Hãy cùng tìm hiểu Cần kiệm liêm chính là gì? ngay dưới đây:
Nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, nhất là trước tác phẩm Người để lại, có thể thấy rằng: Người không chỉ nhấn mạnh “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất quan trọng nhất; chi phối các phẩm chất đạo đức khác của người cách mạng mà còn khẳng định “cần, kiệm, liêm, chính” là yêu cầu nhất thiết phải có, là “tứ đức” cơ bản làm nên “gốc” của người cách mạng.
“Tứ đức” vốn là những khái niệm đạo đức truyền thống phương Đông được Người chọn lọc và tiếp biến với những yêu cầu, nội dung mới, thể hiện trong 23 yêu cầu về “Tư cách một người cách mệnh” (Đường Cách mệnh, 1927), (Đời sống mới, Sửa đổi lối làm việc, 1947); đề cập trong nhiều tác phẩm sau đó và cuối cùng là trong bản Di chúc lịch sử, 1969…
Trong tác phẩm Đời sống mới (3/1947), Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải thực hành “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” nhưng đến tác phẩm “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, Người đã coi “tứ đức” là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc và luận giải “tứ đức” trong tổng thể của trời, đất, con người và mối quan hệ của mùa – trời; của phương – đất; của đức – người. Giản dị mà khúc chiết, Người khẳng định:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Bạn đang xem: Cần Liệm Liêm Chính là gì? Ví dụ về Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người”.
Từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nền Dân chủ Cộng hoà, cho đến mấy năm kháng chiến, dân ta nhờ Cần, Kiệm, Liêm, Chính mà đánh thắng được giặc lụt, giặc dốt, giặc thực dân và giặc đói.
Tuy vậy, đồng bào ta có người hiểu rõ, có người chưa hiểu rõ. Có người thực hành nhiều, có người thực hành ít. Cho nên cần phải giải thích cho rõ ràng, để cho mọi người hiểu rõ, mọi người đều thực hành.
Cần là gì?
Tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai.
Người Tàu có câu: không có việc gì khó. Chỉ e ta không siêng.
Tục ngữ có câu: Nước chảy mãi, đá cũng mòn. Kiến tha lâu, cũng đầy tổ.
Nghĩa là Cần thì việc gì, dù khó khăn mấy, cũng làm được.
Dao siêng mài thì sắc bén. Ruộng siêng làm cỏ thì lúa tốt. Điều đó rất dễ hiểu.
Siêng học tập thì mau biết.
Siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến.
Siêng làm thì nhất định thành công. Siêng hoạt động thì sức khoẻ.
Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai. Nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần.
Người siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu.
Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc. Nghĩa là phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng.
Cây gỗ bất kỳ to nhỏ, đều có gốc và ngọn.
Công việc bất kỳ to nhỏ, đều có điều nên làm trước, điều nên làm sau. Nếu không có kế hoạch, điều nên làm trước mà để lại sau, điều nên làm sau mà đưa làm trước, như thế thì sẽ hao tổn thì giờ, mất công nhiều mà kết quả ít.
Cụ Mạnh Tử có nói: “Người thợ muốn làm khéo, thì trước phải sắp sẵn công cụ của mình”.
Một thí dụ:
Người thợ mộc muốn đóng một cái tủ. Trước hết, anh ta mài sẵn cưa, bào, tràng, đục, v.v. và làm sao xếp có thứ tự hẳn hoi. Rồi anh lấy gỗ vừa đủ làm cái tủ. Khi các thứ đều sẵn sàng, anh ta bèn bắt tay vào việc đóng tủ.
Như thế là anh thợ mộc ấy làm việc có kế hoạch. Như thế là anh ấy sẽ không hao thì giờ, tốn lực lượng, mà việc lại mau thành.
Trái lại, nếu anh ấy không sắp đặt sẵn sàng trước, khi cần đến cưa mới chạy đi lấy cưa, khi cần đến đục thì phải chạy đi tìm đục. Như vậy thì mất thì giờ chạy lăng xăng cả ngày, mà công việc được ít.
Việc to, việc nhỏ, muôn việc đều như vậy.
Vì vậy, siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau.
Kế hoạch lại đi đôi với phân công.
Trong một gia đình, một xưởng máy, một cơ quan, v.v. đã phải có kế hoạch, lại phải phân công cho khéo.
Phân công phải nhằm vào 2 điều:
1. Công việc: Việc gì gấp thì làm trước. Việc gì hoãn thì làm sau.
2. Nhân tài: Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào việc ấy.
Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao cho việc thợ rèn, người giỏi nghề rèn thì giao cho việc thợ mộc, như thế hai người đều thất bại cả hai.
Cần và chuyên phải đi đôi với nhau. Chuyên nghĩa là dẻo dai, bền bỉ. Nếu không chuyên, nếu một ngày cần mà mười ngày không cần, thì cũng vô ích. Như thế chẳng khác gì một tấm vải phơi một hôm mà ngâm nước mười hôm, thì ướt hoàn ướt.
Cần không phải là làm xổi. Nếu làm cố chết cố sống trong một ngày, một tuần hay một tháng, đến nỗi sinh ốm đau, phải bỏ việc. Như vậy, không phải là cần.
Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời. Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc cho lâu dài.
Lười biếng là kẻ địch của chữ cần.
Vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc.
Một người lười biếng, có thể ảnh hưởng tai hại đến công việc của hàng nghìn hàng vạn người khác.
Một thí dụ:
Trong thời kỳ kháng chiến của dân tộc ta, các vị kỹ sư thì chăm lo phát minh những thứ khí giới mới. Đồng bào thì chăm lo cung cấp các thứ nguyên liệu. Những người vận tải thì chăm lo đưa những nguyên liệu ấy đến các xưởng máy. Anh em công nhân thì chăm lo rèn đúc ra những thứ khí giới mới. Các chiến sĩ chăm lo luyện tập dùng những vũ khí ấy để giết cho nhiều giặc.
Tất cả mọi người đó như kết thành một sợi dây chuyền, quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Mọi người đều Cần, thì dây chuyền ấy chạy rất thuận lợi và nhanh chóng. Kết quả là địch mau thua, ta mau thắng.
Nếu trong những người đó mà có người lười biếng, thì công việc của những người khác ắt chậm lại, khác nào sợi dây chuyền có một khúc hỏng. Kết quả sẽ tai hại thế nào, rất là dễ hiểu.
Lại một thí dụ nữa: Toàn dân tộc ta đoàn kết thành một khối. Công việc của mọi người, mọi địa phương, mọi ngành đều phối hợp với nhau, như một chuyến xe lửa. Tất cả mọi người, mọi địa phương, mọi ngành đều cố gắng, đều siêng năng, thì nước ta sẽ tiến bộ rất nhanh chóng. Cũng như chuyến xe lửa chạy đều, chạy nhanh, mau đến ga. Nếu có một người, một địa phương hoặc một ngành mà lười biếng, thì khác nào toàn chuyến xe chạy, mà một bánh xe trật ra ngoài đường ray. Họ sẽ làm chậm trễ cả chuyến xe.
Vì vậy, người lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc.
Kết quả chữ Cần là thế nào?
Kết quả chữ Cần rất là to lớn. Một thí dụ:
Trong 20 triệu đồng bào ta, cho 10 triệu là thanh niên và thành nhân có sức làm việc. Nếu mỗi người, mỗi ngày chỉ làm thêm một tiếng đồng hồ, thì:
- Mỗi tháng sẽ thêm lên 300 triệu giờ.
- Mỗi năm thêm lên 3.600 triệu giờ.
Chỉ những giờ ấy đã bằng động viên 400 triệu người làm trong một ngày 9 giờ.
Cứ tính một giờ làm là đáng giá một đồng bạc, thì mỗi năm nước ta có thêm được 3.600 triệu đồng. Đưa số tiền đó thêm vào kháng chiến, thì kháng chiến ắt mau thắng lợi, thêm vào kiến quốc, thì kiến quốc ắt mau thành công.
Đó là kết quả rõ ràng của chữ CẦN.
Kiệm là gì?
Kiệm là thế nào?
Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi.
CẦN với KIỆM, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
CẦN mà không KIỆM, “thì làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng không có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.
KIỆM mà không CẦN, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà vật gì đã không tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt.
Cụ Khổng Tử nói: “Người sản xuất nhiều, người tiêu xài ít. Làm ra mau, dùng đi chậm thì của cải luôn luôn đầy đủ”.
Tiết kiệm cách thế nào?
Chắc đồng bào ai cũng được nghe câu chuyện phong bì của Hồ Chủ tịch.
Hồ Chủ tịch dùng một cái phong bì hơn 2,3 lần. Cụ nói:
“Trung bình, cái phong bì là 180 phân vuông giấy (0,018 m2).
Mỗi ngày, các cơ quan, đoàn thể và tư nhân trong nước ta ít nhất cũng dùng hết một vạn cái phong bì, tức là 180 thước vuông giấy. Mỗi tháng là 5.400 thước. Mỗi năm là 64.800 thước vuông giấy.
Nếu ai cũng tiết kiệm, dùng một cái phong bì 2 lần, thì mỗi năm chỉ tốn một nửa giấy, tức là 32.400 thước vuông. Còn 32.400 thước thì để dành cho các lớp bình dân học vụ, thì chẳng tốt sao?
Hơn nữa, nhờ sự tiết kiệm giấy, mà tiền bạc và công phu làm giấy có thể thêm vào việc kiếm tiền khác, thì càng ích lợi hơn nữa…”.
Cái thí dụ ấy rất rõ rệt, dễ hiểu. Đối với giấy như thế, đối với mọi thứ vật liệu khác đều như thế.
Thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải.
Của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ đã qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được. Có ai kéo lại ngày hôm qua được không?
Muốn tiết kiệm thời giờ, thì việc gì ta cũng phải làm cho nhanh chóng, mau lẹ. Không nên chậm rãi. Không nên “nay lần mai lữa”.
Tiết kiệm thời giờ là KIỆM và cũng là CẦN.
Bất kỳ làm việc gì, nghề gì, khi đã làm thì phải làm hăng hái, chăm chỉ, chuyên chú, làm cho ra trò làm.
Tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người. Không nên ngồi lê, nói chuyện phiếm, làm mất thời giờ người khác.
Thánh hiền có câu: “Một tấc bóng là một thước vàng”.
Tục ngữ Âu nói: “Thời giờ tức là tiền bạc”.
Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt đi, là người ngu dại.
Tiết kiệm không phải là bủn xỉn.
Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm.
Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm.
Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ.
Việc đáng làm trong một giờ, mà kéo dài đến 2,3 giờ, là xa xỉ.
Hao phí vật liệu, là xa xỉ.
Ăn sang mặc đẹp trong lúc đồng bào đang thiếu cơm, thiếu áo, là xa xỉ. Ăn không ngồi rồi, trong lúc đang cần kháng chiến và xây dựng, là xa xỉ.
Vì vậy, xa xỉ là có tội với Tổ quốc, với đồng bào.
Tiết kiệm ngĩa là:
- 1 giờ làm xong công việc của 2,3 giờ.
- 1 người làm bằng 2,3 người.
- 1 đồng dùng bằng giá trị 2,3 đồng.
Cho nên, muốn tiết kiệm có kết quả tốt thì phải khéo tổ chức. Cái thí dụ người thợ mộc nói trên, đã chứng tỏ rằng: biết tổ chức thì tiết kiệm được sức lực, thời giờ và vật liệu.
Không biết tổ chức thì không biết tiết kiệm. Thí dụ: nếu 1 nhà 10 người, mỗi người nấu riêng một nồi cơm, thì tốn biết bao nhiêu nồi, bao nhiêu củi và nước, bao nhiêu công phu. Góp nhau lại nấu chung một nồi, thì lợi biết bao nhiêu.
Vì vậy, góp sức làm việc (lao động tập đoàn), và hợp tác xã, là một cách tiết kiệm tốt nhất.
KẾT QUẢ CỦA TIẾT KIỆM
Trên kia đã thuật lại cái thí dụ tiết kiệm phong bì, mà Hồ Chủ tịch đã dạy chúng ta. Đây tôi xin thêm một thí dụ nữa:
Nước ta có 20 triệu người. Nhiều bù ít, mỗi người mỗi ngày ăn 700 gam gạo, mỗi tháng là 21 kilô gạo.
Nếu mỗi ngày mỗi người chỉ tiết kiệm nửa bát cơm (việc đó rất dễ, ai cũng làm được), thì mỗi tháng cả nước sẽ tiết kiệm được 20 triệu kilô gạo, nghĩa là đủ nuôi một triệu chiến sĩ trong một tháng.
Hiện nay, mấy xã ở Liên khu I có sáng kiến làm “Hũ gạo kháng chiến”. Mỗi nhà mỗi ngày cứ bỏ vào hũ một vốc gạo. Chỉ thế thôi, mà số gạo đủ nuôi anh em dân quân du kích trong xã.
Đó là một sáng kiến tiết kiệm hay, mà các nơi nên làm theo. Nếu toàn dân ta THI ĐUA TIẾT KIỆM:
Các cơ quan tiết kiệm tiền công và của công, để đỡ tốn ngân quỹ;
Chiến sĩ thi đua tiết kiệm thuốc đạn, bằng cách bắn phát nào trúng phát ấy;
Công nhân thi đua tiết kiệm nguyên liệu;
Học sinh thi đua tiết kiệm giấy bút;
Đồng bào hậu phương thi đua tiết kiệm tiền bạc và lương thực, để giúp đỡ bộ đội;
Mỗi người, thi đua tiết kiệm thời giờ;
Thì kết quả thi đua tiết kiệm cũng bằng kết quả thi đua tăng gia sản xuất.
Một mặt, chúng ta thi đua KIỆM.
Một mặt, chúng ta thi đua CẦN.
Kết quả CẦN cộng với kết quả KIỆM là: bộ đội sẽ đầy đủ, nhân dân sẽ ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công, nước ta sẽ mau giàu mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến trên thế giới.
Kết quả chữ CẦN chữ KIỆM to lớn như vậy đó.
Cho nên người yêu nước thì phải thi đua thực hành tiết kiệm.
Liêm là gì?
Liêm là trong sạch, không tham lam.
Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là LIÊM, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp.
Cũng như ngày xưa trung là trung với vua. Hiếu là hiếu với cha mẹ mình thôi.
Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hoà, chữ LIÊM có nghĩa rộng hơn; là mọi người đều phải LIÊM. Cũng như trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân; ta thương cha mẹ ta, mà còn phải thương cha mẹ người, phải cho mọi người đều biết thương cha mẹ.
Chữ LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM. Cũng như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ CẦN.
Có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam.
Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM.
Người cán bộ, cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư.
Người buôn bán, mua 1 bán 10, hoặc mua gian bán lậu chợ đen chợ đỏ, tích trữ đầu cơ.
Người có tiền, cho vay cắt cổ, bóp hầu bóp họng đồng bào.
Người cày ruộng, không ra công đào mương mà lấy cắp nước ruộng của láng giềng.
Người làm nghề (bất cứ nghề gì) nhân lúc khó khăn mà bắt chẹt đồng bào. Người cờ bạc, chỉ mong xoay của người làm của mình. Đều là tham lam, đều là BẤT LIÊM.
Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm).
Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật uý lạo.
Gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh uý tử.
Đều làm trái với chữ LIÊM.
Do BẤT LIÊM mà đi đến tội ác trộm cắp. Công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp.
Cụ Khổng Tử nói: “Người mà không Liêm, không bằng súc vật”.
Cụ Mạnh Tử nói: “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”. Để thực hiện chữ Liêm, cần có tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống, từ dưới lên trên.
Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân.
“Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm cũng phải hoá ra LIÊM.
Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM.
Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì.
Mỗi người phải nhận rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân.
Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân.
Chính là gì?
CHÍNH nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc của CHÍNH.
Nhưng một cây cần phải có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn”.
Tiếp đó, Hồ Chí Minh viết tiếp “trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người THIỆN và người ÁC. Trong xã hội, có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc CHÍNH và việc TÀ. Làm việc Chính là người Thiện. Làm việc Tà là người Ác. Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), CHÍNH là THIỆN. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác”
Để là CHÍNH, mỗi người:
ĐỐI VỚI MÌNH, phải “chớ tự kiêu, tự đại; luôn luôn cầu tiến bộ; luôn luôn tự kiểm điêmmr, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình.
Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”, vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”.
ĐỐI VỚI NGƯỜI, “phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác – Ái”.
ĐỐI VỚI VIỆC, “phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”, “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm.
Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình), dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to. Cả 20 triệu đồng bào đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau giàu, dân ta nhất định nhiều hạnh phúc. Ai chẳng muốn cho tự mình thành một người tốt”.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính – là cốt lõi đạo đức cách mạng
Tấm gương cần, kiệm, liêm, chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khái quát: “Bốn chữ Cần, Kiệm, Liêm, Chính-là cốt lõi đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đạo đức ấy của Bác là “tinh hoa của dân tộc”, là “lương tâm của thời đại”. Bác Hồ là tấm gương sáng ngời về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Bác là điển hình của sự nhất quán giữa lời nói và việc làm, giữa tư tưởng và lối sống, suốt đời vì nước vì dân”. Cũng về điều này, đồng chí Trường Chinh trong bài viết đăng trên Báo Nhân Dân, số 8, ngày 13-5-1951 viết: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đó là đại cương đạo đức của Hồ Chủ tịch, mà toàn dân ta, trước hết đồng chí chúng ta cần phải học tập và thực hành”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là gương sáng, là hiện thân của đức tính “cần, kiệm, liêm, chính”. Thực hành tiết kiệm; giữ liêm khiết, trong sạch trở thành phong cách riêng của Người ở mọi lúc, mọi nơi. Người sống trung thực, chân thành với chính mình và với người khác.
Đời sống của Người thanh cao và giản dị, trọn đời vì nước, vì dân “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khổ không thể lay chuyển, uy lực không thể khuất phục”, bởi vì Người trước sau một lòng “trung với nước, hiếu với dân”, là vì Người luôn nêu gương “chí công vô tư”, cả đời gương mẫu thực hành cần, kiệm, liêm, chính.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các thành viên Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt tháng 8-1945. Ảnh: TTXVN |
Tại sao cán bộ, nhân dân, mọi tầng lớp trong xã hội lại phải cần, kiệm, liêm, chính?
Bác dạy rằng: Muốn giàu có thì mỗi cá nhân, mỗi gia đình cho đến cả nước phải tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, kết quả sẽ là những thứ gì cũng sẽ đầy đủ, dư dật.
- Cần tức là tăng năng suất trong công tác, bất kỳ là công tác gì.
- Kiệm tức là không lãng phí thì giờ, của cải của mình và của dân.
- Liêm tức là không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của nhân dân.
- Chính tức là việc phải dù nhỏ cũng làm, việc trái dù nhỏ cũng tránh. 4 điều này luôn phải đi liền với nhau và khái quát ở tầm cao là sự chí công vô tư.
Suy rộng ra, đã là người cán bộ thì làm việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến toàn dân đã… có khó nhọc thì mình nên đi trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau. Những cán bộ nào không làm được như vậy, sa vào chủ nghĩa cá nhân, chỉ thấy lợi ích riêng của mình, không thấy lợi ích của tập thể, thấy vật chất muốn hưởng thụ, có công việc không dám xung phong, cán bộ đó ắt đã biến chất. Từ sự biến chất ấy sẽ đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, tham ô, lãng phí… và như vậy, chủ nghĩa cá nhân chính là kẻ thù của nhân dân, kẻ thù của cần, kiệm, liêm, chính.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp