Đề bài: Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng
Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng
Bạn đang xem: Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng
I. Dàn ý Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng (Chuẩn)
1. Mở bài:
– Kim Lân là nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn, về những người nông dân.
– “Làng” là tác phẩm ca ngợi lòng yêu nước thống nhất cùng tình yêu làng quê và tinh thần cách mạng của những người dân quê hiền lành, chân chất.
– Nhân vật ông Hai là người có tình yêu làng, lòng yêu nước tha thiết .
2. Thân bài:
a. Ông Hai khi ở nơi tản cư:
– Ông là một người vô cùng yêu làng của mình, luôn đau đáu trong lòng nỗi nhớ quê hương, làng xóm.
– Ông nhớ về những ngày “cùng làm việc với anh em” ở làng, ông khao khát được trở lại làng.
– Ở khu tản cư, ông luôn giữ thói quen đến phòng thông tin “nghe lỏm” thông tin về kháng chiến.
+ Trên đường đi, gặp ai ông cũng “níu lại” cười cười rồi bảo “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó”.
+ Nghe tin về những thắng lợi kháng chiến, ông Hai vui mừng tới mức “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”.
– Ở nơi tản cư nhưng ông vẫn luôn hướng về cách mạng, hướng về quê hương.
b. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu của mình theo giặc.
– Đó là khi ông bắt gặp những người tản cư mới lên, mang theo những tin tức mới trong đó có tin về làng Chợ Dầu của ông.
+ Khi nghe đến cái tên làng mình, ông Hai “lắp bắp hỏi: Nó…Nó vào làng Chợ Dầu hở bác?”
+ Khi nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai như chết đứng “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “tưởng như đến không thở được”.
+ Ông hỏi lại trong niềm băn khoăn, sợ hãi “Liệu có thật không hở bác?” nhưng nhận lại là sự khẳng định chắc nịch khiến ông Hai bỗng chốc sụp đổ, cảm giác tủi nhục lan dần trong tâm trí ông.
+ Ông Hai yêu làng bao nhiêu thì giờ đây tủi nhục, đau xót bấy nhiêu, nó khiến ông phải “cúi gằm mặt xuống mà đi”.
– Ông Hai trở về nhà trong nỗi đau đớn, ông “nằm vật ra giường”, “nước mắt ông lão giàn ra”, ông tủi hổ vô cùng.
+ Nhìn những đứa con, ông càng đau xót, tủi hổ hơn “chúng nó cũng là trẻ con của làng Việt gian đấy ư?”
+ Bao nhiêu tâm tư giằng xé trong tâm trí ông, ông thương con và thương cho cả chính bản thân mình.
+ Ông căm phẫn những kẻ phản đồ, “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước?”.
+ Ông Hai không cam tâm, ông kiểm điểm lại từng người trong làng “Họ toàn là những người có tinh thần cơ mà”.
+ Thế nhưng niềm hi vọng cuối cùng bị dập tắt, nỗi chua xót trào dâng trong tâm hồn ông “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!”.
+ Đó là tiếng thét uất hận của một trái tim đau đớn, khi nghe tin cái làng mình yêu quý theo giặc.
– Nỗi đau, sự bứt rứt trong lòng khiến ông gắt gỏng với vợ mình, ông lo lắng, sợ mụ chủ nhà đuổi, sợ không còn chỗ dung thân,…
– Sau khi nghe tin dữ, ông Hai không còn hoạt bát như trước, ông lầm lũi “quanh quẩn trong nhà”, không ra ngoài cũng chẳng tâm sự cùng ai.
+ Nghe những từ như “Tây, xe cam-nhông”,… là khiến cho ông sợ hãi, né tránh.
+ Đến khi mụ chủ nhà có ý đuổi gia đình ông đi, ông đứng trước lựa chọn, “trở về làng” hay theo cách mạng, ông đã quả quyết, dứt khoát theo kháng chiến “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”.
c. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính:
– Khuôn mặt ủ rũ của ông hôm nay trở nên “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.
– Ông mua quà cho con, chạy sang nhà bác Thứ khoe với giọng bô bô “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn”.
+ Niềm vui sướng, hả hê đến vô cùng dù rằng nhà ông bị đốt phá. Bởi đó là minh chứng cho việc làng ông không theo Việt gian và ông không trở thành một kẻ tội đồ của dân tộc.
+ Sự mâu thuẫn rất đỗi hợp lí chứng minh cho ngòi bút xuất sắc của Kim Lân.
– Câu chuyện khép lại trong sự hân hoan, náo nức, vui sướng của ông Hai.
d. Đánh giá nội dung, nghệ thuật:
– Nội dung: Qua nhân vật ông Hai, ta cảm nhận được tình yêu quê hương thống nhất cùng tình yêu đất nước và tinh thần kháng chiến. Đó chính là tình yêu đất nước của những người nông dân trong thời kì kháng chiến cứu quốc.
– Nghệ thuật: Nghệ thuật xây dựng nhân vật vô cùng thành công:
+ Đặt nhân vật vào tình huống cụ thể để làm nổi bật tính cách nhân vật.
+ Miêu tả cụ thể vẻ mặt, cử chỉ, hành động,… khiến nhân vật hiện lên chân thực, đầy sức sống.
+ Ngôn ngữ trong truyện mộc mạc, giản dị, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân.
3. Kết bài:
– Ông Hai là linh hồn của truyện ngắn “Làng”.
– Ông là đại diện cho những người nông dân đã góp phần vào chiến thắng của kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
II. Bài văn mẫu Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng (Chuẩn)
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết về những người nông dân, về làng quê nông thôn Việt Nam. Tiêu biểu trong các sáng tác của ông phải kể đến truyện ngắn “Làng”. “Làng” là tác phẩm ca ngợi lòng yêu nước thống nhất cùng tình yêu làng quê, ca ngợi tinh thần cách mạng của những người dân quê chân chất, hiền lành. Điều đó được thể hiện rõ nét qua nhân vật ông Hai – một người dân nghèo nhưng có một tình cảm gắn bó với quê hương sâu sắc.
Đối với những người dân nông thôn nghèo, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, nó là tất cả, là quê hương, là nơi họ hàng, dòng tộc cùng nhau sinh sống, là nơi con cái trưởng thành, là chốn linh thiêng nương tựa tâm hồn,… Làng lưu giữ những thứ đơn sơ, giản dị nhưng thân thuộc, gắn bó với mỗi con người. Với truyện ngắn “Làng”, Kim Lân, đã khắc họa nổi bật tình yêu làng, tình yêu nước của nhân vật ông Hai.
Ông Hai là một người nông dân nghèo, chăm chỉ chịu khó làm ăn và là một con người vô cùng tự hào về làng của mình. Nghe theo lệnh của Uỷ ban kháng chiến, ông rời làng lên khu tản cư. Sống ở nơi đất khách quê người, thế nhưng ông Hai luôn đau đáu trong lòng nỗi nhớ quê. Trước đây, đi đâu ông Hai cũng khoe về làng mình, mặc kệ người khác có nghe hay không, ông chỉ nói cho thỏa niềm mong mỏi, nỗi nhớ da diết của mình đối với làng. Lời kể của ông qua mỗi thời kì lại biến đổi, duy chỉ có lòng yêu làng là vẫn vẹn nguyên qua bao năm tháng. Ở nơi tản cư, vẫn là làm lụng, cuốc đất trồng trọt, thế nhưng ông Hai hay hoài niệm về những ngày “cùng làm việc với anh em”, cùng “đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá,…”, “cũng cuốc mê man cả ngày”. Những lúc ấy, ông thấy “mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, cũng bông phèng”. Càng nghĩ về những ngày tháng còn được ở làng, nỗi nhớ làng trong ông càng da diết, triền miên “Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!”. Nỗi nhớ ấy là tình yêu làng, là nỗi khát khao được trở về nơi xóm làng thân thuộc, để cùng anh em “dựng chòi”, đào “đường hầm bí mật”. Yêu làng, yêu kháng chiến, vậy nên dù ở nơi tản cư, dù bận bịu với công việc đồng áng, thế nhưng ông Hai vẫn giữ cho mình thói quen vào phòng thông tin để nghe tin tức của kháng chiến, tin tức về làng của ông. Trên đường, ông gặp ai cũng “níu lại, cười cười” rồi nói bằng cái giọng cười vui vẻ: “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó”. Khi nghe thấy những chiến thắng của quân ta, của kháng chiến, ông lão vui mừng đến độ “ruột gan ông cứ múa cả lên, vui quá!”. Có thể nói, ông Hai ở nơi tản cư nhưng tấm lòng vẫn luôn hướng về quê hương, hướng về kháng chiến, không hề thay đổi.
Thế nhưng biến cố ập tới khiến ông không thể ngờ được. Tấm lòng yêu làng của ông đứng trước một thử thách lớn lao. Đó là khi đang vui mừng trước tin thắng lợi, khi “những ý nghĩa vui thích chen chúc trong đầu óc” của ông thì ông Hai gặp gỡ những người tản cư từ dưới đi lên. Nghe thấy cái tên làng Chợ Dầu của mình bật ra từ miệng người đàn bà tản cư, ông Hai giật mình “quay phắt lại, lắp bắp hỏi: “Nó… Nó vào làng Chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Thế nhưng đáp lại lời của ông, người đàn bà lại trả lời một cái tin như sét đánh ập thẳng vào tai của người nông dân già: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”. Cái tin dữ khiến cho ông Hai như chết lặng, “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rần rần. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thể thở được”. Kim Lân đã miêu tả thật tài tình thế giới nội tâm của ông Hai, nó chân thực qua từng nét mặt, từng cử chỉ hành động. Cái tin làng Chợ Dầu của ông theo giặc khiến cho ông như bị bóp nghẹt trong đau đớn, sợ hãi. Ông chẳng thể tiếp nhận được, mà liên tục hỏi lại trong niềm hi vọng điều ông vừa nghe chỉ là một cái tin đồn: “Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…” . Đáp lại tiếng hỏi với cái “giọng lạc hẳn đi” của ông Hai là lời đáp chắc như đinh đóng cột “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ”. Bao nhiêu nỗi nhớ mong, khao khát được trở về làng, tình yêu làng, niềm tự hào về làng trong ông bỗng chốc sụp đổ, vỡ vụn. Ông không đủ can đảm để nghe tiếp câu chuyện của người đàn bà nọ, cũng không dám nghe những lời bàn tán về cái làng mà ông nhất mực tin yêu. Ông Hai đứng dậy, vội vàng, bâng quơ, lấy lí do để trở về nhà. Những lời đối thoại ấy mới cay đắng, đau xót, mới tàn nhẫn làm sao! Nó như cứa vào tâm can ông Hai những vết cắt đau đớn, bởi ông là một người con của làng Chợ Dầu, ông yêu cái làng đó biết bao nhiêu, vậy mà giờ đây lại nghe được tin cả làng ông theo giặc. Nỗi đau ấy, sự nhục nhã, tủi hổ ấy khiến cho ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”.
Trở về nhà, bao nhiêu niềm vui nghe tin thắng lợi khi từ phòng thông tin bay biến hết, ông Hai “nằm vật ra giường”. Bao nhiêu suy nghĩ cứ đan xen, lẩn khuất trong tâm trí ông. Ông nghĩ về cái làng của mình, nghĩ về những đứa con mà những cảm xúc trong ông dâng trào, biến thành những giọt nước mắt “giàn ra” trên khuôn mặt già nua. Ông cay đắng và tủi hổ biết chừng nào, bao câu hỏi cứ đua nhau giằng xé tâm can ông: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt Gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu,…”. Kim Lân đã dựng lên một đoạn độc thoại nội tâm vô cùng xuất sắc, khắc hoạ thành công tâm trạng đan xen, giằng xé trong lòng lão nông dân già ấy. Ông thương xót con, thương cho chính bản thân mình, những con người giờ đây đã trở thành những kẻ tội đồ, những kẻ thuộc “cái giống Việt gian bán nước”. Ông căm phẫn đến tận xương tuỷ lũ phản đồ theo giặc, bao nhiêu dồn nén trong lòng, ông “nắm chặt hai tay lại mà rít lên” trong đau đớn, xót xa, tủi nhục: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Thế nhưng, dù có đau khổ, có dằn vặt nhưng ông vẫn không tin rằng làng mình, ngôi làng mà mình yêu quý, thân thuộc lại trở thành Việt gian. Ông “kiểm điểm từng người trong óc”, lật tìm trong trí nhớ của mình. Họ đều là những người anh em của ông, họ “toàn là những người có tình thần cơ mà” làm sao có thể “cam tâm làm điều nhục nhã” như là Việt gian cơ chứ? Ông Hai cố bám víu vào chút niềm tin cuối cùng. Vậy nhưng “thằng chánh Bệu thì đích thị người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói?”. Những dòng suy nghĩ ấy ồ ạt đến, lan tràn trong tâm trí của ông Hai, dập tắt cái hy vọng cỏn con vừa bùng lên trong lòng ông. Nỗi đau xót dâng tràn trong tâm hồn ông, tủi nhục, đau đớn “Chao ôi! Cực nhục chưa, cà làng Việt gian”. Đó là tiếng thét lên đầy uất hận, đau đớn của một trái tim đau đáu hướng về quê hương, từ một tâm hồn lúc nào cũng tự hào về cái làng của mình. Ông Hai đau cho mình, ông còn đau cho cả những người dân làng Chợ Dầu đang tan tác khắp nơi nữa, họ đều là đồng hương và giờ đây biến thành những kẻ mang tội vì ở trong một cái làng Việt gian bán nước.
Nỗi đau, sự bứt rứt khiến ông Hai bật ra những lời gắt gỏng với vợ mình. Sự dồn nén tích tụ trong tâm can ông, ông không muốn ai nhắc tới những điều tồi tệ ấy. Những nỗi lo bủa vây lấy ông, lo bị mụ chủ nhà đuổi, lo không ai chứa chấp những người của làng Việt gian,… Những nỗi lo lắng và cả niềm đau hành hạ tâm hồn ông khiến cho ông “rũ ra trên giường”, “trằn trọc” và “thở dài”, “trống ngực đập thình thịch”. Đó là một lẽ đương nhiên, bởi biết bao cuộc kháng chiến của dân tộc ta thắng lợi là vì chúng ta có một lòng yêu nước nồng nàn, căm ghét lũ giặc cướp nước, ghê tởm những kẻ tay sai, Việt gian theo giặc.
Từ khi nghe tin dữ, ông Hai dường như biến thành một con người khác. Ông ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng cảm thấy mình như một kẻ mang tội và nơm nớp trong nỗi tủi nhục. Nếu trước kia, ông thường ra đường, đến phòng thông tin “nghe lỏm” người ta đọc báo thì nay, ông “chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng”, ông không dám bước ra khỏi nhà. Và như một lẽ đương nhiên, ông Hai sợ cả những từ như “tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông,…”, tất cả những tiếng ấy làm ông “chột dạ”. Ông né tránh những gì liên quan đến cái tin dữ ông đã nghe, và gọi đó là “chuyện ấy”. Bởi nỗi đau đớn, tủi nhục ê chề đã khiến ông chẳng dám đối mặt với câu chuyện đau xót về cái làng của mình. Ông Hai – một lão nông giàu tình yêu nước, chất phác, luôn tự hào về làng của mình, nhận cái tin làng Chợ Dầu mình luôn tin tưởng, tự hào ấy theo giặc thì đó quả là một nỗi uất ức, nhục nhã đến khôn cùng. Bởi với ông, làng là quê hương, là máu thịt, là danh dự của cả cuộc đời ông.
Lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông, ông Hai lại đứng trước một lựa chọn mới, chọn làng hay chọn Tổ quốc. Với một con người yêu làng như ông Hai, đã có lúc ông nghĩ rằng “Hay là quay về làng?”, nhưng suy nghĩ đó ngay lập tức bị ông bác bỏ bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Dù rằng đó là ngôi làng mà ông yêu quý, ngôi làng mà ông gắn bó và tự hào, ngôi làng mà ông luôn khao khát được trở về. Lòng ông mới thật đau nhói, thật xót xa, tuyệt vọng biết bao. Đọc đến đây, ta mới hiểu được lòng yêu nước của mỗi người dân Việt Nam to lớn đến nhường nào, như ông Hai, là một người yêu làng, yêu quê hương đến cháy bỏng, vậy nhưng khi đứng trước lựa chọn, ông vẫn một lòng hướng về cách mạng, hướng về kháng chiến. Ông đã quyết định một cách dứt khoát rằng: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đó là thứ tình cảm rạch ròi, chắc nịch của những người dân quê nghèo nàn, ít học, là tình yêu nước thiết tha, mạnh mẽ, thiêng liêng.
Ở nhà không được ra ngoài, phải quanh quẩn trong cái gian nhà bé tí tẹo đã khiến tâm trạng ông Hai bị dồn nén. Nếu là ngày trước, ông đã chạy ngay sang nhà bác Thứ để trò chuyện, để tâm sự, thế nhưng giờ đây, ông chỉ dám tâm sự cùng đứa con trai nhỏ. Ông hỏi nó về làng, cho thoả nỗi mong nhớ quê, và cũng là để con trai ông có thể khắc ghi trong tâm khảm như ông rằng quê hương của nó chính là Chợ Dầu. Chắc hẳn ông Hai còn yêu làng Chợ Dầu của mình lắm, phải, ông còn yêu lắm, bởi đó là gốc gác, là niềm tự hào của ông từ bao lâu nay. Đồng thời, ông cũng truyền cho con mình thứ tình cảm sâu sắc nhất cuộc đời mỗi con người: tình yêu nước, yêu quê hương. Có thể thấy tình yêu làng và tình yêu nước trong ông đã thống nhất làm một. Câu chuyện của ông với con trai chỉ là những lời nói để ông Hai có thể vơi bớt những nỗi niềm trong lòng, và để chứng minh tấm lòng trong sạch của mình “ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa”. Ông Hai là hình ảnh điển hình của người nông dân Việt Nam chất phác, hồn hậu, trong hoàn cảnh đau đớn nhất vẫn luôn ngời sáng tình yêu đất nước, yêu quê hương.
Thế nhưng đêm đen rồi cũng qua đi, bình minh rồi cũng tỏa sáng, những tủi nhục nhường chỗ cho niềm vui, rạng rỡ. Cái tin cải chính về làng ông cũng đến bất ngờ như cái tin dữ làng Chợ Dầu theo Việt gian. Và có lẽ chính điều đó đã hồi sinh một ông lão đang thất thần, cứu rỗi tâm hồn ông, rũ sạch hết thảy những đau khổ, tủi hờn trước đó. Chiều hôm đó, ông ra ngoài theo một người đàn ông lạ mặt sau bao ngày quanh quẩn nơi xó nhà. Trở về nhà, thay vì khuôn mặt xám xịt, nhăn nhó, “buồn thiu” như mọi ngày thì hôm nay ông Hai “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông mua quà cho con, “lật đật” chạy sang nhà bác Thứ mà khoe trong niềm vui sướng “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn!”. Chắc hẳn chưa từng có một người nông dân nào lại vui sướng đến vậy khi nhà mình bị đốt trụi bởi ngôi nhà là thứ mà họ phải cày bừa, cuốc mướn bao thời gian mới có được. Thế nhưng điều đó với ông Hai lại là một sự hả hê, sung sướng đến vô cùng. Bởi nó là minh chứng rõ ràng nhất cho việc làng ông không theo Tây, không theo Việt gian mà vẫn luôn theo kháng chiến, theo Cụ Hồ. Và ông Hai, một người con của làng Chợ Dầu thoát khỏi cái danh “người làng Việt gian” để tiếp tục sống và yêu nước trong đàng hoàng, minh bạch và hơn thế, là ông lại có thể tiếp tục được tự hào về quê hương của mình. Ta có thể thấy rõ sự mâu thuẫn trong tình huống này, thế nhưng mâu thuẫn đó lại rất hợp tình, hợp lí, nó là minh chứng cho ngòi bút kể chuyện và miêu tả tâm lí nhân vật xuất sắc của Kim Lân. Kết thúc câu chuyện là âm thanh náo nức, reo mừng, hân hoan tưởng như vỡ oà của ông Hai. Ông là biểu tượng cho những người nông dân Việt Nam, họ thà hi sinh tất cả, hi sinh mảnh vườn, căn nhà, miếng đất chứ nhất quyết không để tình yêu nước, lòng tự tôn dân tộc bị vấy bẩn.
Qua nhân vật ông Hai, tác giả muốn gửi gắm hình ảnh về những người nông dân Việt Nam chất phác, hồn hậu nhưng lại có trong mình tình yêu làng quê, yêu đất nước và tinh thần kháng chiến rất sâu sắc. Họ có thể sẵn sàng đánh đổi cả những thứ quý giá nhất của mình để giữ gìn tình yêu nước trong sáng, tinh thần tự tôn dân tộc.
Về nghệ thuật, qua truyện ngắn “Làng”, ta có thể thấy được cách xây dựng nhân vật vô cùng độc đáo của Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật vào trong tình huống ngặt nghèo để thấy rõ tâm lí, tính cách của nhân vật. Việc miêu tả cụ thể từng nét mặt, giọng nói, cử chỉ,… cũng đã tạo nên một nhân vật ông Hai hết sức chân thực, sinh động. Ngôn ngữ truyện mang đậm tính khẩu ngữ của vùng đồng bằng Bắc Bộ, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân.
Có thể nói rằng, nhân vật ông Hai đã làm nên linh hồn cho truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân. Bức chân dung về người nông dân nghèo nhưng đậm đà bản sắc riêng, chứa đựng tình yêu nước nồng nàn khiến cho thiên truyện càng thêm sâu sắc. Ông Hai chính là biểu tượng cho những người nông dân nghèo, những con người đã góp phần làm nên chiến thắng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
—————-HẾT—————-
Truyện ngắn Làng đã để lại cho chúng ta những ấn tượng sâu sắc về tình yêu quê hương của người nông dân nghèo. Để hiểu thêm về tác phẩm đặc sắc này, hãy cùng tham khảo thêm các bài viết khác như: Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, Phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp