Đề bài: Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Bạn đang xem: Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
I. Dàn ý Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Chuẩn)
1. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
2. Thân bài:
* Khổ đầu:
– Mở ra bằng câu hỏi với giọng điệu tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”:
+ Là lời mời gọi, lời trách móc nhẹ nhàng của người con gái xứ Huế.
+ Là câu hỏi tự vấn của nhà thơ.
– Bức tranh phong cảnh của thôn Vĩ:
+ Được nhìn từ xa đến gần, từ cao xuống thấp.
+ Từ “nắng” lặp lại: gợi lên không gian ngập tràn ánh nắng sớm…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ tại đây.
II. Bài văn mẫu Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
1. Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu 1 (Chuẩn)
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Ông là một con người tài hoa nhưng mệnh bạc khi ông mắc phải căn bệnh phong quái ác từ khi còn rất trẻ. Có lẽ vì vậy mà trong thơ của ông luôn có hai thế giới song hành, một là sự tươi sáng, thanh khiết, một thế giới đầy ma quái, cuồng loạn. Đây thôn Vĩ Dạ được ra đời năm 1938 khi ông đang bị căn bệnh phong quái ác dày vò. Bài thơ được bắt nguồn cảm xúc từ tấm bưu thiếp có bức tranh phong cảnh xứ Huế và lời hỏi thăm của Hoàng Cúc, người con gái mà Hàn Mặc Tử từng tương tư. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu, tình yêu thiên nhiên, con người Vĩ Dạ cùng những tâm sự thầm kín của nhà thơ được bộc lộ rõ nét.
Hai khổ đầu của bài thơ bức tranh phong cảnh của Vĩ Dạ xứ Huế cùng nỗi lòng cô đơn, lạc lõng, trống rộng của tác giả khi phải xa cách thế giới, con người.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang âm điệu da diết, dường như là lời người thôn Vĩ đang mời gọi, đang hờn trách thi nhân sao không lại thăm.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Thế nhưng thực ra đây chỉ là câu hỏi tự vấn của nhà thơ bởi trong tâm ông luôn mong ngóng được thêm một lần “về chơi thôn Vĩ”. Hai chữ “về chơi” đã khiến Vĩ Dạ trở thành một nơi chốn thân thương với nhà thơ, là nơi mà ông gắn bó bằng cả tâm hồn mình.
Trở về Vĩ Dạ, nhà thơ muốn được ngắm nhìn những “hàng cau” cao vút, những vườn tược ngập tràn cỏ cây, để ngắm gương mặt ai thẹn thùng qua hàng lá trúc.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Khung cảnh Vĩ Dạ được mở ra từ xa tới gần, từ cao tới thấp, mỗi góc độ một vẻ đẹp nhưng đều thơ mộng và tràn trề sức sống trong ban mai. Trong hành trình “thăm” Vĩ Dạ bằng tâm tưởng, cái nhìn đầu tiên của nhà thơ dừng lại trên hình ảnh của “nắng hàng cau, nắng mới lên”. Hai từ “nắng” trong cùng một câu thơ khiến ta cảm nhận được cả một không gian tràn ngập sắc nắng sớm, mới mẻ và tinh khôi vô cùng. “Nắng hàng cau” là thứ nắng đặc trưng của Vĩ Dạ và Hàn Mặc Tử đã đặc biệt tinh tế phát hiện ra bởi Vĩ Dạ là nơi trồng rất nhiều cau. Những hàng cau cao vút, thẳng tắp vươn lên bầu trời đón những giọt nắng mai đầu tiên buông xuống và đó cũng là lúc cả thành phố Huế cựa mình thức dậy trong sự mát lành và tinh khôi.
Trong ánh nắng ban mai tinh khôi đó, khu vườn của “ai” hiện lên đầy sức sống, tràn trề nhựa mật.
“Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc”
Đại từ “ai” phiếm chỉ, không biết rõ là của người nào bởi khu vườn đó là khu vườn trong tâm tưởng của nhà thơ. Khu vườn đầy những cỏ cây xanh “mướt”. Chỉ một từ “mướt” thôi mà khiến cho người đọc cảm thấy cỏ cả một khu vườn tươi tốt, mơn mởn hiện ra trước mắt. Thêm vào đó, hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” cũng gợi cho ta hình ảnh về một khu vườn còn đẫm sương đêm đang được mặt trời soi tỏ. Mỗi nhành cây, phiến lá đều hiện lên lung linh, lóng lánh tựa như một khối ngọc bích khổng lồ. Lời thơ không chỉ là lời tả cảnh mà còn là sự trầm trồ của thi nhân khi ngợi ca cảnh vườn Vĩ Dạ với một tình yêu tha thiết.
Không chỉ say sưa ngắm nhìn vườn cây, ngắm nhìn ánh ban mai, Hàn Mặc Tử còn đắm mình trong ánh mắt của người Vĩ Dạ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Hẳn phải là một nét vẽ cách điệu của nhà thơ, bởi khuôn mặt người hiện lên sau lá trúc, vừa thực vừa hư ảo vô cùng. Đường nét trong bức tranh thơ không chỉ có mình thiên nhiên mà còn có cả con người khiến cảnh vườn Vĩ Dạ chợt trở nên ấm áp, sinh động lạ thường.
Khuôn mặt người sau vòm lá thấp thoáng, ẩn hiện gợi ra dáng vẻ e ấp, thẹn thùng với tính cách kín đáo vốn là một nét rất riêng của người con gái xứ Huế. Câu thơ của Hàn Mặc Tử chắc hẳn được gợi ra từ một câu ca dao rất quen thuộc của người dân Huế:
“Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa, có lời thuỷ chung”
Thế nên, câu thơ của Hàn Mặc Tử không chỉ mang đậm phong vị dân gian của xứ Huế mà còn gợi ra được cả vẻ đẹp tâm hồn của con người nơi đây vừa chất phác lại giàu tình nghĩa thuỷ chung.
Khổ thơ đầu đã dựng lại bức tranh phong cảnh của Vĩ Dạ vừa đẹp đẽ, ấm áp lại tràn trề sức sống. Đồng thời cũng thể hiện tấm lòng gắn bó tha thiết với quê hương Vĩ Dạ của thi nhân và khát khao muốn được giao cảm với cuộc đời dù bệnh tật ngăn trở.
Bước sang khổ thơ thứ hai, phong cảnh, không gian của Vĩ Dạ không còn tĩnh tại mà có cả sự vận động, chuyển biến. Vẫn là những cảnh đẹp mang nét đặc trưng của xứ Huế nhưng giờ đây là cảnh sông nước mây trời:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bức tranh thơ được mở rộng với trời mây gió và dòng Hương giang lững lờ vừa đẹp hùng vĩ lại phóng khoáng mênh mông. Dòng sông, hoa bắp, gió, mây, tất cả đều mang đậm linh hồn của xứ Huế, gợi ra nét yên bình, êm ả rất riêng của nơi đây.
Nhà thơ đã đặc tả dòng sông Hương dưới trăng khuya. Đó là một dòng sông lấp lánh những ánh vàng lộng lẫy, và còn thuyền cũng chở đầy ánh trăng đang đậu tại bến sông trăng. Ánh trăng đã khiến dòng sông Hương càng thơ mộng hơn bội phần, vừa hư ảo, vừa tĩnh lặng trong mà đêm để ai một lần bắt gặp thì khó có thể nào quên!
Đằng sau bức tranh ngoại cảnh là tâm trạng mà thi nhân muốn gửi gắm. “Mây, gió” vốn là hai thứ luôn song hành nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã nhân hoá chúng và miêu tả chúng đang trong cuộc chia ly. Mây một đường còn gió thì một nẻo, chúng đang xa cách, đang chia lìa. Đó phải chăng cũng là tâm trạng của nhà thơ lúc này khi ông đang ở trong một mối tình đơn phương xa cách và phải chia lìa với cuộc đời vì bệnh tật. Nỗi buồn của nhà thơ đã lan toả, đã hoà lẫn vào thiên nhiên.
Nỗi buồn ấy cũng hoà lẫn vào dòng nước. Nhìn dòng sông lững lờ trôi mà Hàn Mặc Tử cảm thấy dòng sông cũng đang “buồn thiu”. Dòng sông Hương chở bao tâm tình của nhà thơ, nó cũng mang nặng một nỗi buồn thương da diết. Đó là tâm trạng của một cái tôi cô đơn giữa đất trời, giữa cuộc đời, khi mà nhìn quanh bốn phía chỉ thấy hoa bắp lay động, dòng sông quạnh vắng, đìu hiu.
Nỗi buồn cô đơn của nhà thơ còn thấm thía hơn hết khi ông đặt mình giữa trời, trăng, nước. Dòng nước mênh mang, ánh trăng lạnh lẽo, đêm khuya tĩnh mịch, khung cảnh ấy như một cõi cô đơn pha thêm sự quái dị bởi chính ông cũng đang cô độc, lạc lõng giữa cuộc đời vì bệnh tật dày vò.
Thế nhưng, trên tất cả là nỗi khao khát được giao cảm với cuộc đời, là khát vọng tình người sẽ hoá giải nỗi đau. Có lẽ vì vậy mà trên dòng sông cô đơn ấy thấp thoáng chiếc bóng của “thuyền ai”:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Khát khao hi vọng, khát khao chờ mong thế nhưng Hàn Mặc Tử đã nhận ra hiện thực phũ phàng: chẳng có ai, chẳng có người nào có thể làm ấm áp một trái tim đang cô đơn, lạc lõng, vậy nên, nhà thơ mới mong có người “chở trăng về kịp tối nay”.
Trăng muôn đời là nguồn cảm hứng vô tận, là cái đẹp vĩnh hằng là ai cũng hướng tới. Với thi nhân, trăng còn là người bạn, người tri kỉ, tri âm và với Hàn Mặc Tử, trăng còn hơn thế. Ông khát khao hướng tới trăng, hướng tới sự tươi đẹp mà ánh trăng mang lại, thế mới hiểu, dù đau đớn vì bệnh tất, Hàn Mặc Tử vẫn luôn hướng về cái đẹp của cuộc đời, của nghệ thuật. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta cảm thấy bội phục một tài năng và cả một nghị lực sống phi thường của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để cống hiến cho cuộc đời.
Bốn câu thơ là bức tranh sông nước, mây trời nhưng thấm đượm tâm trạng buồn thương của tác giả, nỗi cô đơn, khát khao được giao cảm với cuộc đời.
Hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là kế thừa thơ ca truyền thống với thể thơ thất ngôn đồng thời cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ của Hàn Mặc Tử. Những hình ảnh thơ rất mộc mạc, giản dị, đời thường, ngôn từ như lời ăn tiếng nói thường ngày, tất cả đều tạo nên một nét thơ rất hiện đại.
Qua hai khổ thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được bức tranh phong cảnh của thôn Vĩ Dạ vừa đẹp đẽ lại rất bình yên, mang nét đặc trưng của xứ Huế mà chúng ta còn cảm nhận được một nỗi buồn cô đơn của Hàn Mặc Tử khi phải xa cách cuộc đời vì bệnh tật và trong một mối tình vô vọng.
———————HẾT BÀI 1———————-
Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm thường xuyên xuất hiện trong những bài kiểm tra, bài thi quan trọng. Các em có thể cùng tham khảo bài văn mẫu Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ để biết cách triển khai ý, viết bài linh hoạt, từ đó giúp bài văn đạt được điểm cao.
2. Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu 2 (Chuẩn)
Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được lấy cảm hứng từ một tấm thiệp in hình phong cảnh của Hoàng Cúc – người mà Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ- tác phẩm được viết vào những năm tháng cuối đời khi nhà thơ đang điều trị căn bệnh hiểm nghèo tại trại Phong Tuy Hòa.
Hai khổ đầu bài thơ là bức tranh về cảnh và con người xứ Huế vừa trong trẻo, thanh bình lại vừa đượm nỗi buồn tâm trạng.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Bài thơ được mở đầu bằng câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Câu hỏi vừa như nhắc nhở, lại vừa như mời mọc, cũng có thể là lời trách móc nhẹ nhàng. Dường như, tác giả đang tự phân thân để hỏi chính lòng mình về một việc đáng ra phải thực hiện bấy lâu nhưng chưa thể thực hiện: Về thăm lại thôn Vĩ Dạ. Những sắc thái đan xen gói gọn trong một câu hỏi tu từ nhẹ nhàng ấy lại cho thấy được nỗi khát khao mãnh liệt được trở về Vĩ Dạ của thi nhân, câu hỏi thốt ra mang cả một nỗi niềm thầm kín không dễ dàng bày tỏ.
Sau câu hỏi thiết tha ấy là những ấn tượng về một thôn Vĩ êm đềm, thanh bình dần hiện về trong ký ức nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Trong khu vườn xinh đẹp ấy, “nắng hàng cau” tinh khôi, trong trẻo đã thu hút, hấp dẫn sự chú ý của nhà thơ. Những cây cau vươn mình đón những tia nắng đầu tiên mà thiên nhiên ban tặng, khoe vẻ thanh khiết của mình dưới sắc nắng lung linh. Vẻ đẹp của khu vườn đẹp đến nao lòng, nhà thơ chợt thốt lên trong vẻ ngạc nhiên nhưng cũng đầy vui mừng, phấn khởi: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Tính từ “mướt” kết hợp với từ chỉ mức độ “quá” gợi vẻ đẹp mượt mà, láng bóng, tươi tắn, đầy sức sống của cây cối trong vườn. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” gợi lên vẻ đẹp kiều diễm, quý phái của khu vườn, những chiếc lá xanh mướt, mượt mà được “nắng hàng cau” chiếu rọi ánh lên màu xanh ngọc bích tươi đẹp. Cả khu vườn không chỉ được tưới tắm bởi sương đêm, nắng trời mà con nhận được bàn tay chăm sóc đầy khéo léo của con người nên càng thêm đẹp, thêm tươi.
Giữa cảnh vật tươi đẹp là hình ảnh người con gái Huế xuất hiện với nét đẹp duyên dáng mà đầy kín đáo:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Gương mặt chữ điền phúc hậu thấp thoáng sau những chiếc lá trúc mảnh mai gợi vẻ đẹp dịu dàng, phúc hậu. Sự xuất hiện của con người thật kín đáo, tinh tế mà nhẹ nhàng như chính bản tính của con người Huế vậy. Phải yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đến nhường nào thì tác giả mới lưu giữ trong tâm trí mình những hình ảnh đầy đẹp đẽ và sống động đến như thế.
Đằng sau bức tranh hài hòa giữa cảnh và người ấy có lẽ là một nỗi khắc khoải đến khôn nguôi của một cái “tôi” chất chứa những tâm sự:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Nghệ thuật nhân hóa được tác giả vận dụng đầy khéo léo để diễn tả tả sự vận động và trạng trái của cảnh vật “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Cách ngắt nhịp 4/3 như cắt đôi câu thơ tựa như chia li ngang trái. Hình ảnh gió, mây trong tự nhiên vốn đi đôi với nhau, mây theo chiều gió, gió có thổi thì mây mới bay, gió mây đi cùng nhau gắn bó cùng nhau nào thể tách rời. Vậy gió- mây trong câu thơ xuất hiện với cảnh chia phôi, gió- mây ngược lối, hai đường hai ngả. Với tạo hóa, điều đó thật phi lý, nhưng với một cái tôi đầy mặc cảm chìa lìa của nhân vật trữ tình lúc ấy thì lại là điệu hợp ý.
Nước sông Hương như hiểu tâm tình người thi nhân cũng mang nỗi buồn trĩu nặng tâm can “buồn thiu”. Dòng nước lặng lẽ trôi, hoa bắp lay nhẹ bên bờ, nước chảy hoa trôi- cảnh vật như không, động mà như tĩnh, tất cả dường như đều vương nỗi sầu trong đó. Có lẽ bởi lúc này đây tác giả đã cảm nhận cảnh vật không phải bằng con mắt thông thường nữa mà bằng chính dòng tâm trạng của lòng mình. Đó là nỗi lòng của một người mang nặng mặc cảm về sự ra đi, tạm biệt trần thế khi tâm hồn vẫn còn tha thiết sống.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Không gian đêm trăng trên sông nước mở ra đầy huyền ảo, như thực, như mộng. Trăng hòa mình vào dòng nước xanh tạo nên vẻ lung linh, thơ mộng. Sông trăng đang đưa đò cập bến, bến trăng đang đợi đò dừng chân, liệu đò có chở trăng về kịp với bến đêm nay? Câu hỏi tha thiết, vừa chứa đựng nỗi khắc khoải, đợi chờ lại chất chứa bao lo âu, phấp phỏng. Một từ “kịp” bình dị ấy thôi mà mở ra cho ta biết bao nghĩ suy về chàng thi sĩ trẻ tuổi. Hơn ai hết Hàn Mặc Tử hiểu rõ thực tại ngắn ngủi, cái chết đang cận kề nên phải tranh thủ từng phút, từng giây, chạy đua với thời gian, với cuộc sống. Nếu thuyền còn “kịp” chở trăng về bến thì “ta” còn được tâm sự giãi bày, còn chừng như không “kịp” thì thi sĩ tội nghiệp ấy rơi vào cảnh cô đơn, đau thương vĩnh viễn. Câu thơ cuối bài nghe sao thật xót xa, thương cảm, có lẽ với Hàn Mặc Tử được sống không thôi cũng là hạnh phúc lắm rồi.
Cảnh sắc thiên nhiên và niềm tha thiết với cuộc sống của thi nhân được thể hiện qua hai khổ thơ thật trong sáng, độc đáo và giàu sức biểu cảm. Qua đó, ta thấy được một tâm hồn cuộc đời, tha thiết với cuộc sống mãnh liệt của tác giả, từ đó biết trân quý cuộc sống, trân quý những phút giây của hiện tại đừng để hối tiếc.
3. Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu 3 (Chuẩn)
Khi nhận định về các nhà thơ nổi bật của phong trào thơ Mới nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy đã viết rằng “Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính là dòng lãng mạn thuần khiết, nếu Xuân Diệu và nhất là Huy Cận, là dòng lãng mạn được cườm vào những yếu tố tượng trưng… thì Hàn Mặc Tử là hài hòa của lãng mạn, tưởng tượng, thậm chí siêu thực nữa”. Thật vậy, cuộc đời Hàn Mặc Tử tuy ngắn ngủi và phải chịu nhiều đau thương, tuyệt vọng, thế nhưng khi nhìn vào thơ ông, người ta vẫn thấy trong đó chan chứa những xúc cảm về tình yêu và sự sống mãnh liệt, mãnh liệt đến độ quằn quại và đau đớn. Thêm vào đó cái khác biệt trong thơ Hàn Mặc Tử còn là vẻ lãng mạn pha lẫn lối thơ Đường luật cũ, cùng với nét phá cách đầy sáng tạo trong tuy duy nghệ thuật, mang đến cho độc giả những vần thơ độc đáo, ấn tượng. Đọc thơ Hàn Mặc Tử người ta thấy những vẻ đẹp thực lãng mạn, trong trẻo, tinh khiết đến vô ngần, nhưng cũng đồng thời là những hình ảnh kỳ dị, điên cuồng, siêu thực nhất khiến người đọc không khỏi trăn trở suy nghĩ về một hồn thơ lạ lùng nhất của nền thơ Mới. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong số những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, là tác phẩm nổi bật hàng đầu của trong phong trào thơ Mới, thể hiện được gần như hết phong cách sáng tác của ông, trong đó ở hai khổ thơ đầu, người ta thấy một Hàn Mặc Tử với tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống sâu sắc thông qua bức tranh quê thanh khiết, đậm chất trữ tình.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Hàn Mặc Tử mở đầu tác phẩm bằng một lời hỏi ngỏ rất đỗi dịu dàng, rất đậm chất Huế, mang đến những xúc cảm êm đềm của bức tranh quê thanh bình đầy sức gợi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Chủ thể “anh” trong câu thơ khiến người đọc không khỏi quẩn quanh nhiều mối băn khoăn, liệu rằng câu hỏi ấy có phải là lời hờn dỗi, trách yêu đầy duyên dáng của một cô gái xứ Huế nào với một chàng trai cứ mãi rụt rè chẳng chịu bày tỏ lòng thương nhớ, để cô phải đợi chờ. Rồi đấy cũng có thể là lời mời mọc dễ thương của một người con xứ Huế, muốn người bạn phương xa có đôi lần ghé thăm quê hương xứ sở đầy thơ mộng này. Nhưng rồi nếu nhìn ở một khía cạnh khác có lẽ rằng câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, lại là lời mà tác giả đang tự vấn lòng mình, nhắc nhở bản thân về một chuyến ghé thăm thôn Vĩ sau nhiều năm xa cách. Hai từ “không về” gắn vào giai đoạn cuộc đời đầy đau thương của Hàn Mặc Tử, lại càng thêm xót xa, đó là ẩn ý về những dự cảm không lành của người thi sĩ khi bị căn bệnh phong hành hạ, đau đớn, tuyệt vọng vì không thể nào còn về lại được Huế. Người chỉ còn có thể nhớ về thôn Vĩ, nhớ về người anh yêu thương trong những hồi ức tốt đẹp nhất.
Có thể nói rằng câu hỏi tu từ mở đầu bài thơ, không chỉ là chiếc cầu dẫn gợi mở ra bức tranh xứ Huế mà còn bộc lộ một cách sâu kín những nỗi niềm trăn trở của tác giả về mảnh đất cố đô. Ở nơi ấy có tình yêu, có cuộc sống, có người con gái mà thi sĩ vẫn thường ao ước, chỉ tiếc rằng tất cả đều trở thành hư không trước trái ngang của bệnh tật. Trong niềm mong nhớ về Huế, Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ thật tình, thật đẹp để gợi ra bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ thơ mộng, trong trẻo, tràn ngập sức sống. Bức tranh mở đầu bằng hình ảnh “nắng” lặp lại hai lần trong câu thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Đó là một buổi bình minh rực rỡ, ánh sáng tràn ngập khắp nơi nơi, lấp ló, xen kẽ qua từng tán cau xanh mướt. Hàn Mặc Tử đã vẽ lên từng nét thực mượt mà, đầy sức gợi trong bức tranh quê buổi sớm, trên nền nhàn nhạt ấm áp của nắng mới, hiện trên đó là hàng cau thẳng tắp, xanh tươi giản dị chân quê. Hình ảnh “nắng hàng cau” là hình ảnh mà Hàn Mặc Tử dành riêng cho Huế, bởi lẽ rằng cau là biểu tượng đặc trưng của mảnh đất cố đô, luôn vươn cao mạnh mẽ trên nền trời xanh thẳm, đón những tia nắng ấm áp đầu tiên trong ngày một cách thật trọn vẹn. Cảnh từng tán lá cau xanh mướt tắm nắng vàng lấp lánh những sương mai ẩn hiện, làm cho lòng người thêm khoan khoái, vui tươi, mở ra một bức tranh quê thực tinh khiết thơ mộng. “Nắng mới lên” là những từ ngữ giản dị mà Hàn Mặc Tử viết về cảnh bình minh, đó là cái nắng ban mai mới mẻ, êm dịu, không phải cái nắng nóng đổ lửa lúc ban trưa, mà đó là những tia nắng đầu tiên sau một đêm dài, trong trẻo, ấm áp tràn đầy sức sống, là biểu tượng của sự khởi đầu tươi mới. Nghĩ xa hơn hình ảnh “nắng mới lên” có lẽ chính là ẩn dụ cho tâm hồn người nghệ sĩ khi cầm trên tay tấm bưu thiếp của cố nhân, một xúc cảm dịu dàng, đầy hy vọng.
Trong không gian tràn ngập nắng mới, là sự hiện diện của “vườn ai” một khu vườn mang dáng vẻ trù phú, non tươi, mỡ màng trong từng góc cạnh thông qua hai từ “mướt quá”, đầy gợi cảm. Bên cạnh đó liệu pháp so sánh “xanh như ngọc” cũng mang đến vẻ đẹp thực thơ mộng cho bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ, khiến người đọc dễ dàng tưởng tượng ra hình ảnh một khu vườn Huế xanh non, từng tán lá còn đọng hơi sương tắm dưới cái nắng ban mai dìu dịu, mang đến cảm giác thực trong trẻo, ngọc ngà, tươi mát làm sao. Đặc biệt với từ phiếm chỉ “ai” trong “vườn ai” đã gợi ra nhân vật trữ tình ẩn hiện, làm tăng thêm sức sống, sự hòa hợp của con người với thiên nhiên tươi đẹp. Đồng thời dẫn mở câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, gợi ra vẻ đẹp con người xứ Huế chân thành, phúc hậu, ấm áp. Bút pháp “thi trung hữu họa”, lấy cái gầy guộc, giản đơn của lá trúc để làm đậm lên những nét đẹp duyên dáng, hiền từ của khuôn mặt người. Hàn Mặc Tử nhớ người Huế bằng những vẻ đẹp hiền hòa, đan xen trong đó là những nỗi nhớ xa xôi về một người con gái Huế mang trong mình những phẩm chất nổi bật, thủy chung, dịu dàng, khuôn mặt xinh xắn phúc hậu.
Sau những niềm rung cảm, lạc quan yêu đời từ bức tranh thiên nhiên rực rỡ, nhiều sức sống, Hàn Mặc Tử tiếp tục đưa độc giả về đến với bức tranh thiên nhiên buổi tối muộn, với những cảnh thuyền, cảnh trăng, và dòng sông Hương êm đềm, lặng lẽ. Từ thực cảnh tràn ngập ánh sáng của buổi bình minh, đến cảnh đêm đen người ta đã tinh tế nhận ra được sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả từ những niềm vui ngập tràn trong thân thể, đến nỗi băn khoăn, bất định, nhiều lo lắng, hoang mang trong cảnh thiên nhiên lạnh lẽo, vắng vẻ.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hàn Mặc Tử viết về cảnh mây, cảnh gió, vốn là những thứ luôn song hành với nhau, mây có dịch chuyển là bởi vì có gió đưa, dường như chúng luôn có một mối liên hệ gắn bó thực chặt chẽ. Nhưng khi đọc câu thơ “Gió đi lối gió, mây đường mây” cũng là cảnh gió, mây ấy thế nhưng chúng lại dường như tách biệt, ngược hướng, gợi ra sự chia ly, tan vỡ, mà đối với Hàn Mặc Tử ấy là sự chia cắt của tác giả với nhân thế, là những dự cảm đầy đau thương trước căn bệnh hiểm ác. Đặc biệt lối thơ tả cảnh đóng khung khi tác giả lặp lại điệp từ “mây”, “gió” hai lần, cùng lối ngắt nhịp 4/3 làm gãy đôi câu thơ, mang đến sự hụt hẫng, cô liêu khó tả. Con sông Hương vốn đã yên bình lặng lẽ suốt mấy ngàn năm lịch sử, chứng kiến nhiều những biến cố đau thương của dân tộc, đã không còn hay bất ngờ trước thế sự đổi thay, nhưng khi bước vào thơ của Hàn Mặc Tử dòng sông lại dường như mang những xúc cảm bâng khuâng của thi nhân qua mấy chữ “dòng nước buồn thiu”. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta tưởng chừng như tác giả đang đứng trước bờ sông Hương, ánh mắt dõi trông xa xa, lòng buồn man mác một nỗi buồn vô tận đang lan tràn khắp không gian, thực đúng với mấy câu “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của Nguyễn Du. Bên cạnh đó hình ảnh “hoa bắp lay” lại càng khiến người đọc thấm thía những nỗi lòng của thi nhân, hoa bắp vốn vô sắc, vô hương, nhạt nhòa trong trời đất, là ẩn dụ sâu sắc cho cuộc đời cho số phận buồn tẻ, lặng lẽ đang tồn tại như một cái bóng cô liêu, đơn độc giữa cuộc đời, chỉ có thể mặc cho dòng đời đẩy đưa, nghĩ mà thật xót xa cho cuộc đời “hoa bắp”. Thêm vào đó cả câu thơ “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” đã mở ra một không gian rộng lớn vô tận, nhưng thiếu đi cái ấm áp, chỉ có sự lạnh lẽo, đìu hiu bao trùm, xóa tan hết cái vẻ đẹp rực rỡ nhiều mộng tưởng mà tác giả gợi nhắc trong khổ thơ đầu.
Nhấn mạnh sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả giữa hai khổ thơ từ vui tươi, yêu đời sang buồn thương, tuyệt vọng. Vì quá đau đớn, xót xa cho cuộc đời nhiều bất hạnh của mình, Hàn Mặc Tử lại tìm về với trăng, người bạn tri kỷ tâm giao của thi sĩ, vẫn luôn gắn bó với người trong nhiều vần thơ vừa trong trẻo vừa kỳ dị, liêu trai khó tả. Hình ảnh trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ xuất hiện thực đẹp và hiền hòa ở câu “Thuyền ai chở bến sông trăng đó”, ánh trăng vàng nhàn nhạt phủ lên con thuyền nan đang xuôi theo dòng nước, và mặt sông dập dềnh lấp lánh những ánh trăng rực rỡ. Một khung cảnh thực nhiều mộng ảo và tình tứ biết bao dường như đã phần nào xua đi được những nỗi buồn thương trong tâm hồn tác giả. Thế nhưng Hàn Mặc Tử vẫn chẳng thể quên đi hết những nỗi hoang mang, lo lắng cho cuộc đời mình trong câu thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?”, ấy là cảm xúc lo lắng không yên, dự cảm chẳng lành trước cuộc đời ngắn ngủi sắp hết của mình. Ông sợ rằng bản thân không còn kịp được nhìn thấy ánh trăng đẹp đẽ, không còn thấy được “bạch nguyệt quang” của cuộc đời – người con gái xứ Huế, người mang lại cho ông những niềm vui sống, hy vọng về một tình yêu đẹp giữa lúc sóng gió cuộc đời đang bủa vây thân xác héo gầy, dù rằng đó chỉ là một tấm bưu thiếp mà nàng gửi đi.
Cuộc đời Hàn Mặc Tử ngắn ngủi và đau thương, hồn thơ ông chất chứa nhiều nỗi khát vọng về tình yêu, về cuộc sống, nhưng ẩn chứa sau đó là những nỗi xót xa, đau đớn đến cùng cực. Chính điều đó đã làm nên một chất thơ vừa thơ mộng, trong trẻo đến vô ngần, lại cũng cực kỳ phức tạp khi thường xuyên thấy sự xuất hiện của những yếu tố kỳ dị, liêu trai, điên cuồng mà nói như Hoài Thanh, có sự đó cũng bởi hồn thơ của Hàn Mặc Tử vốn là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu… Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu”. Đây thôn Vĩ Dạ chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử vừa đẹp vừa ẩn chứa những nỗi lòng đau thương tuyệt vọng, hồn thơ từ ấm chuyển sang lạnh lẽo, cô đơn chỉ trong vài dòng thơ ngắn ngủi, khiến người đời không khỏi băn khoăn, thấm thía xót thương cho một đời nghệ sĩ ngắn ngủi, nhiều bất hạnh.
4. Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu 4 (Chuẩn)
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ Mới ở Việt Nam. Thơ Hàn Mặc tử mang một “diện mạo” độc đáo, cá tính và cũng đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần thơ chất chứa nhiều tâm sự cùng hình tượng máu- trăng ám ảnh, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong rất ít bài thơ có hình ảnh, cảm xúc tươi sáng, trong trẻo với tình yêu của người thi sĩ dành cho thôn Vĩ và người con gái xứ Huế. Trong hai khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã tái hiện sống động bức tranh thiên nhiên xứ Huế và những cảm xúc, tình cảm chân thành nhất của bản thân.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Câu thơ mở đầu tựa một câu hỏi nhưng ẩn chứa trong đó lại là lời trách móc rất nhẹ nhàng, tình cảm. Trong câu hỏi ấy còn có sự mời gọi đầy tha thiết của cô gái thôn Vĩ dành cho tác giả. Đó cũng có thể là lởi tác giả đang tự trách mình, là khao khát thầm kín của nhà thơ: Trở về thăm lại làng quê và con người thôn Vĩ. Câu thơ không dùng từ “về thăm” mà lại là “về chơi” mang ý nghĩa sắc thái gần gũi, tự nhiên và thân mật. Hai câu thơ tiếp theo chính là bức tranh về thiên nhiên trên những mảnh vườn nhỏ nơi thôn Vĩ trong hồi tưởng của nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Có thể thấy, nhà thơ không tả cảnh mà chỉ gợi cảnh, gợi lên những hình ảnh ấn tượng và đẹp đẽ nhất. Những hàng cau thẳng tắp, cao vút dưới ánh nắng bình minh như mở ra khung cảnh khoáng đạt, bình yên của thôn Vĩ. Những ánh nắng mới lên đã tô đẹp cho hàng cau, ánh nắng sớm trải đều trên hàng cau tạo nên vẻ đẹp hài hòa, thống nhất, đó là sự hài hoà giữa thiên nhiên và cảnh vật.
Câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” khiến người đọc cảm giác như nhà thơ đang đi giữa khu vườn ở thôn Vĩ. Tính từ “mướt”, “xanh” cùng cách so sánh độc đáo “ mướt như ngọc” đã gợi ấn tượng về một khu vườn xanh mướt, sạch sẽ, láng bóng như màu xanh của ngọc. Đó là khu vườn thôn quê dân dã đẹp đẽ dưới cái nắng ban mai.
Sự xuất hiện bất ngờ của con người trong câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã làm cho bức tranh cảnh vật thêm sinh động, có lẽ đây chính là chủ của khu vườn. Sự xuất hiện có phần kín đáo, e thẹn đậm chất con người Huế, khuôn mặt chữ điền phúc hậu thấp thoáng sau lá trúc che ngang. Có thể nói chỉ với bốn câu thơ trong khổ thơ đầu Hàn Mặc Tử đã phác hoạ rõ nét về thiên nhiên cũng như con người thôn Vĩ: cảnh vườn tươi đẹp, con người ngay thẳng, phúc hậu.
Bước ra khỏi khu vườn nhỏ ở thôn Vĩ, tác giả đưa người đọc đến với thế giới tình cảm mềm mại, thiết tha nhưng cũng đầy những trăn trở, âu lo của nhà thơ. Nỗi buồn xa cách, mặc cảm chia li thể hiện rõ nét qua cây thơ “Gió theo lối gió, mây đường mây” . Câu thơ gợi ra nhịp điệu khoan thai, nhẹ nhàng của dòng sông và trạng thái khác đường lạc lối của mây và gió. Mây và gió vốn là cặp hình tượng chỉ sự gắn bó, quan hệ mật thiết không thể tách rời, tuy nhiên trong câu thơ của Hàn Mặc Tử ta có thể thấy gió với mây lại không đi nhau mà lại khác đường ngược lối, nghe có vẻ chẳng liên quan gì đến nhau. Trên thực tế, phải có gió thổi mây mới bay và phải có gió sông mới có sóng, thế nhưng ở đây mây gió lại tách ra khỏi nhau đại diện cho sự ngược lối trong tình cảm của nhà thơ. Gió mây không hoà hợp nên dòng nước chẳng gợn sóng, chỉ đành buồn thiu nhìn hoa bắp khẽ lay. Bức tranh về dòng sông tuy đẹp nhưng lại ảm đạm, lạnh lẽo, trống vắng, chất chứa nỗi buồn, sự cô đơn, lạc lõng của nhà thơ trước cuộc đời và sự sống.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Tuy nhà thơ mang tâm trạng buồn và cô đơn nhưng vẫn không mất đi niềm hy vọng vào tình yêu và sự đáp lại. Tình yêu của tác giả không chỉ dành riêng cho cô gái thôn Vĩ mà là cả thiên nhiên, con người nơi đây. Cảnh sông nước trở nên huyền ảo, thơ mộng lấp lánh, sông không còn là sông nước mà là sông trăng nơi ngập tràn ánh trăng sáng. Con thuyền không chỉ chở ánh trăng mà còn mang theo hi vọng dù nhỏ nhoi của người thi sĩ. “Có chở trăng về kịp tối nay?” câu hỏi thể hiện sự trăn trở, lo âu, giữa màn sương dày đặc của nỗi tuyệt vọng, xót xa, trong tâm hồn nhà thơ vẫn nhen nhóm niềm hi vọng dẫu nhỏ nhoi. Nhất định phải chở về “kịp tối nay” chứ không phải tối nào khác có lẽ bởi vì nhà thơ đã quá cô đơn, trống vắng hoặc là đã chờ đợi quá lâu rồi, chỉ có trăng mới hiểu được những nỗi lòng thầm kín của nhà thơ. Với nghệ thuật sử dụng các biện pháp tu từ và dùng từ ngữ đầy gợi tả, nhà thơ đã mang đến một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng đầy tâm trạng. Nhịp thơ cũng như các điệp từ được sử dụng tạo nên những thái cực đối lập trong từng câu thơ, hình ảnh trong thơ được nhân hoá độc đáo tạo nên một bài thơ trữ tình độc đáo mà sâu lắng.
Qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã mang đến cho người đọc được mở mang tầm mắt và hiểu biết về thiên nhiên, con người xứ Huế thơ mộng. Bên cạnh đó chúng ta cũng phần nào hiểu được những tâm tư, nỗi buồn sâu lắng trong lòng tác giả. Một thôn nhỏ ven dòng sông Hương nhờ có Hàn Mặc Tử mà đã trở thành hình ảnh đẹp đẽ, trong trẻo và đậm chất Huế.
5. Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu 5 (Chuẩn)
Nhắc đến phong trào thơ Mới không thể không nhắc tới Hàn Mặc Tử- nhà thơ Điên của nền văn học Việt. Bài thơ “Đây thôn Vĩ dạ” là một tuyệt phẩm tiêu biểu của ông. Hai khổ thơ đầu bài thơ như một khúc ngân trữ tình đẹp đẽ và giàu sức gợi:
” Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Vĩ Dạ- chốn thiên đường nơi trần gian của Huế mộng mơ. Câu hỏi tu từ thiết tha, vừa như lời trách móc lại vừa như lời mời gọi:”Sao anh không về chơi thôn Vĩ” nghe sao mà chân thành và dịu dàng đến thế. Giọng thơ trầm lắng nhẹ nhàng khôn tả qua việc gieo kết hợp các vần bằng trong câu đầy tinh tế. Câu thơ như một lời đề gợi mở ra những vẻ đẹp về thiên nhiên và con người nơi đây:
” Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Hàng cau thẳng tắp vươn mình đón nắng, gió thoảng thoảng hơi mây, ” nắng mới lên” mang nét gì đó tinh khôi, trong sáng, kiều diễm. Vẻ đẹp của ánh nắng vàng tươi mới, không gây gắt như trưa hè, không đượm buồn như chiều hoàng hôn mà đó là ánh nắng trong veo vô ngần của buổi sớm mai. Hàng cau xanh trong nắng vàng nhè nhẹ hiện lên đẹp đẽ biết bao. Trong bầu không gian ấy còn có vườn ” mướt quá, xanh như ngọc”. Bằng những tính từ gợi cảm, chỉ màu sắc độc đáo tác giả đã tái hiện khung cảnh vườn đầy non tơ, mang sức sống mới , tươi tốt và đầy hy vọng. Một vài giọt sương đọng trên lá trở nên lung linh hơn, cành non mơn mởn trong sắc xanh của lá cành tràn nhựa sống, ngời sáng, trong ngần. ” Lá trúc che ngang mặt chữ điền” – Gương mặt người thiếu nữ thoáng ẩn hiện trong bầu không gian tuyệt diệu. Gương mặt chữ điền ấy thật thành tú sau lá trúc xanh mềm mại. Tất cả tạo nên vẻ đẹp ấn tượng, độc đáo, vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, thanh tao, nhã nhặn của người con gái xứ Huế hiện lên thật duyên dáng,ý nhị. Cảnh và người như hòa chung, mang nét hồn của một thì nhân đang bâng khuâng, rạo rực trước vẻ đẹp của thiên nhiên
Nếu trong khổ đầu là cảnh lúc bình minh thì sáng khổ hai đó là bức tranh thôn Vĩ trong cảnh chiều về, đêm xuống.
” Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước luồn quanh hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Dường như thiên nhiên đang nhuốm màu buồn của sự chia ly, mây và gió thường song hành với nhau nay lại về đôi ngả” gió theo lối gió, mây đường mây”, mây gió lang thang vô định giữa bầu trời kia cảm giác sao cô đơn và buồn đến vậy. Dòng nước cũng được nhân hoá mang bầu tâm sự ” buồn thiu” lững lờ trôi , hoa bắp nhẹ ” lay” trong gió cũng có gì đó yếu ớt, phảng phất nét buồn hoài niệm. Cảnh mang nỗi lòng của hồn người, dường như đâu đây ta nghe được tiếng lòng của người thi sĩ đang đơn côi trước nỗi nhớ mong, buồn đau trước cảnh chia xa ngậm ngùi. Để vơi đi nỗi lòng, người thi sĩ ngắm nhìn dòng sông Hương huyền diệu, sông nước soi ánh trăng mờ, chiếc thuyền thong thả nằm im bên bến sông thương. Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, non nước mây trời đang tràn ngập ánh trăng chứa đựng nỗi niềm gì khôn thấu. Trăng có đẹp đấy thôi nhưng trăng cũng đượm buồn, bóng tối tĩnh mịch, yên ả giữa trời đêm. ” Có chở trăng về kịp tối nay” -câu thơ như một lời tâm sự, một câu hỏi mà cũng là nỗi mong chờ, hy vọng chở ánh trăng về kịp như người thi sĩ đang mong ngóng người thương tới cho vơi bớt nỗi sầu cô đơn vậy, bởi trăng vốn như người bạn tâm tình tri kỉ của thi nhân.
Bằng những hình ảnh thơ độc đáo, tuy quen thuộc, bình dị nhưng qua tài năng trong ngòi bút của mình , Hàn Mặc Tử đã biến cái quen thành những nét mới lạ mà hấp dẫn. Cảnh mang tâm tình ,dư vị hoài niệm của thi nhân bằng cái nhìn đầy tinh tế và sâu sắc, chỉ qua hai khổ thơ thôi mà ta thấy được một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ.
—————HẾT————–
Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm thơ đặc sắc trong chương trình Ngữ văn lớp 11, tìm hiểu chi tiết về đặc sắc nội dung và nghệ thuật của bài thơ, bên cạnh bài văn mẫu Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trên đây, các em có thể tìm đọc thêm: Phân tích khổ 3 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Chứng minh thiên nhiên đẹp và gợi cảm qua những bài thơ Tràng giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ, Hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế qua bài Đây thôn Vĩ Dạ, Phân tích cái tôi trữ tình của Hàn Mạc Tử trong bài Đây thôn Vĩ Dạ.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp