Đề bài: Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí
Bạn đang xem: Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí
6 bài văn mẫu Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí
1. Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí, mẫu 1:
Đồng chí! Ôi tiếng gọi nghe sao mà thân thiết nghĩa tình đến vậy! Là một nhà thơ – chiến sĩ, với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn, Chính Hữu đã viết bài thơ Đồng chí với tất cả cảm xúc chân thành nhất của mình. Bài thơ hay khép lại bằng những hình ảnh thật đẹp và đầy ấn tượng:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Cả bài thơ thể hiện tình đồng chí keo sơn gắn bó của những người chiến sĩ trong những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến trường kì. Nhạc điệu bài thơ trầm lắng như lời tâm tình của hai người lính trong đêm trăng chờ phục kích công đồn. Tình cảm ấy đã được hình thành từ những thiếu thốn vật chất đến những thử thách ngoài chiến trường. Để rồi từ đó trở thành tình cảm thiêng liêng – tình đồng chí. Hai người lính đến với nhau từ hai phương trời xa lạ nhưng lại có nhiều nét tương đồng, những nét tưởng lạ mà quen. Đó là tình yêu quê hương, xứ sở. Và bây giờ sự gắn bó vẫn đang nảy nở và thắm thiết hơn trong đêm chờ giặc tới!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Khung cảnh thiên nhiên thật khắc nghiệt: rừng hoang sương muối. Chỉ có ai đã từng sống trong khói lửa chiến tranh, thiếu thốn như các anh với áo rách vai, chân không giày mới có thể hiểu được cái rét buốt lạnh cắt da thịt của đêm sương muối ở rừng. Trong cảnh rừng hoang vắng rậm rạp và lạnh lẽo ấy hiện lên hình tượng một con người kì vĩ đẹp lạ thường:
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Bài văn mẫu Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí
Câu thơ xua tan đi màn sương mờ ảo, sưởi ấm cả cánh rừng hoang vu. Dưới ánh trăng, người chiến sĩ thật đẹp, thật trong sáng. Từ đứng cạnh bên nhau đã tạo nên bức chân dung hoàn chỉnh về tư thế của các anh. Các anh tuy hai mà một, tuy ít mà nhiều. Các anh đã cùng chia sẻ bao khó khăn, vất vả cùng với những cảm xúc của một người lính trẻ để đi lúc này trong giây phút căng thẳng hồi hộp chờ giặc tới, các anh vẫn luôn ở bên nhau. Đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết, giữa hoà bình độc lập và nô lệ, giữa thiên đường và địa ngục, các anh vẫn nhớ đến đồng đội trao cho nhau hơi ấm của tình người, tình đồng chí.
Đọc thơ Chính Hữu ta như cảm thấy hơi ấm đang toả ra khắp cơ thể, khắp không gian. Hơi ấm ấy phải chăng được bắt nguồn từ cảm xúc chân thành, mộc mạc, giản dị trong lời thơ Chính Hữu. Câu thơ cuối tuy đã khép lại tác phẩm nhưng với em nó mãi là dư âm không bao giờ cạn:
Đầu súng trăng treo
Câu thơ vừa thực vừa ảo cho ta nhiều cảm xúc mới mẻ. Khoảng cách giữa bầu trời và mặt đất, giữa con người và thiên nhiên đã được xích lại gần gũi hơn bởi một từ treo. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và lãng mạn vừa xa vừa gần. Phải chăng câu thơ là ước muốn, là hi vọng của Chính Hữu – người lính Cụ Hồ về một cuộc sống hoà bình, tươi đẹp? Sau đêm nay, sau giờ phút căng thẳng, lạnh buốt này sẽ là một sớm mai ấm áp với ánh bình minh sáng ngời Người chiến sĩ, với nhiệm vụ đã thành người thi sĩ với bao cảm hứng dạt dào. Hình ảnh cây súng trong bài thơ Đồng chí khiến ta chợt nhớ đến sông Mã, Tây Tiến trong câu thơ của Quang Dũng:
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Đáng trọng và đáng quí làm sao khi trong thời máu lửa oai hùng đó vẫn có những vần thơ thật hay, thật đẹp và thú vị đến thế!
Như lời kết nhẹ nhàng của bản nhạc du dương, Đồng chí của Chính Hữu đã cho thế hệ trẻ hôm nay phần nào hiểu được giá trị thiêng liêng, cao cả của tình đồng chí, đồng đội thời chiến. Những lời thơ trong Đồng chí đã gieo vào lòng bạn đọc bao cảm xúc và ấn tượng mới mẻ khép lại trang thơ mà hình ảnh Đầu súng trăng treo vẫn hiện ra trong ý nghĩ người đọc như một thứ hào quang soi rọi về một thời quá khứ oai hùng, hướng chúng ta đến những gì tốt đẹp ở tương lai.
—————–HẾT BÀI 1——————-
Trên đây là phần Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí bài tiếp theo, các em chuẩn bị trả lời câu hỏi SGK, Cảm nghĩ về bài Đồng chí và cùng với phần Suy nghĩ của em về tình đồng chí đồng đội trong bài thơ Đồng chí để học tốt môn Ngữ Văn hơn.
2. Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí, mẫu 2:
Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, ông tham gia quân đội năm 1947 và bắt đầu làm thơ, Chính Hữu viết không nhiều nhưng có vị trí rất xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Đề tài thành công của ông là đề tài về người lính và tiêu biểu là bài thơ Đồng chí. Bài thơ ra đời năm 1948 sau khi Chính Hữu cùng đồng đội vừa trải qua chiến dịch Việt Bắc thu- đông năm 1947. Bài thơ đã đề cập tới một thứ tình cảm mới mẻ và thiêng liêng của những người lính, anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đó là tình đồng chí.
Bài thơ gồm hai mươi dòng thơ với ngôn ngữ bình dị giọng điệu thủ thỉ tâm tình cảm xúc dồn nén, Đồng chí ca ngợi tình đồng chí gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của người lính anh bộ đội cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi đánh giặc trong những năm đầu gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tình đồng chí, đồng đội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong mạch cảm xúc của bài thơ Đồng chí và tạo nên những nốt ngân tuyệt vời ở ba câu thơ cuối:
“Đêm nay sừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Giữa rừng đêm hoang vu, lạnh lẽo, đầy bất trắc rình rập, họ vững tin đứng cạnh nhau, khoát súng trên vai, đầu súng hướng lên trời, tư thế hiên ngang “chờ giặc tới”. Ánh trăng đêm, có lẽ là trăng cuối tháng, cứ chếch dần, chếch dần, cho tới khi chạm tới đầu mũi súng, đầu súng như vươn tận lên trời cao.
Những bài Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí hay nhất
Bước vào cuộc chiến tranh, những người lính phải trải qua bao khó khăn, gian khổ với thực tại khốc liệt nghiệt ngã. Những người lính quên sao được những đêm đông giá rét phải đối mặt với sự giá lạnh đến tê người của “rừng hoang sương muối” nhưng chính ở cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ còn là gang tấc, họ vẫn: “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”, họ vẫn luôn kề vai sát cánh bên nhau, vẫn chủ động đón nhận thử thách, thậm chí cả sự hi sinh. Trong cái lạnh của rừng đêm còn có cái ấm áp, nồng hậu của tình đồng c hí, cái trong trẻo của lí tưởng cách mạng. Tác giả Chính Hữu bất ngờ khép lại bài thơ của mình bằng hình ảnh: “Đầu súng trăng treo”. Hai hình ảnh tưởng chừng như trái ngược nhau nhưng không, đó là sự kết hợp hài hòa giữa cảm hứng hiện thực và lãng mạn thể hiện cái tài của nhà thơ. Đọc câu thơ, ta như cảm nhận được sự đối lập giữa “súng” “trăng”. Đằng sau khẩu súng trường ấy người ta thấy được cái khốc liệt nghiệt ngã của chiến tranh, vẫn câu thơ ấy ta cũng đồng thời thấy được cái vẻ đẹp êm ái, dịu hiền của “trăng” hòa bình. “Súng” và “trăng” đi liền kề với nhau trong câu thơi gợi lên trong lòng người đọc biết bao liên tưởng thú vị về sự hòa quyện giữa cứng rắn và dịu hiền, giữa chiến sĩ và thi sĩ. Đó như một biểu tượng đẹp đẽ trong tâm hồn của con người Việt Nam, vừa can trường, quả cảm, rắn rỏi nhưng cũng rất đỗi hào hoa, lãng mạn và đầy thơ mộng, mộng mơ. Những người lính cầm súng chiến đấu cho vầng trăng hòa bình, hơn ai hết họ hiểu rằng bảo vệ quê hương đất nước cũng chính là bảo vệ gia đình, người thân yêu. Phải chăng vì thế mà người lính sẵn sàng chấp nhận, đối mặt với khó khăn thử thách để giành lại cuộc sống ấm no hạnh phúc?
Bài thơ hình thành khái niệm lại kết thúc bằng một hình ảnh giàu chất thơ đưa tình đồng chí từ tình người vào với tình thiên nhiên tươi đẹp. HÌnh ảnh đồng chí gian nan, cực khổ, chịu đựng trong chiến đấu bỗng sáng lên trong ánh trăng, trở nên lạc quan và đầy mơ mộng. Chúng ta thấy trong cái gian khổ, khó khăn của chiến trường vẫn có một sức mạnh chung: chờ giặc tới để cái đầu súng sẵn sàng chĩa vào quân thù. Cái đầu súng nóng lên khi nổ đạn nhưng sẽ mát dịu nhờ ánh trăng, ánh trăng treo, ánh trăng chẳng bao giờ tắt như sự tin tưởng về một ngày chiến thắng trong tương lai, đồng chí sẽ rở về sống trong hòa bình.
Trang thơ của Chính Hữu đã khép lại từ rất lâu rồi nhưng người đọc vẫn cảm thấy đâu đây cái dư vị ngân nga về bức tranh và nhất là biểu tượng của tình đồng chí đồng đội thiêng liêng cao cả.
3. Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí, mẫu 3:
Chính Hữu nhà thơ để lại bài thơ Đồng chí với hình ảnh những người lính thân thương gắn bó chiến đấu chống giặc Pháp. Xuyên suốt bài thơ Đồng chí hình ảnh đồng chí hiện ra thân thương và gắn bó keo sơn, kết thúc bài thơ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Người lính đứng giữa rừng hoang sương muối chống chọi lại thiên nhiên khắc nghiệt và núi rừng Việt Bắc lạnh giá, sương trắng xóa. Khí hậu khắc nghiệt, quân ta thời kì đó thiếu thốn đủ thứ, giá rét, thiếu ăn,,, đều là những thứ thách những người lính, vượt qua đó tình cảm của họ thêm gắn bó, tình đồng đội của họ càng ấm áp hơn. Họ đứng bên nhau như truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng đội, giữa khung cảnh khắc nghiệt của núi rừng.
Bài văn Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí siêu ngắn
Hình ảnh người lính trong đêm đông cùng với khẩu súng và đồng đội với tư thế chờ giặc đến. Lúc này tình đồng đội sưởi ấm cho nhau và mang đến cho họ sức mạnh vượt qua gian khổ. Những người lính dường như không đơn đọc mà còn có một người bạn tri kỉ “trăng treo” – hình ảnh đậm chất lãng mạng từ sự quan sát của người lính.
Trăng và súng hai hình ảnh được tác giả chọn kết thúc bài thơ là cách làm giảm bớt những khó khăn vất vả của người lính trong chiến tranh, phai mờ đi sự gian khó của nghiệt cảnh và để làm sáng lên tình Đồng chí cao đẹp của những người lính bất chấp khó khăn nguy hiểm họ vẫn sẵn sàng chiến đấu mang đến hòa bình cho đất nước, dân tộc.
4. Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí, mẫu 4:
Là người lính thuộc trung đoàn thủ đô rồi trở thành nhà thơ quân đội, Chính Hữu chủ yếu viết về người lính và hai cuộc kháng chiến. Đồng chí được sáng tác năm 1948, là bài thơ thành công nhất của ông. Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn của những chiến sĩ quân đội nhân dân trong thời kì kháng chiến p.
Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ mộc mạc, giản dị, chân chất khi tác giả giới thiệu về quê hương của các anh bộ đội. Các anh mỗi người một quê – những vùng quê nghèo khó – song đã về đây để cùng tham gia kháng chiến, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau.
Cuộc sống người lính vất vả biết bao nhiêu. Nào : Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá… Lại nữa, những đêm trời rét chỉ có một mảnh chăn mỏng hay những cơn sốt rét rừng hành hạ… Vượt lên trên tất cả những khó khăn đó để “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của tình đồng đội, của ý chí quyết tâm đánh giặc.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đặc sắc :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Ba câu thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong bức tranh trên, nổi bật là ba hình ảnh gắn kết với nhau : Người lính, khẩu súng, vầng trăng giữa cảnh rừng hoang sương muối phục kích giặc. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ. Hình ảnh Đầu súng trăng treo là hình ảnh đẹp nhất vì nó vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh tượng trưng.
Suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí
Tác giả Chính Hữu đã từng nói : “Đầu súng trăng treo, ngoài hình ảnh, bốn chữ này còn có nhịp điệu như lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người bạn” Đó là hình ảnh thực của cuộc kháng chiến, của những người lính khi chờ giặc tới.
Ngoài tả thực, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu, vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.
Với nhịp chậm, giọng thơ hơi cao, ba câu thơ cuối của bài một lần nữa khắc họa chân thực mà sâu sắc về hình ảnh người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Tình cảm đồng chí, đồng đội là tình cảm thiêng liêng cao đẹp nhất của những người lính. Đó là sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả mọi khó khăn trở ngại, mọi thiếu thốn để chiến thắng kẻ thù. Bài thơ Đồng chí đặc biệt là ba câu kết như một lời nhắn nhủ với mọi người : Hãy biết nâng niu và gìn giữ những tình cảm đẹp trong cuộc sống, phải biết kính trọng những người lính.
Bài mẫu số 5: Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí
Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. ở truyền thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hun kết tinh thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình.
Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.
Đầu súng trăng treo- đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hoà quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ… Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay “đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với ánh trăng. Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng tỏa sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những người lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.
Đầu súng trăng treo- hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trăng kết hợp với nhau: súng tượng trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc. Súng là con người, trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ quan bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.
Cảm nhận của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Cái thân của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ “lên” cũng không phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay” trong một không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút. Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội hoạ nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên trên quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa. Ai bỏ quên ở phía chân trời…”. Nhưng có lẽ hay nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.
Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh “Đầu súng trăng treo” làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạng nhưng không thoát li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu.
Nếu như Elsa Trioslet – nữ văn sĩ Pháp có nói “Nhà văn là người cho máu” thì tôi hãnh diện nói với văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để tạo nên câu thơ tuyệt vời để cống hiến cho cuộc kháng chiến của chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng tôi những chú chim trắng trên bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc hoà Bình vì hình ảnh đầu súng trăng treo mà nhà thơ đã gởi vào đó bao nhiêu khát vọng nay đã thành hiện thực.
6. Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí, mẫu 6:
Hình tượng văn học nghệ thuật là một hiện tượng thẩm mĩ đa nghĩa độc đáo. Vì vậy, nó không chỉ phản ảnh cuộc sống, mà hơn nữa, vẻ đẹp cũng chiếm một vị trí quan trọng ở lĩnh vực nghệ thuật này. Ra đời năm 1948, giữa lúc cuộc kháng chiến p của dân tộc đang bước sang giai đoạn khó khăn, gian khổ nhất, Đồng chí (Chính Hữu) nhanh chóng gây được ấn tượng thẩm mĩ đối với người đọc.
Chúng ta hãy một lần nữa đọc lại khổ thơ cuối để hiểu rõ cội nguồn vẻ đẹp vừa hiện thực vừa lãng mạn của người lính và sự hấp dẫn của thi phẩm:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Đặt ba câu thơ trên trong hệ thống toàn bài, ta mới thấy hết cái hay cái đẹp của nó, bởi người chiến sĩ chỉ làm thi sĩ khi tâm hồn có sự hoà quyện, đan xen giữa vẻ đẹp hiện thực và vẻ đẹp lãng mạn. Đọc ba câu thơ, độc giả không thấy sự hiện diện trực tiếp của người lính. Nhưng thế đứng chờ giặc tới giữa không gian thiên nhiên “rừng hoang sương muối” và hình ảnh đẹp “đầu súng trăng treo” càng làm cho hình tượng các anh càng đẹp và thiêng liêng hơn.
Toàn bộ bài thơ, Chính Hữu tập trung ca ngợi tình đồng chí, đồng đội, lí tưởng cao đẹp của người lính cụ Hồ. Tuy nhiên, ở mỗi khổ thơ, vẻ đẹp chiến sĩ hiện lên không giống nhau. Từ hoàn cảnh xuất thân khác nhau, gặp gỡ, trải qua cuộc sống chiến đấu gian khổ đến cùng chung một lí tưởng, họ đã cảm thông, gắn bó với nhau như những người tri kỷ. Nếu ở các khổ thơ đầu, vẻ đẹp đã quyện hoà cuộc sống hiện thực thì đến ba câu thơ cuối, người chiến sĩ và lí tưởng đã chắp cánh cho nhau tạo nên vẻ đẹp vừa hiện thực vừa lãng mạn:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí, văn mẫu tuyển chọn
Con người và cảnh vật dường như đang quấn quýt, cùng xẻ chia những gian khổ trong chiến đấu. Đến đây, cuộc sống của người lính không phải gặp khó khăn riêng:
Áo anh rách vai
Quần tôi vài miêng vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
mà nó đã trở thành sự khắc nghiệt chung cả dân tộc. “Rừng hoang sương muối” không chỉ là một hiện thực, hơn nữa, đó còn là điều kiện thiên nhiên thử thách người lính. Nó gợi cho độc giả nhớ đến hình ảnh đoàn quân Tây Tiến đi trong sương giữa núi rừng phía Tây của Tổ quốc : “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Trước hiện thực đầy khó khăn ấy, người đồng chí, đồng đội của Chính Hữu vẫn vững vàng cây súng trong tay chờ giặc tới : “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” như một hành động sẵn sàng chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Với cây súng, các anh trở thành hồn linh của đất nước, của không gian, thời gian. Người lính cụ Hồ đã nhận chìm mọi khó khăn gian khổ quên đi cảnh “rừng hoang sương muối” trước mặt để đoàn kết, cùng sẵn sàng “đem thân xơ xác giữ sơn hà”. Hình dáng các anh giữa thiên nhiên núi rừng trong tư thế đứng bình tĩnh, tự tin, chủ động là hình ảnh của người chiến sĩ ra đi từ “áo vải chân không”. Người lính không cô đơn, lạnh lẽo vì bên anh đã có đồng đội và cây súng, là những người bạn tin cậy nhất, tình đồng chí đã sưởi ấm lòng anh. Người chiến sĩ toàn tâm toàn ý hướng theo mũi súng. Lúc ấy, các anh bắt gặp một hiện tượng kì lạ :
Đầu súng trăng treo
Nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của Chính Hữu qua bài thơ chính là ở hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Từ tình đồng chí, trải qua những thử thách khác nhau, Chính Hữu đã tạo nên cái nhìn đầy chất thơ. Nếu hai câu thơ trên không kết hợp với hình ảnh “đầu súng trăng treo” thì nó khó có những giá trị đặc sắc. Ngược lại, nếu không có sự nâng đỡ của hai câu thơ liền trên thì hình ảnh sẽ bị coi là thi vị hoá cuộc sống chiến đấu của người lính. Sự quyện hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và chất thơ lãng mạn, bay bổng đã làm cho “đầu súng trăng treo” trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất thơ ca kháng chiến p. Câu thơ chỉ vẻn vẹn bốn từ nhưng nó bao hàm cả cái tình, cái ý và đặc biệt là sự cảm nhận tinh tế của Chính Hữu.
Nhờ sự liên tưởng thông minh tài tình, tâm hồn giàu cảm xúc, Chính Hữu đã gợi lên một không gian bát ngát giữa vũ trụ bao la, nó có cái gì đó rất bồng bềnh, huyền bí, khó tả. Nhưng không phải là sự mơ hồ ảo nảo như “Trăng huyết dụ xuống bên đài kỉ niệm” (Đinh Hùng – Mê hồn ca). Hình ảnh đó gây được ấn tượng thẩm mĩ sâu sắc với người đọc, đồng thời, nó trở thành hình tượng đa nghĩa độc đáo của thi ca. “Đầu súng trăng treo” được xây dựng bằng bút pháp hiện thực, nhưng không gian “Đầu súng trăng treo” là không gian lãng mạn, siêu thực, đầy chất thơ. Tại sao vậy ? Chúng ta thực sự đánh giá cao không gian hiện thực của “nước mặn đồng chua”, “đất cày nên sỏi đá” và đặc biệt là không gian “rừng hoang sương muối” ; nó đã góp phần tô đẹp thêm hình tượng vầng trăng, cây súng, hai hình ảnh đối lập nhau. Vầng trăng muôn thủa vẫn gây được sự hấp dẫn và sức gợi kì lạ đối với thi ca. Nhưng ở đây, trăng lại được đặt trong mối quan hệ với súng. Nó biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, hoà bình, hạnh phúc của nhân loại, đồng thời, đó cũng là ước mơ muốn vươn tới của con người. Ngược lại, súng xuất hiện, biểu tượng cho chiến tranh và cái chết, nhưng súng cũng trở thành lí tưởng cao đẹp, tinh thần chiến đấu vì cuộc sống hoà bình dân tộc của người chiến sĩ.
Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực. Tuy đối lập, nhưng hai hình tượng này đã tôn thêm vẻ đẹp cho nhau, tạo nên vẻ đẹp hoàn mĩ nhất : VẺ ĐẸP NGƯỜI LÍNH. Không phải ngẫu nhiên khi Chính Hữu đưa ra hai hình ảnh ngược nhau trong một câu thơ. Qua đó, ông muốn khẳng định cái khát vọng về một cuộc sống yên lành đầy chất thơ : để cho vầng trăng kia sáng mãi, trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, mọi người phải cầm súng chiến đấu. Có thể nói, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một phát hiện mới lạ, độc đáo của Chính Hữu. Tài hoa như Quang Dũng, cũng chỉ cảm nhận được “súng ngửi gửi trời” bằng bút pháp lãng mạn. Chính Hữu đã sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên hình ảnh thơ vừa hiện thực vừa lãng mạn. Bao trùm lên “Đầu súng trăng treo” là một không gian tưởng tượng lãng mạn, tuy nhiên, nó được bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực được chắt lọc dưới ngòi bút tài tình của Chính Hữu. Trước mũi súng, người lính thấy trăng lặn xuống thấp dần giữa đêm khuya yên tĩnh. Chính Hữu đã trưởng thành và gắn bó với hình tượng độc đáo “đầu súng trăng treo”. Chính Hữu không dựng lên một tượng đài bi tráng về người lính trong thời kì kháng chiến p. Ông đã tạo nên một cặp “Đồng chí” giữa súng và trăng. Nhằm khẳng định thêm vẻ đẹp giữa tình “Đồng chí” con người với con người.
Tuy trước mắt, người lính vẫn gặp phải những gian khổ khắc nghiệt, nhưng lòng kiên trì sẽ giúp các anh chiến thắng. Hình tượng trăng – súng biểu tượng cho tinh thần dũng cảm, hào hoa muôn thủa của dân tộc nói chung và người lính nói riêng. Trăng và súng kết thành một không gian thơ trữ tình vừa hiện thực vừa lãng mạn. Vì lẽ đó, nó chiếm một vị trí đặc biệt trong thi ca thời kì kháng chiến chống Pháp.
——————-HẾT——————-
Cùng với bài Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ Đồng chí, Soạn bài Đồng chí của Chính Hữu cũng là bài học quan trọng mà các em cần lưu tâm.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp