đạt được nhờ kết quả cuộc đấu tranh kiên trì và dài lâu của giai cấp công nhân, của tất cả nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Sự thống nhất giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan bắt nguồn từ việc các lợi ích của giai cấp công nhân, của tất cả những người lao động trùng với các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Lênin viết, sự phát triển lực lượng sản xuất “tự hướng tới chính cái mục đích mà những người xã hội chủ nghĩa đã tự đề ra cho mình”.

Biện chứng của cái khách quan và cái chủ quan trong thời kỳ xây dựng CNXH quy định các biện pháp giải quyết các nhiệm vụ kiến thiết, trong đó phải tính đến cả sự chín muồi của các điều kiện kinh tế – vật chất, trình độ tự giác và tính tổ chức của quần chúng lao động, tức là nhân tố chủ quan. Ở đây cái khách quan chủ yếu và về cơ bản vẫn xác định xu hướng và tính chất của sự phát triển lịch sử, tạo ra những khả năng và tiền đề hiện thực để giải quyết các nhiệm vụ xã hội đã được lịch sử xác định, quy định nội dung và giới hạn của hành động hiệu quả của nhân tố chủ quan. Ý chí, lòng nhiệt tình, quyết tâm của con người, nếu chúng bị tách khỏi các điều kiện khách quan, không tính đến các yêu cầu của các quy luật khách quan đều dẫn đến chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.

Lênin viết: “Chúng ta đã không ra lệnh lập tức thực hành chủ nghĩa xã hội trong toàn bộ nền công nghiệp của nước ta, vì chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thiết lập và đứng vững được khi nào giai cấp công nhân đã biết quản lý và khi nào quần chúng công nhân đã củng cố được uy tín của mình. Không thế, chủ nghĩa xã hội chỉ là một nguyện vọng mà thôi”. Mức độ tự giác, có tổ chức của giai cấp công nhân và toàn thể những người lao động lại quyết định các hình thức và tính chất việc giải quyết các nhiệm vụ trong quá trình xây dựng CNXH.

Lênin yêu cầu, các nhiệm vụ đặt ra cần phải gần gũi với quần chúng nhân dân, phải được họ đón nhận như những nhiệm vụ riêng của mình. Trong trường hợp ngược lại đảng cộng sản sẽ bị đe dọa bởi hiểm họa xa rời quần chúng. Dĩ nhiên, như Lênin đã chỉ ra, đảng không phải thụ động thích ứng với trình độ ý thức của quần chúng. Đảng cần giáo dục, nâng đỡ ý thức cho họ, thuyết phục về sự cần thiết phải giải quyết các nhiệm vụ đã đặt ra.

Lênin chỉ rõ rằng, xây dựng CNXH là hoạt động tích cực, tự giác của con người, được quy định bởi các nhu cầu, lợi ích, khát vọng của họ như động lực lôi kéo mạnh mẽ sự phát triển xã hội. Chính các lợi ích của con người nằm ở cả các điều kiện khách quan, lẫn của nhân tố chủ quan.

Lênin cũng đề cao ý nghĩa to lớn của việc kết hợp đúng đắn sự khuyến khích vật chất và khích lệ tinh thần đối với lao động như là yếu tố quan trọng đảm bảo sự thống nhất các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Khuyến khích vật chất không mâu thuẫn với khích lệ tinh thần, mà còn thúc đẩy sự phát triển và thể hiện của chúng. Khuyến khích vật chất và động viên tinh thần bổ sung nhau và cùng tích cực thúc đẩy tinh thần và thái độ lao động hăng say, tích cực.

Tính hiệu quả và hiệu lực của nhân tố chủ quan dưới CNXH trực tiếp thể hiện trong việc quản lý các quá trình xã hội. Trong một loạt các tác phẩm viết sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin đã xây dựng cả một chương trình chỉnh thể về quản lý xã hội theo khoa học dưới CNXH. Cơ sở của nó là các nguyên tắc tập trung dân chủ, tuyển chọn người và kiểm tra việc thực hiện, thu hút quần chúng vào công việc quản lý xã hội và nhà nước, trong đó ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống quan liêu, lãng phí…

Sự phát triển nền dân chủ XHCN, sự tăng cường kiểm soát từ phía đông đảo quần chúng nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước và các quan chức cũng có ý nghĩa to lớn cho việc hoàn thiện nhân tố chủ quan. Sự thảo luận chung rộng rãi của những người lao động về những vấn đề và đạo luật quan trọng nhất của nhà nước là phương tiện cực kỳ quan trọng để phát triển ý thức xã hội, để đạt tới ý chí thống nhất. Lênin viết: “Bằng phương pháp đó, chúng ta nâng cao được sự giác ngộ… chính bằng phương pháp đó chúng ta đã thảo ra được các quyết định chung và rèn đúc được ý chí chung”.

Hiện nay, Đảng và nhân dân ta đang giải quyết những nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và của toàn bộ nền kinh tế. Những năm gần đây đầu tư cơ bản rất lớn. Tuy nhiên, các thành tựu khoa học và kỹ thuật còn chậm được áp dụng vào sản xuất. Nhân tố chủ quan, đặc biệt là trình độ và các hình thức quản lý, điều hành trong lĩnh vực sản xuất vật chất chưa tương thích hoàn toàn với lực lượng sản xuất xã hội đã có sự lớn mạnh vượt bậc.

Sự gia tăng ý nghĩa, vai trò của nhân tố chủ quan trong điều kiện định hướng XHCN được quy định một cách khách quan bởi sự tăng cường vai trò của quần chúng nhân dân như là chủ thể của quá trình lịch sử. Một mặt, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất chính của xã hội, là điều kiện khách quan không thể thiếu của sự phát triển của nó, mặt khác, chính họ sáng tạo ra lịch sử, tính tích cực, tính tự giác, tính tổ chức của họ cấu thành nội dung quan trọng nhất của nhân tố chủ quan.

Đảng Cộng sản Việt Nam được dẫn dắt bởi học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh “thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị” nhằm chuẩn bị các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, đảm bảo cho sự phù hợp với nhau để giải quyết thành công các nhiệm vụ xây dựng đất nước hiện nay.

Tuân theo tư tưởng của Lênin về biện chứng của cái khách quan và cái chủ quan là một phương pháp luận giúp Đảng ta nhận thức được sâu sắc hơn những thời cơ, thuận lợi, cũng như những thách thức, khó khăn và đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

********************

 

Bản quyền bài viết thuộc thcs-thptlongphu. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://thcs-thptlongphu.edu.vn
https://thcs-thptlongphu.edu.vn/bien-chung-chu-quan-la-gi-moi-quan-he-bien-chung-giua-khach-quan-va-chu-quan/

Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn

Chuyên mục: Tổng hợp