Bình giảng bài thơ Tràng giang do thầy cô trường THPT Sóc Trang biên soạn sẽ giúp các em tìm hiểu về những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Qua đó các em sẽ thấy được giá trị của bài thơ và cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm và tài năng nghệ thuật độc đáo của Huy Cận được thể hiện qua bài thơ.
Đề bài: Anh/chị hãy Bình giảng bài thơ Tràng giang của Huy Cận để làm nổi bật những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Xem thêm:
Dàn ý Bình giảng bài thơ Tràng giang của Huy Cận
1. Mở bài
Giới thiệu ngắn gọn về Huy Cận và bài thơ Tràng giang.
2. Thân bài
– Thời gian sáng tác: năm 1940
– Nội dung chủ đạo: Nỗi buồn, những trăn trở suy tư về thân phận nhỏ bé, vô định của con người giữa đất trời rộng lớn.
– Bài thơ mở ra không gian rộng, dài của trời và sông –> Nổi bật sự cô quạnh, bâng khuâng của con người.
– Hình ảnh thiên nhiên: Sông nước, mây trời:
- “Tràng giang” là con sông dài, con sông bất tận với những gợn sóng lăn tăn.
- Nhịp thơ 4/3 mang âm hưởng chậm rãi, đìu hiu với từ láy “điệp điệp” tả nỗi buồn.
- Không gian sông nước rộng lớn nhưng vắng vẻ, đìu hiu thấm đượm nỗi buồn.
– Nỗi buồn của con người:
- “Con thuyền xuôi mái nước song song”, trong cái không gian cao vời vợi của trời mây, cái miên man của những con sóng, thuyền trở nên đơn côi đến lạ lùng.
- Dòng sông không đơn thuần chỉ mang dòng nước, mà còn mang có nỗi u buồn của nhân vật trữ tình.
–> Lấy nỗi sầu làm tinh thần chủ đạo, Huy Cận luôn mượn thiên nhiên, nói thiên nhiên sầu hay là nói ra chính cái sầu trong tâm khảm.
+ Hình ảnh “một cành củi khô” gợi ra sự nhỏ bé, vô định giữa dòng đời của con người.
+ Nỗi buồn lên đến “chót vót” rồi lại tràn trề ra cả “sông dài trời rộng”.
+ Hình ảnh bèo trôi dạt chính là thân phận của nhà thơ trong xã hội đương thời, số phận của một trí thức.+ Nỗi nhớ quê hương tha thiết của một người con xa xứ mang tâm hồn nhạy cảm
3. Kết bài
Kết luận chung
Bình giảng bài thơ Tràng giang – Mẫu 1
Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đưa ta đến những sông hồ, bờ bãi, biển cồn, núi cao, đèo dốc… những không gian trời nước mênh mông. Nghĩa là ta sẽ phải đối diện với cái vô cùng vô tận của không gian, cái vô thủy vô chung của thời gian. Khi ấy, ngay cả những người vô tâm nhất cũng không tránh khỏi cảm giác cô đơn. Bởi người ta thấy rõ hơn bao giờ hết rằng con người thật là nhỏ nhoi, kiếp người chỉ là thoáng chốc. Đời người sao quá phù du! Ta bỗng thấy mình như đang bơ vơ lưu lạc giữa cái mênh mông của đất trời, trôi nổi trong cái xa vắng, rợn ngợp của dòng thời gian. Ta bỗng thấy chơi vơi giữa thế gian này …. Ấy là lúc có thể đọc thơ Huy Cận. Bởi đó là thế giới của Lửa thiêng, thế giới của Tràng giang. Thi sĩ đã cất lên giùm ta cái cảm xúc thuộc về nỗi sầu nhân thế cố hữu đó.
Ngày trước, để bênh vực cho bài Tràng giang (cũng là bênh vực cho “thơ mới!”) người ta đã phải viện ra cái kỉ niệm của một chiến sĩ nào đó mà rằng: một người cách mạng như thế cũng rất yêu hai câu đầu của bài Tràng giang, vậy là bài thơ này hoàn toàn lành mạnh, nỗi buồn ở đấy là trong sáng, chứ không có hại gì ! Rồi ngay cả Xuân Diệu cũng phải lập cả một hàng rào che quanh để bênh vực cho lòng yêu thiên nhiên của bài thơ. Không, lòng yêu thiên nhiên tạo vật tự nó là một giá trị, ngang hàng với những tình yêu khác. Lòng yêu thiên nhiên là một cảm xúc thuộc về nhân tính. Tự nó không cần bảo vệ!
Tràng giang không nhất thiết phải là sông Hồng, sông Cửu Long, có thể là Hoàng Hà, Hằng Hà, Von-ga, Dương Tử,… cũng được chứ sao. Tràng giang là một tạo vật thiên nhiên. Nó có thể được gợi ý, gợi tứ từ sông Hồng, từ một chỗ đứng xác định là bến Chèm. Nhưng khi đã thành hình tượng “tràng giang” thì nó đã khước từ mọi địa danh cụ thể để trở thành một tạo vật thiên nhiên phổ quát rồi. Trùng giang trước hết là thơ tạo vật, sau đó mới là thơ đất nước. Vì thế, lòng yêu của thi sĩ trong đó trước hết là một lòng yêu dành cho thiên nhiên tạo vật ! Chừng ấy chưa đủ làm nên một thi phẩm tầm vóc hay sao !
Cảm hứng của bài thơ quả là cảm hứng không gian. Không gian được trải ra từ mặt sông lên tận chót vót đỉnh trời, không gian được mở ra từ thẳm sâu vũ trụ vào tận thăm thẳm tâm linh con người. Ấy là một thế giới vừa được nhìn bằng sự chiêm nghiêm cổ điển, vừa dược cảm nhận bằng tâm thế cô đơn của một cái tôi hiện đại, rất đặc trưng cho thơ mới. Có lẽ vì thế chăng mà Tràng giang hiện ra như một bức tranh tạo vật trường cửu, lớn lao, vừa hoang sơ vừa cổ kính, trong đó thi sĩ hiện lên như một lữ thứ đơn độc lạc loài ?
Trước hết, Tràng giang là một không gian mênh mông vô biên.
Ngay cái tên bài thơ đã như một cửa ngõ mở vào vồ biên rồi. Tràng giang gợi ra hình tượng một con sông chảy mênh mang giữa trời đất. Và câu đề từ, tuy vẫn còn nằm ngoài văn bản, nhưng nó đã như một bức rèm môi giới ta với vô tận mà người đọc cần vén lên, như một hành lang mở thông vào vô biên mà người đọc cần bước theo: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Dầu sao, những hình ảnh sống động của một thế giới có thể cảm nhận hoàn toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với những câu đầu :
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Có lẽ cái chất thơ của sông nước đã nhập vào những câu thế này để phô bày vẻ đẹp của nó. Câu thứ nhất tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, lan xa, gối lên nhau, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong ruổi mãi về cuối trời. Không gian vừa mở ra bẻ rộng, vừa vươn theo chiều dài. Đúng là nó có thấp thoáng âm hưởng hai câu thơ cũng tả sông nước trong bài Đăng Cao nổi tiếng của Đỗ Phủ :
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,
Bạn đang xem: Bình giảng bài thơ Tràng giang để làm nổi bật những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
(Ngàn cây bát ngát, lá rụng xào xạc,
Dòng sông dằng dặc, nước cuồn cuộn trôi.)
Cũng là đối xứng, nhưng Đỗ Phủ viết theo lối đối chọi, còn Huy Cận – có cải biên, chỉ dùng tương xứng thôi. Cũng dùng những từ láy nguyên để gợi tả, trong khi tác giả Đăng Cao đặt ở giữa câu, thì tác giả Tràng giang lại đẩy xuống cuối câu. Nhờ thế hai từ láy nguyên điệp điệp và song song tạo ra được dư ba. Nghĩa là lời thơ đã ngừng mà ý hướng và âm hưởng vẫn còn vang vọng như dội mãi vào vô biên.
Suốt dọc bài thơ, Huy Cận còn dày công khắc hoạ vẻ mênh mông vô biên bằng biết bao chi tiết giàu tính nghệ thuật nữa. Vừa dùng cái lớn lao để gợi sự mênh mông, vừa dùng cái hữu hạn để gợi sự vô cùng. Ấy là hàng trăm ngả sông, bao cồn đất, bao bờ xanh, bãi vàng, lớp lớp mây cao đùn núi bạc, ấy là một cành củi khô, một bóng chim nhỏ,… Nhưng có lẽ bức tranh vô biên của Tràng giang đạt đến tận cùng là ở hại câu này:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót ;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Câu trên là sự vô biên được mở về chiều cao. Câu dưới là sự vô biên về cả bề rộng và chiều dài. Có một khoảng không gian đang giãn nở ra trong cụm từ : “Nắng xuống, trời lên”. Hai động từ ngược hướng lên và xuống đem lại một cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Và nó được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót”. Có cái gì như phi lí ! Có lẽ không chịu được về phi lí mà có nhiều người đã cố tình in và viết thành “sầu chót vót” để dễ hình dung hơn. Tiếc rằng, chính “sâu” mới là sự xuất thần của hồn thơ. Đây không phải là sự lạ hoá ngôn từ. Nếu có, thì trước hết là sự lạ hoá trong cách nhìn, trong cảm giác. Ánh mắt tác giả không dừng lại ở đỉnh trời một cách thường tình để nhận biết về chiều cao, mà nó như xuyên vào đáy vũ trụ để cảm nhận về chiều sâu. Song, dẫu sao, đây vẫn là chiều sâu của một cái nhìn ngước lên. Cho nên, mới là “sâu chót vót”. Chót vót vốn là một từ láy độc quyền của chiều cao, bỗng phát huy một hiệu quả không ngờ. Nó còn gợi sắc thái chưa hoàn tất. Dường như cái nhìn của thi sĩ vươn tới đâu thì trời sẽ sâu tới đó, mỗi lúc một chót vót hơn. Vừa tương xứng vừa hô ứng với câu trên, câu thứ hai mở ra bát ngát, tít tắp. Câu thơ được viết giản dị, không chữ nào lạ, ngỡ như chỉ là sự sắp xếp các chiểu kích của trùng giang, thế thôi ! Vậy mà thấy động. Các trạng thái tĩnh, các tính từ dường như “cựa quậy” đòi động từ hoá. Trong áp lực của cái nhìn xa hút, có cảm giác “sông dài”(ra) trời rộng (thêm) bến cô liêu (đi) vậy !
Thật lạ là, không có chữ nào lạ hoá, mà vẫn mới lạ. Thế mới biết, cái mới lạ chân chính trong nghộ thuật chỉ có thể bắt nguồn từ cái mới lạ của cảm xúc.
Là một người thuộc lớp Tây học, nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi, nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường. Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả cái trạng thái tĩnh của thế giới. Có lẽ vì triết học nơi đây đã quan niệm tĩnh là gốc của động, tĩnh là cội nguồn của thế giới ? Cùng với nó, tĩnh tại và thanh vắng cũng trở thành một tiêu chuẩn mĩ học phổ biến của cái đẹp trong thiên nhiên và nghệ thuật về thiên nhiên. Tái tạo cái tĩnh vắng mênh mông trong nghệ thuật được xem là tái tạo hư không. Huy Cận cũng tái tạo như thế, nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn. Cái thanh vắng của thơ xưa được cảm nhận bằng sự an nhiên tự tại. Còn sự trống vắng của Trùng giang lại là một thế giới quạnh hiu, cơ hồ tuyệt đối hoang vắng. Đối diện với không gian vô biên, trống trải, cái tôi ấy đi tìm kiếm sự cảm thông của đồng loại. Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng.
Đúng ra, con người có thoáng hiện ra trong hình bóng chiếc thuyền ở đầu bài thơ. Một con thuyền “xuôi mái”, thụ động buông trôi trên dòng nước luân lạc. Và nó cũng chỉ hiện ra thoáng chốc, rồi sau đó nép mình vào bờ bãi nào mà mất hút trên sông nước, trả lại không gian cho sự ngự trị của muôn ngả sông, nghìn luồng sóng:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả ;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Khát thèm âm thanh của cuộc sống người, thi sĩ lắng nghe, không dám mơ đến thứ âm thanh náo động vui tươi, chỉ mong gặp thứ âm thanh xoàng xĩnh nhất, buồn chán nhất của cuộc sống người, thế mà cũng không có :
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Chữ “đâu” có người hiểu theo nghĩa phủ định (đâu có). Thực ra trong văn cảnh này chỉ có thể hiểu theo nghĩa nơi chốn (đâu đó) : Nghe vẳng lại từ một làng xa nào ở đâu đó tiếng “vãn chợ chiều” xào xạc. Một âm thanh gợi buồn vì không gì buồn bằng cảnh chợ chiều, cảnh tan chợ. Âm thanh này còn làm cho cảnh vật càng thêm vắng lặng : có vắng lặng lắm mới nghe được tiếng “vãn chợ chiều” ở một làng xa… Rồi cả những phương tiện giao lưu gợi sự có mặt của con người cũng không hề có :
Mênh mông không một chuyển đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Và sự phủ định cuối cùng : “Không khói hoàng hôn…”. Vậy là ở đây không còn là cái thanh vắng của “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén – Ngày vắng xem hoa bợ cây” (Nguyễn Trãi), “Lác đác bên sông chợ mấy nhà” (Bà Huyện Thanh Quan), hay “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” (Nguyễn Khuyến) nữa. Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang sơ. Có lẽ từ thuở khai thiên lập địa đến giờ vẫn thế. Thi sĩ như một kẻ lữ thứ lạc vào giữa một hoang đảo. Trơ trọi, cô đơn đến tuyệt đối. Và nỗi nhớ nhà dâng lên như một tiếng gọi tự nhiên. Đứng trước cảnh này, hon nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng chạnh lòng nhớ quê :
Nhật mộ hương quan hà xứ thị ?
Yên ba giang thượng sử nhản sầu.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ?)
(Tản Đà dịch)
Có lẽ đó chỉ là nỗi hoài hương của lòng sầu xứ. Và nó cần có khói sóng để làm duyên cớ. Nỗi nhớ của Huy Cận là thường trực, có cần đến thứ khói nào để làm duyên cớ đâu ! Nhớ nhà là để vượt thoát, để trốn chạy nỗi cô đơn cố hữu mà thôi :
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Dòng sông chảy mênh mang giữa trời đất đến đây như bỗng dội lên những tiếng sóng khác : tiếng sóng của lòng quê ! Hay chính lòng quê cũng đang xao xuyến dâng lên để thành một dòng tràng giang cúa tâm hồn mà nhập vào tràng giang của trời đất ?
Đứng trước những dòng sông lớn, ta có cảm tưởng như đang đối diện với sự trường tồn, trường cửu. Nghìn năm trước khi chưa có ta, nó vẫn chảy thế này. Nghìn năm sau, khi ta đã tan biến khỏi mặt đất này, nó vẫn chảy thế kia. Tràng giang vẫn điềm nhiên dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của con người. Sự lặng lẽ của tràng giang là miên viễn. Đứng bên dòng sông lớn, hãy lắng nghe nhịp triều miên viễn mênh mang. Nó là nhịp của vĩnh hằng, nhịp của vũ trụ. Và, tôi muốn nói đến một đặc sắc khó thấy hơn của Tràng giang nói riêng và Lửa thiêng nói chung : hình như Huy Cận đã nghe thấy và đã chuyển được nhịp chảy trôi miên viễn ấy vào trong âm hưởng của bài thơ. Huy Cận đã thể hiện điều đó bằng thứ âm vang lạ lùng của chữ nghĩa. Mà chủ yếu là nhờ sự âm vang của các yếu tố lặp và trùng điệp. Hãy chú ý đến những từ láy, nhất là láy nguyên. Đâu phải ngẫu nhiên thi phẩm có mật độ từ láy nguyên dày đến vậy : điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn,… ẩn hiện trong toàn bài. Chúng không chỉ gợi được dáng nét – dáng nét đường bệ, mà còn gợi được nhịp chuyển động – chuyển động triền miên. Rồi, những cặp câu tương xứng như trùng lặp, nối tiếp nhau, đuổi nhau không ngừng nghỉ : “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp // Con thuyền xuôi mái nước song song”, “Nắng xuống / trời lên / sâu chót vót – Sồng dài/ trời rộng / bến cô liêu”. Trong đó, các vế câu vừa cắt rời, vừa kết nối liên tiếp như một chuỗi dài cũng đã góp phần tạo ra nhịp chảy trôi, rong ruổi, miên man. Rồi rải rác các vế chỗ này nối, chỗ kia tiếp : “hàng nối hàng”, “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”,… Hàng nối hàng, bờ tiếp bờ, tất cả phụ hoạ, hô ứng lẫn nhau cứ song song, điệp điệp, cứ nối nối, tiếp tiếp không cùng…, khi hiện thành câu chữ, khi chìm trong âm vang. Tất cả những yếu tố ấy như những bè khác nhau, kết lại với nhau tạo thành một âm hưởng cứ ngầm chảy đây đó trong bài thơ : âm hưởng trôi xuôi bất tận. Phải chăng đó là cái nhịp trôi âm thầm về phía hư vô không thể cưỡng được của cõi thế này ? Có thể nói đây là thứ âm hưởng vừa nằm trong vừa nằm ngoài ngôn ngữ, nó vừa thuộc ý thức vừa thuộc về vô thức của người làm thơ. Tôi cho đây là một trong những chỗ vi diệu nhất của thi phẩm này. Nó khiến cho ta có một cảm tưởng thật rõ rệt : cái mặt bằng chữ nghĩa của cả bài thơ cũng như dang chuyển động xuôi dòng. Dòng tràng giang không chỉ chảy trong không gian, mà còn chảy trong thời gian… Từ thuở khai thiên lập địa, sông chảy miết qua các thời đại mà về đây ! Phải chăng đây là chiều thứ tư đầy mơ hồ và hư ảo của không gian Tràng giang?
Tôi đọc bài thơ bao nhiêu lần và không sao xoá được khỏi lòng mình cái cảm giác bâng quơ này : mình là cái cành củi khô luân lạc trên dòng tràng giang kia hay mình là cánh chim nhỏ lạc lõng dưới “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” đó !… Nó là cảm tưởng của một đứa trẻ ? Mà dường như cũng là của một người già ? Bởi vì Tràng giang là dòng sông mà cũng là dòng đời chăng?
Bình giảng bài thơ Tràng giang – Mẫu 2
Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận mang nỗi buồn man mác, ngậm ngùi, nhưng đó là những ngậm ngùi đẹp về thiên nhiên và tình yêu. Sau Cách mạng tháng Tám, dòng thơ Huy Cận vẫn còn đó nỗi buồn trong suy tưởng, nhưng là nỗi buồn cảm thong với quá khứ “Sờ soạng tìm lối ra” của cha ông. Và những niềm vui rộn ràng của người trong xã hội mới. Cả hai dòng thơ ấy đều tạo cho Huy Cận tình yêu thương, lòng cảm phục của bao thế hệ sau ông, mà dấu ấn sâu đậm nhất là tác phẩm đầu tay – tập thơ Lửa thiêng được in vào năm 1940, trong đó có bài Tràng giang.
Tràng giang, nỗi buồn mênh mông da diết sớm đưa Huy Cận vào một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới, trước năm 1945, một phong trào thơ đầy những tiếng thở dài trữ tình và lãng mạn. Chàng trai Huy Cận đã có sẵn trong người:
Một chút linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu.
Cái sầu lặng miên man kia lại đang đứng trước dòng sông thực với cảnh sơn thủy hữu tình, mà cũng là dòng sông đời lặng lẽ trôi theo thời gian để hoài niệm giữa khung cảnh mênh mang xuôi theo dòng cảm xúc:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Câu thơ được chọn làm đề từ cho cả bài thơ viết về con sông dài, sông lớn đã hàm chứa nỗi buồn mênh mang tỏa đầy không gian “trời rộng”, hòa lẫn vào những gì xuôi theo con nước của “con sông dài”, Rồi nỗi nhớ bâng khuâng kia được nhà thơ chi tiết hóa từng cảnh, từng cảnh nhỏ trong từng khổ thơ một…
Khổ thơ mở đầu:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Nhịp thơ 4/3 chậm rãi theo lối cố phong, giọng thơ có nhiều thanh bằng chấm dứt ở từ “dòng” hợp vần chéo (song / dòng) cùng với những từ tạo hình tạo nên không khí buồn lặng, cô đơn của những gì gắn bó với sông tại điểm mà nhà thơ quan sát.
“Sóng gợn” theo kiểu “sóng biếc theo làn hơi gợn tí” của Nguyễn Khuyến cứ lan tỏa nhẹ nhàng làm cho “tràng giang” cứ rộng thêm ra. Đấy chỉ là hiện tượng vật lí tự nhiên, chẳng mang tâm trạng nào nếu không có cảm xúc “buồn” của con người. Đã thế, từ láy lại “điệp điệp” làm cho không gian của tràng giang như mênh mông hơn, nỗi buồn của tràng giang đậm hơn.
Cũng là một hình ảnh động nhưng không tạo thanh giống như hình ảnh “sóng gợn”, “củi một cành khô” cô đơn trôi lặng lờ giữa bao nguồn nước chảy.
Sóng cứ gợn, củi khô cứ lạc mấy dòng, nỗi buồn cô đơn thầm lặng cứ trôi, lặng lẽ khép lại, rồi mở ra với hình ảnh “con thuyền xuôi mái nước song song”, và chỉ có hình ảnh ấy là mang tí âm thanh róc rách khua động của mái chèo xuôi, nhưng nào được bao khoảng khắc? Thuyền đi rồi, cái lặng lẽ khép lại với con nước “Sầu trăm ngả”, một nỗi sầu vô cớ, hay cái cớ hoang liêu mênh mông giữa trời chiều hiu quạnh.
Sau khi nhìn sông, nhà thơ bắt đầu quan sát bên sông. Bao người đến đây vẩn vơ quan sát như thế. Và với tâm hồn nhạy cảm của mình, Huy Cận đã ghi lại những hình ảnh cho riêng ông:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Cả không gian lẫn thời gian đều buồn, cái buồn tự nhiên như tăng thêm trong tâm tưởng của người đọc. Cảnh gần xa cứ đan xen nhau giữa cồn nhỏ, làng xa và bến đò ngang. Cả khổ thơ là bức tranh có màu vàng đất nhạt làm phỏng, còn màu của cây cối trở thành gam màu phụ. Thời gian “chiều” mang nỗi buồn của tự nhiên, không gian phủ màu nắng chiều cũng buồn. Cái buồn càng tăng lên từ những từ láy âm, láy vần ở trong mỗi câu. “Cồn nhỏ” đã trơ trọi, lại thêm cây cỏ “lơ thơ” khiến gió cũng cảm thấy “đìu hiu” cô quạnh. Âm thanh tan chợ từ trong làng xa vẳng lại cũng chẳng thể nào xóa tan cái lặng lẽ nơi đây. Nỗi buồn vươn cao trong không gian với hai từ láy “chót vót”, rồi cô đặc lại ở “bến cô liêu”. Cảnh đơn sơ, bến đò không một bóng người xem ra còn ảm đạm hơn Bến đò xuân đầu trại với Con đò gối bãi… của Nguyễn Trãi ngày nào.
Dõi mắt nhìn ra lòng sông thì chỉ thấy mênh mông nước với những:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cả bốn câu thơ đều mang ý khẳng định những gì nhà thơ đang thấy diễn ra ở trước mắt. Đấy là nỗi cô đơn của sự tách rời, của cuộc đời không định hướng. Những cánh bèo? Nhiều lắm, “hàng nối hàng” nhưng “về đâu” ? Một câu hỏi bế tắc! Bèo đã biết số phận thiên nhiên dành cho chúng bởi những dòng nước xoáy, bởi sông gấp khúc quanh co, bởi gió lớn thổi dạt bèo vào bờ.. Còn con người, hay có thể là chính thế hệ của nhà thơ trước dòng sông cuồn cuộn của chủ nghĩa thực dân? Người đứng bên này sông khao khát được qua bên kia sông. Đò ngang và cây cầu là phương tiện, nhưng ở đây lại “không cầu”. Cái hay, cái khéo léo, tinh tế của nhà thơ là chỗ nhận ra và diễn đạt tâm lí con người “gợi chút niềm thân mật”. Cũng chẳng cần cầu bê-tông cốt sắt, mà chỉ cần những liếp tre ghềnh theo những cọc tre bắt chéo cũng là niềm ao ước của những người sống hai bên bờ. cầu đã không, một chuyến đò ngang cũng không. Cái mênh mông của sông nước, cái mênh mông của “bờ xanh tiếp bãi vàng khiến cho không gian càng mênh mông hơn. Và tất cả những tách rời, những thiếu vắng ấy càng gợi thêm nỗi buồn hiu hắt, quạnh quẽ.
Cặp mắt của nhà thơ bảng lãng nhìn xa hơn, cao hơn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa.
Chữ nghĩa cứ như dồn dập theo bước chạy của chiều buồn. Một phút qua đi là hoàng hôn sắp tới. Màu thời gian bây giờ là màu của sương. Đây là hiện tượng khí hậu của vùng cao. Chiều càng vào sâu thì đầu núi càng bạc những sương.. Mây bay về núi gặp những bức tường sương ấy. Thế là có hình ảnh “mây cao đùn núi bạc” như Thủy Tinh đang vây hãm Sơn Tinh. Đấy là một bức tranh hoành tráng bao phủ cô đơn. Gần hơn, giữa khoảng mênh mông thầm lặng, một cánh chim nhỏ bé đang chao nghiêng đáp xuống tán cây, chừng như về tổ? Nhà thơ chợt nhận ra “bóng chiều sa”, hoàng hôn sắp tắt. Trước cảnh thiêu nhiên tịch liêu như thế, nhà thơ cảm thấy.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Nhà thơ đã quay về với mình trước cảnh thiên nhiên hối hả trong giờ phút chuyển giao giữa ngày và đêm. Mọi thứ như nhanh hơn. Gần gũi hơn trước mắt là chim nghiêng cảnh nhỏ bay nhanh về tố. còn nhà thơ thì vẫn đứng ở đó, trước dòng sông cô đơn sầu lặng, và nhà thơ cũng chỉ có… một mình! Dòng sông tình cảm trong nhà thơ cũng đang gợn sóng buồn điệp điệp.
Hình như chẳng có ai xa xứ mà vui trước cảnh hoàng hôn về, nhất là ở nơi có con sông ngăn cách nhưng lại không có chiếc cầu, và không một chuyến dò ngang. Ngày trước, Thôi Hiệu trong bài thơ Lầu Hoàng Hạc – Hoàng Hạc lâu cũng có hai câu thơ cuối:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Nhà thơ Tản Đà dịch:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Bà Huyện Thanh Quan cũng than thở trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn.
Còn Huy Cận thì:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Cái buồn, cái nhớ của Huy Cận đậm hơn, da diết hơn nhiều!
Trong thế giới thơ ca, viết về dòng sông là một đề tài có khá quen thuộc, với cả sóng, thuyền, cánh chim, mây trắng… nhưng ít ai có thứ ngôn ngữ diễn đạt mới và “sang” như Huy Cận trong bài Tràng giang.
Nhận xét về phong cách diễn đạt thơ của Huy Cận, nhà phê bình Hoài Thanh có viết: “… Nhưng với trí quan sát rèn luyện trong nền văn học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm về những cảnh xưa, nơi bao nhiêu người đã sa lầy – tôi muốn nói sa và khuôn sáo. Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ…”. Nhưng đó chỉ là nỗi buồn của người đứng ở ngã ba đường chưa nhận ra được lối đi. Khi đã nhận ra đường đi trong đời, Huy Cận càng thấy đời đẹp…
Bình giảng bài thơ Tràng giang – Mẫu 3
Huy Cận – một tiếng thơ man mác nỗi sầu, một tâm hồn hoang hoải, nhạy cảm với từng biến chuyển tinh tế của thiên nhiên. Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến thời kì Thơ mới trước năm 1945, khi cái tôi của mỗi cá thể được coi là những vật thể tinh tú nhất, thơ ông luôn thể hiện tinh thần và điểm nhìn cá nhân độc đáo khó hòa lẫn. Trong “Tràng giang”, từng câu chữ đều được Huy Cận phủ lên nỗi buồn da diết, mênh mông bể sở. Cái nỗi buồn khó nắm bắt, khó định hình của một tâm hồn dễ rung động trước cảnh vật, của trái tim khao khát được yêu thương, được hòa quyện.
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thơ mới được coi như “tập sách gối đầu giường” của các nam thanh nữ tú đương thời, viết về tình yêu, về nỗi băn khoăn, trắc trở trong tình cảm đôi lứa. Chính vì thế, tinh thần chủ đạo trong những bài thơ của thời kì này là nỗi buồn, sự cô tịch, quạnh hiu. Nhóm bút “Tự lực văn đoàn” bao gồm những cây bút lão luyện như Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,… đã tạo nên một thời kì thơ ca lãng mạn, tình tự. “Tràng giang” là một lời tự thuật về cái khắc khoải, buồn đau của một cái tôi nhỏ nhoi giữa mênh mông trời đất. Con người cảm thấy nhỏ bé, cô độc giữa không gian vô tận. Ra đời năm 1940 trong tập “Lửa thiêng”, tác phẩm được coi là tác phẩm đưa Huy Cận lên bậc lão làng trong phong trào Thơ mới. Lấy điểm nhìn từ bờ Nam bến sông Hồng, giữa sông nước bất tận, lòng người gợi lên một nỗi u hoài cho thân phận nhỏ bé, vô định giữa đất trời khắp cùng.
Mở đầu bài thơ là lời tựa:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Gợi ra một không gian “rộng”, “dài” của trời và sông, tác giả muốn nhấn mạnh sự cô quạnh của chủ thể con người, “bâng khuâng” giữa đất trời bao la. Trời tuy rộng nhưng lại buồn thương, mênh mang, sông tuy dài nhưng lại quạnh hiu đến thê lương. Phải chăng, thời gian lúc ấy đang là buổi xế tà với ráng lam chiều hoang hoải, con người một thân một mình bâng khuâng giữa không gian rộng mở của cả trời và đất. Nỗi niềm nhà thơ trôi cùng dòng nước lặng lờ dưới sông, cùng đám mây chùng chình trên khoảng không vời vợi.
Mang nỗi buồn ấy vào trong từng nhịp thở, mở đầu bài thơ là những nét chấm phá mộc mạc về thiên nhiên:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
“Tràng giang” là con sông dài, con sông bất tận với những gợn sóng lăn tăn. Nhịp thơ 4/3 mang âm hưởng chậm rãi, đìu hiu với từ láy “điệp điệp” tả nỗi buồn. Từng đợt sóng trên mặt nước làm nên một câu thơ động. Con sông như trải rộng ra theo tầm nhìn của tác giả. Câu thơ không hề tĩnh, sự lay động của thiên nhiên được tác giả bắt trọn vào câu chữ. Người xưa có câu: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, con sông không đơn thuần chỉ mang dòng nước, mà còn mang có nỗi u buồn của nhân vật trữ tình. Con sông rộng dài hay nỗi buồn ngày càng rộng thêm ra. “Con thuyền xuôi mái nước song song”, trong cái không gian cao vời vợi của trời mây, cái miên man của những con sóng, thuyền trở nên đơn côi đến lạ lùng. Thuyền xuôi theo dòng nước, thuyền vô định để mặc sóng xô đi. Không chỉ là “tràng giang”, con sông dài, mà còn là “song song”, những luồng nước nối đuôi nhau xa mãi tận chân trời. Hai từ láy “điệp điệp” và “song song” tạo âm hưởng vang vọng như âm thanh dội lại giữa núi rừng, khiến câu thơ dài hơn, trầm hơn, dội vào lòng người đọc một nỗi buồn tha thiết.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lấy nỗi sầu làm tinh thần chủ đạo, Huy Cận luôn mượn thiên nhiên, nói thiên nhiên sầu hay là nói ra chính cái sầu trong tâm khảm. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, bóng thuyền chỉ mới vừa xuất hiện đã lại biến mất, nước “sầu”, nước buồn nhớ thương thuyền hay chính tác giả buồn sầu. Thuyền đi rồi, nỗi “sầu trăm ngả” có phần mơ hồ, vô cớ. Thuyền nào đi mãi rồi chẳng đến bờ, nhưng nước vẫn mang nỗi nhớ nhung, buồn bã. Trên mặt nước lặng lờ ấy, hình ảnh “củi một cành khô” trôi vô định, “lạc mấy dòng” giữa luồng nước mênh mang. Hình ảnh động, biện pháp đảo ngữ “một cành củi khô” thành “củi một cành khô” gợi sự cô tịch đến tang thương. Sóng cứ lăn tăn, nước cứ hững hờ, chỉ có một cành củi nhỏ bé, khô khốc lạc trôi theo dòng nước, như tiếng lòng kẻ say tình cứ cô độc, man mác trôi. Cả bốn câu thơ đều có những hình ảnh, chi tiết tả sự vận động của nước, của trời, nhưng những âm thanh ấy chẳng đủ để khỏa lấp nỗi chơi vơi trong lòng. Kết cục lại vẫn là sự lạc lõng, cô đơn, hoang hoải trôi theo con nước tới nơi vô định.
Tràng giang là một bức tranh miêu tả đa chiều về cảnh sắc thiên nhiên của vùng ven sông trong một buổi chiều tà hiu quạnh. Mở đầu với tầm nhìn ngút mắt của sông, của trời, Huy Cận bắt đầu những nét chấm phá về cây cối, cảnh vật bên bờ sông:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Liên tiếp những từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” để tả những cồn cát nhỏ rải rác bên sông. Những từ ngữ được tác giả lựa chọn rất khéo léo và đắt giá, đặng làm nổi bật cái trống trải, ít ỏi và thưa thớt của cảnh vật. Những cồn cát đã nhỏ bé lại còn “lơ thơ”, từng cơn gió “đìu hiu” mang cảm giác cô liêu, đáng thương. Dưới tầm nhìn của một tâm hồn thi sĩ, vạn vật đều trở nên tịch liêu giữa trời rộng sông dài. Tả cảnh ven sông, tác giả không hề nhắc đến những bãi đất phù sa màu mỡ, cũng chẳng có bóng người sinh sống. Trong cái nhìn của ông chỉ có những cồn cát, những cơn gió thinh không, một cành củi khô lạc dòng,… Cảnh vật đan xen với nhau, hòa trong nỗi buồn của nhà thơ. Thảng hoặc, âm thanh “tiếng làng xa vãn chợ chiều” xuất hiện. Từ “đâu” gợi sự như có như không, vô hướng không rõ ràng. Thanh sắc cuộc sống mờ nhạt, xa xăm. Tưởng như cảnh vật đã đủ sầu, đủ thảm, thì ngay cả cuộc sống sinh hoạt của con người nơi đây cũng chẳng hề hoạt náo, rộn ràng. Trong bức tranh ráng lam chiều bên triền sông Hồng màu mỡ,, thời điểm đáng ra là giờ khói cơm với những làn khói đụn lên từng hồi thì ở nơi đây, thời gian và cảnh vật chỉ rặt một nỗi buồn. Buồn của lòng người đượm vào thiên nhiên, buồn của đọt nắng sắp tắt. Từ thị giác “cồn nhỏ” trơ trọi, cây cỏ “đìu hiu”, đến cả âm thanh cũng lúc vô lúc hữu, tiếng tan chợ gợi sự tan rã, kết thúc cho một ngày dài lê thê.
Nỗi buồn được đẩu tới cao trào với hai câu thơ:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
“Nắng xuống”, nắng tắt hẳn, thay thế cho những sự chống chọi yếu ớt của mặt trời là màn trời kĩu kịt, nặng nề. Nỗi buồn lên đến “chót vót” rồi lại tràn trề ra cả “sông dài trời rộng”. Sự vô biên được nới rộng cả về chiều dài, bề ngang. “Nắng xuống trời lên”, động từ đối lập “lên” và “xuống” mang lại chuyển động, không gian như đước kéo giãn. Tác giả không dùng “cao chót vót” như thường lệ, mà lại là “sâu chót vót”. Điểm nhìn của thi sĩ không chỉ dừng lại ở độ sâu, độ cao, mà còn là cái nhìn hun hút vào bầu trời để tìm thấy đáy giữa màn trời đang từng bước xâm chiếm không gian. Dường như ánh mắt của chủ thể trữ tình đi tới đâu, bầu trời sẽ rộng hơn, sâu hơn tới đó. Chính vì vậy mà cảm “cô liêu” lẻ bóng mới ngày càng trở nên sâu đậm. Giữa sông dai, trời rộng, chỉ có bến là lưng chừng ở giữa, quạnh hiu không một bóng người. Tâm hồn rung cảm của thi sĩ cũng cảm thấy chơi vơi, buồn bã bởi sự vắng vẻ của bến bờ. Hình ảnh bến đò trước giờ vẫn là biểu tượng của kẻ đi người ở, của sự xa lìa chia cắt. Đứng giữa màu trời chiều này, sự thê lương lại càng được tô đậm thêm rõ nét.
Hướng tầm mắt ra xa xuôi dọc theo con sông dài, những gì thu được vẫn chỉ là sự thưa thớt của tạo hóa:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Từng hình ảnh hiện ra theo trình tự quan sát, nhìn từ điểm gần trước mắt cho đến tầm nhìn xa bao quát cả dòng sông. Những cụm bèo “hàng nối hàng” gợi sự chen chúc, nhưng lại “dạt về đâu”, trôi vô định, mất phương hướng. Từ “dạt” cũng bày tỏ sự lênh đênh, chìm nổi. Ngay cả những phương tiện để di chuyển trên con sông dài thường ngày nay cũng chẳng hề xuất hiện. “Không một chuyến đò ngang”, “không cầu”, không có sự kết nối nào với thế giới từ vị trí của tác giả. Cuộc sống dường biệt lập, tách lìa hoàn toàn nơi nhà thơ đang đứng. Phải chăng, hình ảnh bèo trôi dạt chính là thân phận của nhà thơ trong xã hội đương thời, số phận của một trí thức yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp nhưng chẳng thể xác định được bản thân muốn gì, cần gì. Giữa mênh mông bể sở, không cầu, không thuyền, hay chẳng có sự giao lưu nào với nhân loại. Sông nước dài rộng, “bờ xanh tiếp bãi vàng” lại càng làm không gian dài dằng dặc, hun hút. Người đọc hình dung về hai luồng suy nghĩ trong thâm tâm tác giả, rằng Huy Cận khao khát một sự liên lạc với con người, khao khát một chuyến đò, một cây cầu để được giao tiếp, được tìm kiếm tri âm, hay chính ông đã từ bó cái náo nhiệt ngoài xã hội kia để về với nơi cồn cát đồng không mông quạnh này, nhìn chuyến đò dần dần biến mất mà tiếc nuối, níu kéo. Tất cả đã tạo nên một âm hưởng buồn thương, đìu hiu, bao trùm lên cả sự vật.
Viết theo trình tự quan sát sự vật, sau trời, nước, sau những bãi bồi, nhà thơ đặt hồn vào những sự vật đang di chuyển trên tầm trời cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa.
Hình ảnh lớp lớp mây cao bảng lảng trôi trên bầu trời, từ láy “lớp lớp” hô ứng với “điệp điệp” tạo cảm giác chồng chất. Thời gian đã ngả từ xế trưa sang chiều, rồi cuối cùng là “bóng chiều sa” theo cánh chim vội vàng tìm nơi trú ẩn. Hoạt động của một ngày thường nhật đang chạy đua với thời gian. “Núi bạc” là núi bạc vì sương khói, vì những đám mây trung thấp xuống che phủ đỉnh núi cao. Như một bức tranh thủy mặc, có mây, có núi, có sông nước, điểm xuyết vài cánh chim nhỏ hối hả trốn màn đêm, bao phủ là sự cô đơn, ảm đạm. Một từ rất đắt trong câu thơ tả cảnh, “đùn núi bạc”, từ “đùn” thể hiện sự vận động với tốc độ nhanh chóng. Từng đợt mây bay nhanh, những đám mây khổng lồ xếp chồng, đùn đẩy nhau tạo nên một bức màn bạc mờ ảo. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch ấy, lòng người thi sĩ không khỏi thốt lên một tiếng đời:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
dòng sông miên man với những con sóng chạy đua, chạy đua đến cùng trời cuối đất để rồi lắng tai nhận ra một tiếng sóng khác biệt, tiếng sóng của làng quê. Thả hồn mình vào thiên nhiên, để cho tâm hồn được dạo chơi với vũ trụ, cuối cùng, Huy Cận cũng gom lòng mình lại, quay trở về với thực tại trong thời khắc giao thoa giữa ngày đêm. Dòng sông dài, “tràng giang” của đất trời hay chính là tràng giang của lòng người, tiếng thôn quê mộc mạc giản đơn rốt cuộc cũng là cái để người ta mơ, người ta nhớ khi một mình một thân phận bé nhỏ. Dòng sông giống như biểu tượng của sự trường tồn và vĩnh cửu, là chất điểm đạm, hiền hòa hàng ngàn năm vẫn thế. Tổ hợp từ láy từ “điệp điệp”, “song song”, “lớp lớp” và cuối cùng là “dợn dợn” gợi sự triền miên, dòng sông vẫn chảy như thế, con nước vẫn một đi không bao giờ trở lại, chỉ còn nhà thơ ở đây, lòng khôn nguôi nỗi khắc khoải thương nhớ quê nhà. “Khói hoàng hôn” chính là khói bếp, là bữa cơm của bà, của mẹ, là những ngày tháng tuổi thơ rong chơi vơ vẩn, chỉ mong đến giờ chiều về nghi ngút khói bếp, lấm lem nhọ nồi. Tâm trạng của một người con xa quê hiện rõ mồn một trong tâm lí tác giả, buổi chiều, cái dớp chiều tàn buồn bã khiến tâm hồn ấy không tránh khỏi nhớ nhung. Giống như lời tâm sự trữ tình, sự vấn vương, tình cảm da diết cho quê hương được Huy Cận gửi gắm vào tác phẩm. Thì ra, từ đầu đến giờ, nỗi buồn bao trùm vạn vật ấy tựu chung lại chính là nỗi nhớ quê hương của một người con xa xứ mang tâm hồn nhạy cảm, để rồi trong một buổi chiều tà đứng bên bờ sông Hồng, nỗi nhớ quê hương lại nồng cháy trong lòng.
Với hồn thơ trữ tình lãng mạn cùng cái tôi nhạy cảm, thuần khiết, Huy Cận đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật, trong thơ có họa, trong thơ có tình. Mượn cảnh hoàng hôn bên bờ sông với đất trời mênh mang, tác giả gửi vào đó những rung động của một kẻ si tình. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương cùng cái tôi nổi bật, ngòi bút độc đáo với khả năng sử dụng ngôn từ đặc sắc, xúc tích mà bao hàm, Tràng Giang đã đưa Huy Cận lên vị trí lão làng trong nền văn học Việt nói chung và thời kì Thơ mới nói riêng.
Theo đúng tinh thần sâu khổ, buồn thương, bài thơ mang đến cho độc giả một cảm giác thê lương, cô quạnh đến nao lòng. Tràng Giang là lời tâm sự, giãi bày của một người con tha hương xa quê, trước cảnh đẹp động lòng của thiên nhiên xế chiều mà tức cảnh sinh tình, xuất khẩu thành thơ. Giữa cái mênh mông, rộng lớn tột cùng của thiên nhiên là một trái tim khao khát được cảm, được yêu thương, một cái tôi cô tịch, nhạy cảm, mỏng manh.
Bình giảng bài thơ Tràng giang – Mẫu 4
Tràng giang là một bài thơ nổi tiếng, in trong tập ”Lửa thiêng” (1940) của Huy Cận. “Tràng giang” mang phong vị Đường thi khá rõ. Ngay từ hai câu đầu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”.
Ta cảm thấy phảng phất nhạc điệu và tứ thơ của Đỗ Phủ trong bài “Đăng cao”:
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai”.
(Ngàn cây bát ngát lá rụng xào xạc
Dòng sông dằng dặc nước cuồn cuộn trôi).
Có thể nói nhạc điệu và hồn thơ Đường đã thấm sâu vào tâm hồn Huy Cận từ thời niên thiếu. Nhưng “tràng giang” ở đây là thiên nhiên, đất nước Việt Nam, là những sông lớn như sông Hồng và trong thơ Huy Cận, con sông nào nước cũng dềnh lên mênh mông, bát ngát. Cảm giác về không gian trong thơ Huy Cận gắn liền với hình ảnh những dòng sông:
Tới ngã ba sông nước bốn bề…
Chiều mưa trên bãi, nước sóng đầy
Sông mát tràn xuân nước đậm bờ…
Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang…
Đất nước, những xóm làng trù phú đã hình thành dần dần ven những con sông lớn. Sông lớn là tượng trưng cho đất nước, giang sơn bền vững muôn đời. Sau này Nguyễn Đình Thi cũng viết:
“Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về…”.
Sau một thời kì khám phá, tìm tòi, Thơ mới đã dần dần định hình và Xuân Diệu nhận xét: “Bài thơ hầu như trở thành cổ điển, của một nhà Thơ mới. Và một cách dõng dạc, đường hoàng, vì đây là “đại giang”, là sông lớn, ví dụ nhu sông Hồng; là tràng giang: rộng bao gồm cả trường giang, dài, sâu trăm ngả chứ không phải ít ngả, vì là sông lớn… Hơi thơ cổ điển là đúng… duy câu thứ tư thì là hiện đại; thơ truyền thống của cha ông ta không đưa cái nét hiện thực, thực tế, nôm na, chân thật đến sổng sít, là “củi một cành khô trôi đi trên sông”.
Thơ Huy Cận trước cách mạng thường buồn. Đó là cái buồn và nỗi cô đơn của các nhà Thơ mới lãng mạn. Tuổi trẻ của Huy Cận mang theo cái buồn heo hút của một làng sơn cước cách Linh Cảm bốn cây số và cái buồn của một gia đình nhà nho tàn tạ, có nhiều chuyện bất hòa không vui. Những kỉ niệm đau buồn của thơ ấu đã để lại ấn tượng khá sâu sắc trong tâm hồn các nhà thơ. Lớn lên, bước chân vào trường học đế quốc, họ lại gặp một tiếng khóc dài trong văn học (Tản Đà, Tương Phố, Lamactin, Muytxê…). Bước vào đời lại gặp cái đau buồn của xã hội, nỗi tủi nhục của người trí thức mất nước. Bản thân họ thì hoang mang bế tắc, không tìm thấy con đường đi… Cái buồn trong cuộc đời thực đã biến thành những dòng lệ trong văn chương. Và Huy Cận cũng như các nhà thơ lãng mạn cho rằng “cái Đẹp bao giờ cũng hơi buồn” (Kinh cầu tự). Cái buồn da diết nhất, ảo não nhất là cái buồn trong “Lửa thiêng”. Ở đây, cái buồn bàng bạc của không gian, thời gian: sóng gợn tràng giang, trăng phơi đầu bãi, tiếng đìu hiu của bờ lau khóm trúc, nỗi buồn nhân thế tự ngàn xưa theo gió thổi về. Cái buồn của Huy Cận là cái sầu vũ trụ, là cảm giác cô đơn của con người trước không gian ba chiều, mênh mông, bát ngát:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Sầu vũ trụ, vũ trụ ca và cách đặt tên các tập thơ sau này cũng mang cảm xúc vũ trụ: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa… Huy Cận đã tập trung tất cả hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi bật lên nỗi buồn cô liêu của con người trước cảnh sông dài trời rộng. Anh thích chữ “tràng giang” hơn “trường giang” vì cái âm ”ang” nghe nó mênh mông bát ngát hơn. Và hai bờ sông ở đây hoang vắng, cô liêu như thời tiền sử, bởi vì không một chiếc cầu, một chuyến đò ngang làm một đầu nối. Hai bờ của một dòng sông có thể chạy dài về phía chân trời xa như hai thế giới cô đơn, xa lạ không bao giờ gặp lại, không “chút niềm thân mật” của những tâm hồn đồng điệu.
Các nhà thơ lãng mạn đã mang cái tâm trạng buồn và cô đơn của mình phủ lên thiên nhiên. Cho nên cái thiên nhiên trong Thơ mới nói chung, trong thơ Huy Cận nói riêng, thường mênh mông, rợn ngợp hoặc xa vắng quạnh hiu. Ở đây con người thường tan biến đi, mất hút đi trong thiên nhiên. Kiếp người như cánh bèo trôi dạt, như “củi một cành khô lạc mấy dòng…” Đến bốn cấu kết:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa…”
Trên cái bầu trời mênh mông, mây đùn lên thành những ngọn núi trắng xóa, xuất hiện một cánh chim bé nhỏ mà “bóng chiều sa nặng đến nỗi phải nghiêng cánh, lệch cánh” (Xuân Diệu). Trong hai câu cuối cùng, tứ thơ đã có một nét mới so với bài “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu. Trong bài thơ của Thôi Hiệu, khách nhìn thấy khói tỏa sóng gợn mà trong lòng nhớ quê hương (Nhật mô hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhãn sầu). Còn ở thơ Huy Cận là:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Nhưng ở đây lại có một sự gặp gỡ tình cờ hoặc hữu ý giữa Huy Cận và Lưu Trường Khanh. Trong bài Từ Hụ Khẩu (Hán Khẩu) đến bài Anh Vũ gửi Trung thừa họ Nguyên, Lưu Trường Khanh viết:
“Bãi sông không có sóng vỗ và cũng không có khói bay
Khách nước Sở nhớ nhau càng thêm man mác
Mặt trời xế trên Hán Khẩu, đỡ cánh chim là là bay
Nước mùa thu trên hồ Động Đình, mênh mông liền trời”.
Có thể nói cái hồn thơ Đường đã thấm khá sâu vào thơ Huy Cận. Và tuy học tập Đường thi, Huy Cận vẫn tạo nên trong thơ mình một nét riêng độc đáo của Huy Cận, của Việt Nam. Như trên đã nói: cái buồn trước cảnh “sông dài, trời rộng, bến cô liêu” là cái buồn vũ trụ của Huy Cận, và những câu:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Đã gợi lên một không khí rất quen thuộc của Việt Nam. Không khí đó gợi nhớ đến quê hương của Huy Cận một cái làng sơn cước heo hút thuộc Hương Sơn, Hà Tĩnh, ở tả ngạn sông Thâm bên núi Mồng Gà:
“Tới ngã ba sông nước bốn bề
Nửa chiều gà lạ gáy ven đê…”.
Cái tiếng gà lạ lạc lõng cất lên ven một con đê hoang vắng lúc chợ chiều đã vãn, ở một miền sơn cước, nghe mà buồn đứt ruột! Cái buồn trong thơ Huy Cận là một nỗi đau đớn “cũng đất nước mà nặng buồn sông núi” (Mai sau). Các nhà lãng mạn gửi gắm vào trong thơ một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên đất nước và một sự nâng niu đối với tiếng Việt, lúc bấy giờ bị xem như tiếng mẹ ghẻ, tiếng con đòi… Tiếng nói trong Thơ mới là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ mới chính là đất nước Việt Nam mĩ lệ với những vẻ đẹp riêng của từng vùng quê hương (“Quê hương” của Tế Hanh, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Đà Lạt đêm sương” của Quách Tấn, “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ…). Cho nên ta có thể dễ dàng thống nhất với Xuân Diệu khi anh viết: “Tràng giang” là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc.
**************
Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Tràng giang trên đây đã cùng các em tìm hiểu, khám phá những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tràng giang. Để củng cố thêm kiến thức về bài học, các em có thể tham khảo thêm: Bình giảng khổ thơ thứ hai bài Tràng giang, Bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Tràng giang: “Lơ thơ cồn nhỏ… trời rộng, bến cô liêu.”, Bình giảng khổ thơ kết thúc bài Tràng giang: “Lớp lớp mây cao… hoàng hôn cũng nhớ nhà.”, Bình giảng bốn câu kết trong bài thơ Tràng giang.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp