Tài liệu hướng dẫn làm văn cảm nhận về bài thơ Sang thu gồm hướng dẫn làm bài chi tiết cùng tuyển tập top 4 bài văn hay phân tích, cảm nhận về nội dung bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.
Cùng tham khảo ngay…
I. Hướng dẫn làm bàicảm nhận về bài thơ Sang thu
Đề bài: Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.
1. Phân tích yêu cầu đề
– Yêu cầu về nội dung: phân tích và nêu cảm nhận về nội dung bài thơ Sang thu.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, chi tiết, hình ảnh… tiêu biểu trong bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.
– Phương pháp lập luận chính: phân tích, cảm nhận.
2. Luận điểm bài cảm nhận Sang thu
– Luận điểm 1: Cảm nhận của nhà thơ về tín hiệu sang thu.
– Luận điểm 2: Cảm nhận những chuyển biến tinh tế của đất trời lúc thu sang
– Luận điểm 3: Tâm tư, suy ngẫm của tác giả về mùa thu của đời người.
II. Lập dàn ý chi tiết cảm nhận bài thơ Sang thu
1. Mở bài cảm nhận Sang thu
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
+ Hữu Thỉnh là nhà thơ đi nhiều, viết nhiều, nổi tiếng với nhiều bài thơ đặc sắc về con người cùng cuộc sống ở nông thôn, về người lính…
+ Bài thơ Sang thu (1977) viết về những cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu.
2. Thân bài cảm nhận Sang thu
* Luận điểm 1: Cảm nhận của nhà thơ về tín hiệu sang thu.
– Cảm nhận tín hiệu thu về ở không gian gần bằng nhiều giác quan và sự rung cảm tinh tế
+ Hương ổi chín lan vào không gian, phả vào gió se
+ Sương đầu thu giăng mắc nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm
+ Từ “bỗng” diễn tả sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của nhà thơ trước những phát hiện thú vị báo thu về
+ Động từ “phả” gợi lên hương thơm của ổi chín như sánh lại, luồn vào trong gió gợi lên cho người đọc hình dung được không gian và thời gian của tiết sang thu
+ Gợi ra hình dung của hương ổi chín lan trong không gian, phả vào gió se
+ Chùng chình – nghệ thuật nhân hóa: sương như có ý chậm lại, quấn quýt, điều đó cũng gợi hình ảnh về bước đi của thời gian, nhẹ nhàng
* Luận điểm 2: Cảm nhận những chuyển biến tinh tế của đất trời lúc thu sang
– Khoảnh khắc giao mùa được diễn tả thú vị qua đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” – nghệ thuật nhân hóa diễn tả sự nuối tiếc, sự lưỡng lự trước khi chuyển mùa
– Hình ảnh dòng sống trôi thanh thản, êm dịu chính là sự lắng đọng, “dềnh dàng” đặc trưng của mùa thu
– Chim “vội vã”: nghệ thuật nhân hóa, dường như chim muông cũng cảm nhận được sự chuyển giao của mùa mới nên tìm cho mình hướng đi
→ Các hình ảnh, chi tiết đặc sắc giàu sức gợi hình tái hiện chân thật góc nhìn cũng như cảm xúc say sưa, hòa nhịp của tác giả trong khoảnh khắc thiêng liêng của đất trời
* Luận điểm 3: Tâm tư, suy ngẫm của tác giả về mùa thu của đời người
– Các tính từ chỉ mức độ “vẫn còn”, “vơi dần” bớt từ chỉ mức độ rằng hạ nhạt dần, thu đậm nét hơn
– Quan sát tinh tế, nhạy cảm của tác giả: Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi
+ Hình ảnh thực của tự nhiên sang thu sấm thưa thớt, không còn dữ dội làm lay động hàng cây nữa
+ Nghệ thuật nhân hóa: “bớt bất ngờ” – trạng thái của con người
+ Hàm ý: con người khi cứng cáp, trưởng thành sẽ không còn sợ, hay cảm thấy bất ngờ trước những thử thách, sóng gió của cuộc đời. Con người từng trải sẽ vững vàng, kiên định hơn trước những tác động bất thường từ ngoại cảnh.
* Đặc sắc nghệ thuật
– Sử dụng nhiều từ láy, tính từ gợi trạng thái
– Hình ảnh thơ chân thực, sinh động, hấp dẫn
– Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ tạo chiều sâu về cảm xúc và suy nghĩ.
– Ngôn ngữ thơ ca trong sáng, giản dị mà hàm súc.
3. Kết bài cảm nhận Sang thu
– Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ
– Nêu cảm nhận của em về bài thơ.
4. Sơ đồ tư duy cảm nhận bài thơ Sang thu
(Tham khảo lại sơ đồ tư duy trong bài phân tích bài Sang thu)
Phân tích cảm nhận về bài thơ Sang thu qua sơ đồ tư duy
III. Danh sách top 5 bài văn hay nêu cảm nhận về bài thơ Sang thu
1. Cảm nhận về bài thơ Sang thu mẫu số 1
Trong bốn mùa của thiên nhiên, đất trời thì ai cũng công nhận rằng mùa xuân là mùa đẹp nhất với vẻ tươi mới và sức sống tràn trề, đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho thi ca, nhạc họa. Nhưng mùa thu cũng có vẻ đẹp riêng tạo nên nguồn cảm hứng cho những nghệ sĩ tài hoa. Trước đây, Nguyễn Khuyến có ba bài thơ thu nức danh nhất là “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”, Tản Đà có “Cảm thu – Tiễn thu”, sau này, Lưu Trọng Lư có bài “Tiếng thu” và Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới” . Nhưng nói về thời điểm giao mùa thì có lẽ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh là nổi bật hơn cả.
Bài thơ Sang thu được sáng tác năm 1977, thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả trước những biến chuyển của thiên nhiên, sức sống của tạo vật trong những khoảnh khắc giao mùa.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Bạn đang xem: Cảm nhận về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Mở đầu bài thơ là từ “bỗng” thể hiện sự bất ngờ, đột ngột, một sự cảm nhận từ khứu giác, đánh thức tâm hồn, gợi lên một tứ thơ rất “hương ổi”. Hương vị đặc trưng của mùa thu bất chợt làm nhà thơ xao lòng, không phải là hương thơm của một loài hoa mà là mùa ổi chín, nghe mới mộc mạc, dân dã làm sao! Hương ổi hay chính là hương vị nồng nàn của quê hương gợi nhớ gợi thương cho những kẻ nặng tình với quê hương yêu dấu. Hương ổi không chỉ lan tỏa mà còn vận động rất mạnh trong không gian, phả vào trong gió se.
Mùa thu miền Bắc đã bắt đầu chớm lạnh, vì gió thu “se” lành lạnh nên hương ổi mới thêm nồng nàn mà phả vào đất trời và hồn người. Từ láy gợi hình “chùng chình” được nhân hóa khiến nó mang dáng vẻ thong thả, nhẹ nhàng như thiếu nữ đôi mươi. Và câu thơ “hình như thu đã về” đã kết lại dòng cảm xúc bất ngờ đột ngột của nhà thơ. Tất cả tín hiệu trên rồi cũng đi đến nghi vấn “Thu đã về?”, ngỡ ngàng và thảng thốt, thu đã đến với đất trời.
Hơi thở của thu đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu ko còn mơ hồ mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật. Trong không gian rộng lớn hơn, từ bầu trời tới mặt đất, đâu đâu cũng thấy cảnh sắc nhuốm thu. Dòng sông chảy khoan thai, lững lờ mà mềm mại và duyên dáng chứ không ào ạt, cuộn dâng như trong hạ. Thế nhưng trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông, đàn chim trời lại đang vội vã, chuẩn bị cho một hành trình mới, khi thu sang, ngày ngắn, đêm dài và gió se đã thổi. Như vậy, mùa thu của tác giả không chỉ có bình yên, thư thả mà còn có cả sự vội vã, gấp gáp.
Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở ra ở chiều cao, độ rộng của bầu trời và chiều dài của dòng sông qua khổ tiếp theo:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Sự vận động của thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của mọi vật. Đó là vẻ “dềnh dàng” của dòng sông đầy nước đang thong thả, ung dung trôi thật chậm sau những tháng ngày hè mệt mỏi vì phải chảy cuồn cuộn, ào ào. Đó là cái “bắt đầu vội vã” của những đàn chim di trú đang khẩn trương, sửa soạn đi tránh rét. Từ láy “vội vã” ở đây đối rất đẹp với từ “dềnh dàng”. Bắt đầu vội vã thôi chứ chưa phải đang vội vã. Cho nên không khí chung vẫn thư thái, lắng đọng, chậm rãi. Vì thế, đám mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Một tưởng tượng sáng tạo và độc đáo, đám mây như đang mang trên mình cả hai mùa.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Nếu như hai khổ thơ trên đẹp về mặt tạo hình, rất tinh trong cảm nhận. Thì ở khổ thơ cuối này vẻ đẹp của thu được khẳng định bằng suy ngẫm, kinh nghiệm chứ không phải cảm nhận trực tiếp. Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp như mùa hạ, nhưng ở cuối mùa, ở mức độ khác rồi. Nắng nhạt dần chứ không còn chói chang, gay gắt, mưa cũng ít di. Những từ “vẫn còn” “đã vơi dần” “cũng bớt bất ngờ” gợi tả rất hay các hiện tượng, sự việc đang dần đi vào thế ổn định của mùa thu. Bài thơ khép lại với hình ảnh “sấm” và “hàng cây đứng tuổi” vừa tả thực vừa mang ý nghĩa ẩn dụ, gợi ra những suy nghĩ thâm trầm.
Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo qui luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và ấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.
Tóm lại, Sang thu là một bài thơ hay. Tác giả không sa vào cách miêu rả ước lệ, khuôn sáo mà bằng những cảm nhận tinh tế qua những hình ảnh thơ tự nhiên mộc mạc mà mới lạ, những hình ảnh này được đặt trong sự vận động nhẹ nhàng mà không làm mất đi cái hồn của thiên nhiên là rất trong và rất tĩnh. Từ đó, ta thấy được một bức tranh thiên nhiên độc đáo giàu sức biểu cảm về thời điểm giao mùa và một tâm hồn giàu cảm xúc, giàu tình yêu thiên nhiên của Hữu Thỉnh.
2. Cảm nhận về bài thơ Sang thu mẫu số 2
“Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời.” Mùa thu từ bao lâu nay đã trở thành suối nguồn vô tận, khơi nguồn cảm hứng cho thi ca nhạc họa. Những cảnh đẹp thiên nhiên tươi sáng, trời thu trong xanh, khí thu dịu mát, cảnh thu trong sáng đã làm mê luyến trái tim bao thi sĩ. Nhỏ nhẹ và khiêm nhường Hữu Thỉnh góp vào cho bản hào ca của đất trời một góc thiên nhiên “Sang thu” để cùng tôn vinh những mùa trái, mùa hương của đất trời, xứ sở.
Mở đầu bài thơ, trước hết nhà thơ Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc cảm nhận tinh tế của mình trước mùa thu trong không gian làng quê:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Trong không gian quen thuộc của làng quê Bắc Bộ, nhà thơ bỗng tinh tế nhận ra mùi hương ổi chín. Đó là mùi vị ngọt ngào, nồng nàn thanh mát của quê hương, của những tâm hồn đã chắt chiu vun trồng nên hương ổi. Đó là hương vị quen thuộc, bình dị gợi nhắc đến mùa thu quê hương. Không phải là lá ngô đồng như trong thơ của Bích Khê, cũng không phải là hương cốm trong bài Đất Nước của Nguyễn Đình Thi, bằng cảm nhận và tình yêu quê tha thiết, hương ổi đã phả vào tâm hồn nhà thơ, đánh thức những cảm nhận riêng để ngỡ ngàng nhận ra mùa thu đã đặt chân xuống trần gian tuyệt diệu. Nhưng hương ổi mạnh mẽ, ngọt ngào phả vào trong gió se, càng làm quyện đọng vị ngọt và sánh mịn của hương ổi. Nhưng Hữu Thỉnh cũng cho ta những cảm nhận về đám mây khi thu chớm sang: “Sương chùng chình qua ngõ.”
Từ “chùng chình” diễn tả vẻ đẹp mộng mơ, duyên dáng và yêu kiều như nàng thiếu nữ đang e ấp duyên dáng bao quanh xóm làng. Cảnh vật không gian làng quê ngập chìm trong màn sương khói mờ ảo, giăng mắc như làm thiên nhiên thêm huyền ảo, lung linh hơn. Và trước hương ổi trong gió se, trước đám mây chùng chình kia, thi nhân của chúng ta ngỡ ngàng “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” diễn tả tâm trạng bâng khuâng, man mác của nhà thơ, cũng như vẻ ngờ ngợ không dám tin rằng thu đã về đấy rồi. Đó là sự luyến tiếc của âm hồn thi nhân, vừa ngỡ ngàng với thu sang, vừa luyến tiếc khi hạ đã rời đi. Quả là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết.
Sang đến khổ thơ tiếp theo, là sự cảm nhận tinh tế của thiên nhiên mùa thu trong không gian đất trời. Sự tinh tế và tấm lòng khát khao giao cảm, muốn nắm bắt sự thay đổi của vạn vật đã được bộc lộ rõ:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Dòng sông mùa thu không còn vẻ vội vàng, gấp gáp và chảy xiết như trong những ngày hạ, sông êm đềm, tĩnh lặng, yên ả uốn mình hiền hòa sau lũy tre xanh xanh của làng quê. Những cánh chim bắt đầu, cho thấy sự quan sát sát tinh tế của Hữu Thỉnh khi nhận ra sự chuyển dời của đàn chim tìm nơi trú ẩn cũng là dấu hiệu nhắc thu sang. Và đám mây kia chính là điểm nhấn cho nền trời, cho bức tranh thiên nhiên quyến rũ, xinh tươi ấy. Đám mây vắt nửa mình, dường như cũng đang chứa đựng sự lưu luyến, bịn rịn.
Đám mây giống như cây cầu nối liền giữa mùa hạ và mùa thu để ngân rung mãi lên một nhịp riêng của đất trời, nhịp giao thời, nhịp chuyển mùa. Thu sang trong bao nhiêu của thi ca muôn thuở, nay trở về trong những câu thơ của Hữu Thỉnh sao vẫn đắm đuối, si mê lòng người như thế. Vậy là mùa thu trong không gian làng quê được cảm nhận mới tinh tế và nên thơ làm sao. Chỉ có thể yêu thiên nhiên lắm, Hữu Thỉnh mới vẽ nên một bức tranh thật đẹp, thật duyên đến vậy.
Khổ thơ cuối là những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về cuộc đời mỗi con người:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Bằng những chiêm nghiệm sâu sắc về nhân sinh Hữu Thỉnh đã gửi đến chúng ta những thông điệp thật ý nghĩa. Hình ảnh “nắng, mưa, sấm” là biểu tượng cho những sóng gió, thăng trầm của cuộc đời mà con người đã trải qua, khi đã đi qua bao nhiêu nắng mưa, bao nhiêu giông tố, con người dường như cũng trở nên điềm đạm, bình tĩnh hơn trước những thử thách, trông gai của cuộc đời. Con người khi trưởng thành “hàng cây đứng tuổi” sẽ không còn những bồng bột, sôi nổi và sự liều lĩnh của tuổi trẻ mà sẽ lắng mình xuống để suy ngẫm và chiêm nghiệm, cũng sẽ không để những sóng gió cuộc đời quật ngã mỗi bước đi. Phải chăng đó cũng chính là thông điệp sâu sắc mà Hữu Thỉnh gửi gắm.
Với thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự nhiên, nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, tinh tế giàu sức gợi, sức biểu cảm, Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc một bức tranh thiên nhiên lúc sang thu thật sự đẹp, thật duyên, thật tinh tế của một tâm hồn yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết. “Sang Thu” của Hữu Thỉnh đã góp vào bản hoà ca mùa thu của quê hương, đất nước một tiếng nói riêng, đầy thi vị, ám ảnh, xúc động.
» Xem thêm:
- Phân tích hai khổ thơ đầu trong bài thơ Sang thu – Hữu Thỉnh
- Cảm hứng thu sâu sắc và tinh tế của Hữu Thỉnh qua bài thơ Sang thu
3. Cảm nhận về bài thơ Sang thu mẫu số 3
Theo Xuân Diệu, thu là dáng buồn liêu, là những luồng run rẩy rung rinh lá, đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một hình ảnh mùa thu đầy thơ mộng: Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô. Thu điếu của Nguyễn Khuyến là sự vắng lặng, yên ả của không gian, là cảnh đẹp nên thơ của nước hồ thu. Còn Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu, ông đã khắc họa bức tranh mùa thu tươi đẹp, bức tranh đang ở thời khắc giao mùa với một làn hương mới. Mùa thu trong bài thơ của Hữu Thỉnh không có dáng vẻ tĩnh mịch, hồn thơ không vương vấn những cảm xúc buồn như mùa thu ở trong thơ của Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Du hay Xuân Diệu… Sang thu là một bài thơ gợi tả thiên nhiên tươi đẹp. Đất trời đang chuyển mình từ cuối hạ sang thu. Mở đầu bài thơ là một phát hiện bất ngờ:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Mùa thu đã xuất hiện ở một làng quê Việt Nam. Mùa thu với hương thơm mộc mạc nhưng đầy hương vị ấm nồng. Hương ổi phả trong gió nhẹ đã làm cho con người nhận ra ngay mùa thu đang đến. Động từ phả thể hiện một mùi hương nồng nàn, lan tỏa trong không gian, hòa quyện với làn gió nhẹ để tạo nên một cảm giác thật đáng yêu. Cảm giác ấy không phải trầm buồn, ướt lệ mà là một cảm giác vui tươi đến bất ngờ, mới mẻ. Mùa thu đã mang đến hương thơm và sương mờ ướt lạnh. Sương chùng chình đã tạo nên một phong cảnh đáng yêu. Chùng chình là sự kéo dài, chậm chạp như muốn chờ muốn đợi ai đây? Cảnh vật cứ dần như thế, mềm mại như thế và thu đến tự lúc nào không hay. Nhà thơ đã ngỡ ngàng trước cái đến bất chợt của mùa thu. Cảm giác bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến và nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu tươi sáng:
Sông bắt đầu dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Những đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Ở khổ thơ thứ hai, dấu hiệu sang thu mang tính rõ nét hơn. Tác giả không cảm nhận bằng khứu giác mà cảm nhận trực tiếp bằng thị giác. Từ láy dềnh dàng diễn tả sự chậm chạp, thong thả của dòng nước sông mùa thu. Dấu hiệu mùa thu còn thể hiện ở cánh chim trời, chim vội vã bay vì trời mùa thu nhanh tối hơn mùa hạ, chim phải bay nhanh về tổ.
Mùa thu với đất trời sáng trong, sống lặng lờ, thong thả chảy cùng với đàn chim đang tung cánh bay cao. Hình ảnh đám mây mùa hạ đang vắt nửa mình sang thu là sự chuyển biến của đất trời. Dù sang thu nhưng dư âm mùa hạ vẫn còn. Một bóng mây vương lại như sự quyến luyến, ngập ngừng. Mùa thu với nắng nhẹ, dịu êm. Đất trời như thay áo mới nhưng vẫn có đâu đây làn nắng ấm mùa hè. Có lẽ đây là hình ảnh đẹp nhất thể hiện nét riêng của sự giao mùa từ hạ sang thu.
Đám mây ở thời điểm này rất đẹp, nó như chiếc cầu nối giữa hai mùa. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để diễn tả sự chuyển giao của đất trời. Mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” bởi còn chần chừ, lưu luyến. Dù sang thu nhưng vẫn còn vương vấn những hình ảnh của mây mùa hạ. Đây là sự biến chuyển nhẹ nhàng của trời đất phút giao mùa. Kết thúc bài thơ là hình ảnh thiên nhiên của mùa thu:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Phong cảnh mùa thu hiện ra thật rõ nét. Nắng mùa thu đang nồng đượm. Mưa mùa hạ vơi dần nên âm thanh của sấm cũng không còn làm cho con người ta giật mình, hốt hoảng. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo qui luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và ấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.
Với bút pháp tả thực về thiên nhiên, cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu, thấy được những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ hạ sang thu. Tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu quê hương nồng đượm, ấm áp tình người, nó bình dị mà tươi tắn, sống động, nó tôn thêm vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.
4. Cảm nhận về bài thơ Sang thu mẫu số 4
Với tâm hồn nhạy cảm sâu sắc và tình yêu thiên nhiên tha thiết, Hữu Thỉnh trong bài thơ “Sang thu” đã nêu lên những cảm nhận tinh tế của mình về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đâu thu.
Tâm hồn nhạy cảm của tác giả hòa quyện vài khoảnh khắc giao mùa, với một cảm giác mơn man khó tả:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Khoảnh khắc giao mùa đến với tác giả bằng nhiều giác quan: Khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se lạnh), thị giác (sương chùng chình). Mỗi giác quan man đến cho tác giả một cảm nhận riêng và mỗi giác quan là một dấu hiệu nhận biết sự chuyển mùa. Đầu thu, hương ổi lan tỏa đi khắp nơi hòa quyện vào làn gió se lạnh trở thành một mùi thơm đặc biệt, nồng nặc cả hai cánh mũi. Thứ hương thơm ấy cứ nhẹ trôi trong không gian, xoa dịu lòng người và bất ngờ đến với tác giả (“bỗng”). Những màn sương giăng mắc bắt đầu xuất hiện. “Chùng chình” là cố ý chậm lại, quyến luyến không muốn bước qua “ngõ” – ngưỡng cửa của thời gian. Hình ảnh “Sương chùng chình qua ngõ” vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diễn tả sự chuyển mùa. Tất cả chì là những cảm nhận ban đầu của tác giả (“hình như”), không có một căn cứ xác thực cho “sang thu”.
Mùa thu sần được hiện ra qua những kinh nghiệm của tác giả:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Bằng kinh nghiệm của mình tác giả nhận ra cái đặc trưng của mùa thu. Thu sang, sông không còn chảy gấp gáp, cuộc khúc nữa mà nhẹ nhàng trôi, êm ả như đang suy ngẫm. Ngược lại, những chú “chim bắt đầu vội vã” tìm nơi trú ẩn vì gió se lạnh đã đến. “Đám mây mùa hạ” “vắt nửa mình sang thu” gơi cho ta hình ảnh một cô gái thướt tha với chiếc khăn the uốn lượn. Đặc biệt, tác giả đã sáng tạo nên hình ảnh “vắt nửa mình sang thu” vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diển tả sự chuyển mùa. Đám mây cứ nhẹ trôi và thời gian thì cũng trôi heo. Đến đây mùa thu đã hiện ra một cách rõ ràng, không thể nào phủ nhận được.
Mùa thu hiện ra, tác giả dang tay đón nhận cùng những suy ngẫm triết lí của mình.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Mùa thu sang, nắng giảm dần, không còn gắt, những cơn mưa giảm dần và sấm thì cũng vơi đi. Mọi thứ đến một cách nhẹ nhàng, êm dịu, không ồn ào gấp gáp. Hình ảnh “Sấm cũng bớt bất ngờ – Trên hàng cây đứng tuổi” có thể hiểu theo hai lớp nghĩa. Thứ nhất, những cây đã lớn không còn bất ngờ trước tiếng sấm. Thứ hai, những người từng trải thì không còn sợ hãi trước sóng gió cuộc đời nữa. Có phải chăng tác giả muốn gởi đến ta một triết lí của cuộc đời con người. Những người khi “sang thu” thì không vòn sôi nổi như khi còn trẻ, nhưng họ đã từng trải, đã bước qua những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời thì không còn ngại sóng gió nữa.
“Sang thu” là tiếng lòng của tác giả, của một người với tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết. Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ cùng cách chọn lọc từ ngữ tinh tế đã làm nên thành công của bài thơ.
5. Bài văn cảm nhận Sang thu hay mẫu số 5
Nhà phê bình Chu Văn Sơn cho rằng:”Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người.” Muốn viết được những câu thơ tuyệt bích ấy, anh phải bật tung cửa phòng để nhìn ngắm thế giới như một vị hoạ sĩ đang ước lệ vẽ đẹp của cuộc sống. Anh phải nhắm mắt, nghiêng tai lắng nghe những chuyển động tế vi của đất trời như một nhà soạn nhạc tài ba đang góp nhặt thanh âm của trần thế. Và Hữu Thỉnh đã thực thi trọn vẹn những công đoạn ấy. Để một “Sang thu” ra đời, nhẹ nhàng mà tha thiết, cô đọng trong sáu mươi chữ mà cứ mãi vấn vương trong lòng người đọc. Thi phẩm là sự hòa hợp giữa cảm nhận tinh tế của tác giả trước những tín hiệu mùa thu và dòng suy ngẫm của ông về nhân sinh cuộc đời.
Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông đến với thi giới và in “vân chữ” của mình trên vùng đất ấy bằng phong cách thơ “đằm thắm, hồn hậu, nghiêng về phía rợp mát, cái trầm lắng yêu thương lấn át cái ồn ào sôi sục” (Lưu Khánh Thơ). Trong tiết trời hanh hao cuối hạ đầu thu với nắng vàng và gió nhẹ, dường như mọi chuyển động của thiên nhiên khi ấy đã gõ cửa trái tim Hữu Thỉnh, khiến nhà thơ không thể kìm lòng mà cầm bút lên và viết “Sang thu“. Thi phẩm được sáng tác năm 1977, in trọng tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố“. Bài thơ là dòng chia sẻ chân thành của một tâm hồn tinh nhạy trước phút giao mùa, cũng là nơi gửi gắm những suy ngẫm, chiêm nghiệm kín đáo của ông.
Một trong những khâu quan trọng trước khi đưa tác phẩm của mình dấn thân vào thi đàn văn học là việc trăn trở tìm kiếm cho nó một danh xưng. Tên thi phẩm chính là một nốt lắng, một “nhãn tự” ẩn chứa những ý vị sâu xa. Nếu nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ” gợi đến khát vọng cống hiến cùng lẽ sống khiêm nhường của Thanh Hải thì “Sang Thu” đã truyền tải thành công dụng ý của nhà thơ Hữu Thỉnh.
Không phải là “Thu sang” mà là “Sang thu”, nghĩa là vạn vật không dặm chân, ngóng cổ đợi chờ mùa thu ghé thăm mà thiên nhiên, đất trời đã chuyển mình một cách chủ động và sinh động như một đứa trẻ tinh nghịch muốn sà vào vòng tay của nàng thu. Thiên nhiên sang thu và lòng người cũng sang thu. Tâm hồn con người dường như đã đồng thanh đồng điệu với những biến chuyển của tạo vật. Trái tim con người dường như đã hòa chung nhịp đập với trái tim của đất mẹ nghĩa tình, của vòm trời cao rộng.
Khoảnh khắc chớm thu, mọi tín hiệu khe khẽ, nhẹ nhàng như một bản ballad ngân vang giữa bốn bề không gian. Nhịp điệu vận động của ngoại cảnh tuy mơ hồ, nhạt nhòa nhưng vẫn hữu hình trong tâm cảnh của Hữu Thỉnh, để rồi thi nhân phải giật mình thảng thốt:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Thu đến trong thơ Hữu Thỉnh một cách rất riêng, chẳng như “lá thu rơi rụng đầu ghềnh” của Tản Đà, không phải là “ao thu lạnh lẽ nước trong veo” như Tam Nguyên Yên Đổ, lại càng khác với “ngô đồng lác đác” trong trang thơ Tuệ Nga khi trời hiu hắt thu sang.
Tác giả đã ngỡ ngàng, “bỗng nhận ra” hơi thở đầu tiên của mùa thu hòa quyện trong hương ổi thơm lừng, chân quê và mộc mạc. Mùi hương ấy góp mặt vào những tháng năm tuổi thơ được cùng bè bạn trèo cây hái ổi. Mùi hương của thứ “quà quê” cứ quyến luyến, vấn vương trong lòng những đứa con xa xứ. Mùi hương của xóm làng dân dã, của tiếng nô đùa, của yên bình và hạnh phúc. Thứ hương kia không “bay”, không “quyện” mà “phả”, là xộc thẳng vào khứu giác.
Thi sĩ đã sử dụng rất đắt từ ngữ gợi tả, chỉ một từ ấy cũng đủ gợi liên tưởng đến một mùi hương như đang đặc sánh lại, ngào ngạt, đậm đặc, nồng nàn du ngoạn trong miền gió, được làn gió chở đến gõ cửa những ngôi nhà tranh, mang đi khắp ngõ ngách của làng quê. Câu thơ không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc liên tưởng đến màu vàng ươm, vị ngọt, giòn, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà. Phải chăng hương ổi đã lan tỏa, chiếm lĩnh gió se. Để giờ đây cơn gió heo may lành lạnh kia nương náu vào hương ổi, nhờ vào hương ổi mà trở nên độc đáo hơn.
Gió se hanh hao, nồng nàn hương ổi khác với làn gió xuân ấm áp, không trùng lặp với thứ gió mang màu nắng của mùa hạ hay từng đợt gió lạnh buốt của trời đông. Hương ổi và gió se đã trở thành sứ giả của mùa thu, nó đến khẽ khàng, “khẽ” đến mức nếu ta chẳng cẩn thận để tâm thì sẽ không thể nhận ra được. Và nếu ta đã tinh ý nhận ra thì những sự vật ấy sẽ neo đậu lại trong tâm trí ta một ấn tượng khó phai.
Trong cái không gian cuối hạ lởn vởn mùi thu, thấp thoáng nơi ngõ nhỏ bóng dáng “sương chùng chình” lướt nhẹ như một nàng thơ e thẹn, thướt tha đi qua từng triền đê, thôn làng, ngõ đường. Làn sương bảng lảng giăng trắng lối được tác giả nhân hóa qua từ láy “chùng chình”. Sương hóa thành một người lữ hành đi qua cửa ngõ của thời gian, rồi được thời gian kéo tay níu lại. Sương chập chững, cố ý bước đi chậm chạp qua những ngõ đường lộng gió, vườn ổi chín mọng và đồng nội xanh rì. Để rồi người lữ khách ấy đã lưu luyến sinh cảnh, đã chẳng có ham muốn tan vào không gian vô định.
Sương bỡ ngỡ trước khoảnh khắc giao mùa như chính sự ngỡ ngàng của con người trước những dao động nhỏ nhặt của đất trời phương Bắc. Dù nhiều giác quan đã mách bảo rằng “thu đã về” nhưng nhà thơ vẫn thấy mơ hồ, vẫn còn chưa dám tin, chưa dám chắc chắn. Thành phần tình thái “hình như” tựa sự phỏng đoán nửa tin nửa ngờ, nửa khẳng định, nửa kia lại hoài nghi. Cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên ấy cũng xuất hiện trong hồn thơ của Từ Dạ Thảo:
“Hình như bên kia là mùa thu
Ngàn lá rụng mang theo lời tiễn biệt…”
Có lẽ những tín hiệu chớm thu quá đổi mờ nhạt, chưa đủ làm nên mùa thu trọn vẹn. Và có lẽ chính tâm hồn thi sĩ cũng chưa kịp sẳn sàng để chào đón một diện mạo mới của tạo vật.
Tiếp nối sự giao thoa của đất trời, sang đến khổ thơ thứ hai những dấu hiệu của mùa thu dần hữu hình với những đường nét rõ ràng, chân thật hơn:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Bằng việc vận dụng tài tình biện pháp nhân hóa, cảnh vật trong thơ Hữu Thỉnh trở nên sống động, như một con người có linh hồn và hơi thở. Dòng sông lúc sang thu không còn chảy xiết, cuộn từng xoáy tròn hình trôn ốc như ngày hạ chí mà bỗng trở nên “dềnh dàng”, thông thả, lững lờ trôi. Nó gợi ra trong ta bóng dáng những con người sống chậm, sống nhẹ nhàng giữa lòng thị thành tấp nập ngược xuôi, như “người khách bộ hành phiêu lãng” (Tế Hanh) khoan thải và thư thái ngắm nhìn vẻ đẹp của thế gian.
Đối lập với hình ảnh dòng sông là những cánh chim “vội vã” tìm về “bức tranh thủy mặc” phương Nam để tránh rét, vội vã như những đứa con thấy cảnh vật đổi thay liền nhớ chốn xưa người cũ, gấp rút bắt chuyến xe cuối cùng trở về cố hương. Hay cũng có thể nó chỉ đang vội vã quay về tổ ấm thân thương trước khi hoàng hôn tắt nắng, nhường lại bầu trời cho màn đêm tĩnh mịch. Tác giả đã vận dụng khéo léo các từ ngữ “được lúc” và “bắt đầu” để đặc tả những chuyển động chỉ xảy ra vào khoảnh khắc trời chạng vạng chớm thu, những thay đổi rất “thu” của đất trời phương Bắc.
Trong “Dagestan của tôi”, Rasul Gamzatoz đã đề cập đến đặc trưng của thơ ca, rằng mỗi thi phẩm đều có “những câu thơ hay nhất trong bài thơ”. Không nằm ngoài quy luật ấy, Hữu Thỉnh đã chắt chiu, kí thác tinh hoa của một tâm hồn thi sĩ, tinh túy của một tác phẩm thi ca vào đôi dòng thơ:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Câu thơ ngân lên với một sự liên tưởng độc đáo. Nếu mây chùng lại vắt ngang sườn núi thì ta còn có thể nhìn, có thể cảm nhưng đám mây trong “Sang thu” tựa như một dải lụa đào trải rộng, trôi lững lờ trên nền trời trong trẻo. Thứ lụa ấy chia làm hai nửa thuộc về hai mùa. Nửa bên được nhuộm bằng dáng hình mùa hạ, “nửa mình” bên kia “vắt” sang gam màu của mùa thu. Hạ và thu, làm sao định hình được là vuông hay tròn. Ấy vậy mà nhà thơ đã họa nên một ranh giới mỏng manh, hư ảo phân cách giữa hai mùa. Trong “chiều sông Thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết:
“Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về Bố Hạ”
Cố nhiên, đám mây kia là thực, nhưng ranh giới của mùa là ảo. Nếu trong Triết học, Jules Lagneau cho rằng không gian và thời gian không thể tách rời nhau được thì đến với văn học, ta bắt gặp một Hữu Thỉnh đã tinh tế dùng hình ảnh của không gian để diễn tả lại sự vận động diệu kỳ của thời gian. Bầu trời vẫn đang chuyển đổi nhẹ nhàng sang sắc thu để rồi đến một lúc nào đó “Trời thu càng rộng càng cao” (Tố Hữu), nhẹ nhàng và xanh ngắt hơn.
Hai câu thơ trên còn chất chứa cả những suy tư, trăn trở của chính tác giả, những bâng khuâng, tiếc nuối như muốn níu kéo chút chói chang, nồng nàn của mùa hạ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến những đám mây trọn vẹn một màu thu. Thế nhưng, khi cảm xúc bật trào thành câu chữ, có một thứ gì đó đã quyến luyến, níu giữ ngòi bút thi nhân theo chiều hướng “một nửa”. Có lẽ mây mùa hạ giống như một bức tranh muôn màu muôn sắc. Đó là màu rạo rực của những hoài bão, những ước mơ của tuổi trẻ bứt phá ngông cuồng. Đó là màu của sức sống mãnh liệt, của nhiệt huyết dâng trào.
Có một mùa hạ như thế đấy, một mùa hạ vô ưu vô lo, một mùa hạ lãng mạn và rạng ngời, mùa hạ của những giấc mơ. Vậy mà giữa mơ và thực luôn tồn tại một lằn ranh đỏ vô hình nào đó khiến chúng khó mà hòa làm một, khó mà trọn vẹn. Sự dở dang, mất mát là một hiện thực mà ta dù muốn hay không cũng phải học cách chấp nhận. Có chăng vì vậy, đám mây chỉ có thể “vắt nửa mình sang thu”. Những đồng đội, những người lính ngoài chiến trường của ông năm ấy cũng thế, họ đã nằm lại ở ngưỡng tuổi sung mãn nhất của đời người, “Có tuổi hai mươi thành sóng nước” (Lê Bá Dương).
“Sóng nước” bỏ lại tuổi trẻ, bỏ lại tương lai và những hoài bão kia sẽ vĩnh viễn vùi chôn nơi chiến trường. Một kiếp lính kết thúc, những hoài bão cũng theo đó chẳng bao giờ trở về, tựa hồ nửa đám mây còn vắt vẻo phía bên mùa hạ, tất cả đã ngủ say trong hai tiếng “hồi ức”…
Thiên nhiên, đất trời chính thức “sang thu” và hồn người cũng vào thu, mùa thu trong những ngẫm suy, trăn trở của tác giả về nhân sinh cuộc đời:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Vậy là mùa thu đã đong đầy rót vào lòng phố hạ. Mùa thu đã về, và hạ chí ngậm ngùi phai dấu. “Nắng”, “mưa”, “sấm” là những hiện tượng đặc trưng của tiết trời mùa hạ. Nhà thơ đã tinh tế kết hợp những hình ảnh ấy với các từ chỉ mức độ “vẫn còn”, “bao nhiêu”, “vơi dần” để gợi tả tần suất thưa thớt, lắng lại, chừng mực và ổn định hơn. Nắng vẫn nơi sân đình, nhưng chẳng còn vang ươm rạo rực, chang chang đổ lửa.
Mưa vẫn nơi hiên nhà, nhưng chẳng còn ào ạt trắng xóa, rào rào dồn dập. Sấm vẫn nơi trời cao, nhưng chẳng còn ì ầm vang động, dữ dội bất ngờ. Tất cả những gì đặc sắc nhất của mùa hạ dường như đều mờ phai, nhạt dần và nhẹ nhàng hơn. Hình ảnh nhân hóa “hàng cây đứng tuổi” hiểu theo nghĩa tả thực chính là những cái cây trăm tuổi đã trải qua bao mùa thay lá, đã sống lâu năm, sống bền bỉ với đời.
Song, bằng việc vận dụng phép ẩn dụ đầy nghệ thuật, đằng sau đôi dòng thơ cuối bài là một tầng nghĩa với bao trầm ngâm, chiêm nghiệm. Tiếng sấm là những vang động, biến thiên bất thường, những vệt sáng của gian truân, của khó khăn luôn hiện hữu trong cuộc đời mỗi con người. Còn “hàng cây đứng tuổi” ngụ ý chỉ những người đã bước vào cái ngưỡng trưởng thành, trải nghiệm và dấn thân nhiều hơn, họ kinh qua những cảm xúc từ mất mát tang thương đến vỡ òa hạnh phúc. Bởi vậy, những người từng trải trở nên dày dặn kinh nghiệm, điềm tĩnh và vững vàng hơn.
Chuyển biến của thời cuộc, phong ba bão táp của ngoại cảnh đã chẳng còn tác động quá lớn đến họ. Họ biết dung hòa cảm tính và lí tính, bình tâm và suy nghĩ thấu đáo hơn, không còn nóng nảy, bồng bột như xưa. Đời một người đã gần tám mươi, biết bao sóng gió, thăng trầm, khi làm dân, lúc làm lính, làm cán bộ, hết chiến tranh đến hòa bình, Hữu Thỉnh đã “đưa thơ về phía chiều sâu của tạo vật, của lòng người”, của niềm trầm tư sâu lắng.
“Sang thu” về không gian nghệ thuật là chiến tranh và hòa bình thể hiện qua “chìa khóa” được đề ở cuối bài: “Thu 1977”. Đây là một trong những mùa Thu đầu tiên của người lính vừa bước ra khỏi trận chiến đổ máu và đổ lửa. Thu 1977 – trên đầu không còn tiếng máy bay, tiếng động cơ phản lực, bên tai chẳng phải nghe âm vang tiếng súng nổ, tiếng bơm rơi. Thu 1977 – đất nước hòa bình được hai năm, người lính được trở về với hương thơm, trái ngọt, lá vàng mơ mộng của quê hương. Thu 1977 – mùa thu quý giá của những người bộ đội thời chiến.
Hình thức nghệ thuật đã góp phần chạm khắc cho “Sang Thu” những góc cạnh tinh tế để bài thơ trở thành “viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời’” (Sóng Hồng). Thi phẩm ngân lên với giọng điệu nhẹ nhàng, chậm rãi, du dương và dạt dào yêu thương. Kết cấu mỗi khổ thơ trong “Sang Thu” đều có bốn câu với ba hình ảnh đặc sắc mang đến ba thông tin. Nghĩa là mỗi khổ đều có một cặp hai câu cùng diễn đạt một ý tứ.
Và chính những câu thơ vắt dòng này đã mang lại cho thi phẩm vẻ duyên dáng, uyển chuyển, tạo liên tưởng bất ngờ và thú vị. Tác giả đã vận dụng thành công một số biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ… Chỉ với vài hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi song hành cùng ngôn ngữ sáng tạo, chọn lọc, thi sĩ đã bắt trọn được cái hồn của cảnh vật qua ngòi bút nghệ thuật thanh, nhẹ và tài hoa.
“Sang thu” là một bức họa hữu tình, thơ mộng, tả ít mà gợi nhiều. Mỗi câu thơ như một nét vẽ tinh vi và sống động. Hình ảnh hiện lên giàu sức gợi với biết bao cảm mến nồng hậu. Hữu Thỉnh khi tự bạch về nghề viết chỉ nói rất gọn gàng rằng: “Thơ là kinh nghiệm sống”. Từ chiến hào đến thành phố, từ chiến tranh đến hòa bình, chính những “kinh nghiệm sống” đã giúp Hữu Thỉnh chưng cất nên một “Sang thu” – khúc giao mùa nhẹ nhàng, bâng khuâng và khép lại trong thầm thì triết lý nhân sinh.
“Sang thu” chẳng còn hạn hẹp trong thơ tạo vật mà đã vươn lên thành thơ cuộc đời. Tìm đến hồn thơ ấy, ta có dịp trầm mình trong hơi thở của đất trời để cảm nhận những chuyển động khe khẽ của thiên nhiên, để lòng mình được lắng lại mà ngẫm suy về ý vị sâu xa đằng sau một tiếng thơ bịn rịn qua những nẻo đường thời gian.
(Nguồn: Âu Dương Nhật Hạ)
Trên đây là những gợi ý chi tiết cách làm, dàn ý và một số mẫu bài văn cảm nhận về bài thơ Sang thu hay do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn. Hi vọng sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các em trong quá trình học môn Ngữ văn lớp 9 để chuẩn bị tốt cho các kì thi và kiểm tra. Chúc các em học tốt !
Tuyển tập những bài văn mẫu lớp 9 hay nhất /
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp