Phân tích bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ lớp 11 hay nhất (12 Mẫu)

0
279
Rate this post

Phân tích bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ lớp 11 bao gồm 2 dàn ý chi tiết cùng 12 bài văn mẫu hay nhất được biên soạn sẽ giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thiện viết bài phân tích theo văn phong riêng của mình một cách sinh động, cuốn hút nhất.

Đề bài: Phân tích bài thơ Chiều xuân

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ lớp 11 hay nhất (12 Mẫu)

Phân tích bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ lớp 11 hay nhất
Phân tích bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ lớp 11 hay nhất

Chiều xuân là bài thơ được in trong tập Bức tranh quê của Anh Thơ. Chiều xuân là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh bình khiến cho con người thêm gắn bó với quê hương. Mời các em tham khảo ngay những bài phân tích Chiều xuân hay nhất dưới đây.

2 Dàn ý Phân tích Chiều xuân của Anh Thơ lớp 11

Dàn phân tích bài Chiều xuân – Mẫu 1

1. Mở bài

Bài thơ Chiều xuân trích trong tập thơ “Bức tranh quê” là một thi phẩm đầy yên bình và dịu ngọt vị xuân quê nhà.

2. Thân bài

– Làn mưa bụi bay bay “êm êm” trong cơn gió nhẹ.

– Con đò dường như cũng mệt mỏi, đành cho phép bản thân “biếng lười” đôi chút, thả mình dưới dòng nước mênh mang, mặc kệ sông kia có bồng bềnh sóng nhỏ.

– Quán tranh những ngày sớm mai vốn đông vui thì khi ngày gần tàn lại đầy im ắng, lặng lẽ, cô đơn.

– Cánh hoa xoan tím rụng “tơi bời” theo làn gió xuân nhẹ nhàng, sắc tím nhạt màu của cánh hoa càng làm tăng thêm vẻ hoang hoải nơi cảnh vật.

– Triền đê xanh biếc cỏ non cùng đàn sáo mổ vu vơ gợi khung cảnh đầy thanh bình, êm ái

– Những cánh cò trắng trốn mình nơi những vạt lúa xanh, “chốc chốc” bay ra tận hưởng khí trời xuân tuyệt diệu.

– Hình ảnh cô nàng yếm thắm cần mẫn với công việc đầy đẹp đẽ, nên thơ.

3. Kết bài

Chiều xuân của Anh Thơ là một bản nhạc đầy thương yêu và tự hào dành cho quê hương mà thi sĩ gửi đến cho chúng ta, bồi đắp và nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi người những tình cảm đẹp đẽ cho cảnh vật bình dị của làng quê Việt.

Dàn phân tích bài Chiều xuân – Mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Anh Thơ và bài thơ Chiều Xuân

  • Anh thơ (1921 – 2005), tên khai sinh là Vương Kiều Ân, bút hiệu Tuyết Anh, quê ở tỉnh Hải Dương, trong một gia đình viên chức nhỏ xuất thân nho học.
  • Xuất xứ: Chiều xuân trích trong tập “Bức tranh quê” in năm 1941

Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

a. Khổ 1: Bến vắng chiều xuân

Mưa bụi êm êm trên bến vắng,

Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời

  • Hình ảnh: mưa bụi, con đò, nước sông trôi, quán tranh vắng, hoa xoan tím,… => Những hình ảnh quen thuộc, mang những đặc trưng cho miền quê: một bến đò vắng khách với con đò, quán nhỏ và cây xoan đầy hoa tím => cảnh đẹp, êm ả, yên bình nhưng gợn buồn.
  • Từ láy gợi tả hình ảnh những giọt mưa rơi nhẹ điểm xuyết cho khung cảnh, không ồn ào, vội vã hay nặng hạt mà có chút gì đó như chầm chậm theo từng khoảnh khắc thời gian.
  • Các từ: êm êm, biếng lười, im lìm, tơi bời…=> gợi tả sự vắng lặng của chiều quê.

⇒ Khổ thơ thể hiện cuộc sống yên tĩnh có phần ngưng động. Trong chiều mưa lạnh, quang cảnh bến sông ven làng càng tiêu điều, vắng vẻ. Một bức tranh dường như thiếu sắc màu và ánh sáng

b. Khổ 2: Đường đê chiều xuân

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,

Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa

  • Hình ảnh: cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo, cánh bướm, trâu bò,
  • Các từ ngữ diễn tả hoạt động: sà xuống mổ vu vơ, rập rờn, thong thả..

=> Bức tranh có sự chuyển đổi từ gam màu buồn sang sự sống, gam màu xanh “biếc” của cỏ, từ tĩnh sang động

⇒ Cảnh vật thân thương và bình yên quá đỗi, độc đáo và nên thơ,  cảnh quen thuộc trở nên mới mẻ, sinh động, làm vơi đi nỗi cô đơn của bến vắng

c. Khổ 3: Cuộc sống chiều xuân

Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

  • “Xanh rờn”: màu xanh nhẹ nhàng đầy sức sống của mùa Xuân
  • Hình ảnh: cô nàng, yếm thắm → Cảnh sắc bớt vắng vẻ và trở nên ấm áp hơn.
  • Những từ ngữ tả hoạt động: cúi, cuốc, cào, chốc chốc vụt qua → Câu thơ tả động để nói đến cái tình, và nhấn mạnh nhịp sống bình yên của làng quê.

=> Diễn tả nhịp sống khoan thai nơi đồng quê.

  • Hình ảnh “sắp ra hoa” => Niềm tin của con người vào một tương lai tươi sáng.

3. Kết bài

  • Bài thơ ngợi ca vẻ đẹp của quê hương mỗi độ xuân về. Tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, tinh tế đã bao trùm lên bức tranh quê trong buổi chiều xuân yên ả
  • Sử dụng hình ảnh tiêu biểu cho sắc xuân, lựa chọn từ ngữ gợi hình, gợi âm thanh, miêu tả cái động để nói về cái tĩnh

12 Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Chiều xuân lớp 11 hay nhất
Phân tích Chiều xuân lớp 11 hay nhất

12 Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Chiều xuân lớp 11 hay nhất

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 1

Anh Thơ là một nữ thi sĩ nổi tiếng của văn học Việt Nam, bà để lại cho đời nhiều tác phẩm hay và có giá trị, có thể kể tới Theo cánh chim câu, Đảo ngọc hay Hương Xuân,…. Thơ bà mang thương nhớ cho người thưởng thức bởi sự nhẹ nhàng, sâu lắng và đẫm dư vị của tình quê. Đến với thơ Anh Thơ, ta bất chợt lắng lòng mình lại để cảm nhận vẻ đẹp của vạn vật, của quê hương từ những điều dung dị, đời thường. Bài thơ “Chiều xuân” trích trong tập thơ “Bức tranh quê” là một thi phẩm đầy yên bình và dịu ngọt vị quê nhà như thế:

“Mưa bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi”

Một chiều mùa xuân có chút gì đó đượm buồn, vẫn bình lặng yên ả thế thôi nhưng bầu không khí có phần thiếu tươi vui như bao mùa xuân trong thơ Xuân Diệu hay Nguyễn Bính. Làn mưa bụi bay bay “êm êm” trong cơn gió nhẹ, mưa cũng thân thương mà đầy dịu dàng, không quá nặng hạt cũng chẳng phải mang giông tố, mưa mơ màng êm ả đi qua bến vắng của dòng sông. Và có lẽ mưa cũng đang dừng chân nơi bến đỗ để ngắm dòng sông thơ, nơi có con đò nằm “im lìm” lặng lẽ, sau một ngày dài làm việc, con đò dường như cũng mệt mỏi, đành cho phép bản thân “biếng lười” đôi chút, thả mình dưới dòng nước mênh mang, mặc kệ sông kia có bồng bềnh sóng nhỏ. Không gian có trời, có sông, cao rộng mà phảng phất buồn bởi chút trống trải, yên tĩnh lạ thường.

“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

Cảnh vật xa xa dần lại gần hơn, quán tranh những ngày sớm mai vốn đông vui thì khi ngày gần tàn lại đầy im ắng, tịch liêu, quán tranh đang “im lìm trong vắng lặng” gợi sự cô đơn, lặng lẽ, hiu hắt buồn. Đó phải chăng còn là hình ảnh người thi sĩ đang một mình thưởng thức cảnh quê hương giữa khung cảnh mênh mang. Cánh hoa xoan tím rụng “tơi bời” theo làn gió xuân nhẹ nhàng, sắc tím nhạt màu của cánh hoa càng làm tăng thêm vẻ hoang hoải nơi cảnh vật. Chiều cuối ngày, thiên nhiên phải chăng đã mệt mỏi, muốn ngơi nghỉ, mà không còn rộn ràng, háo hức, sức sống tươi vui như những buổi sớm bình minh hay khi ngày trưa sống động. Bức tranh xuân qua bốn câu thơ đầu có buồn nhưng không phải là cái buồn của bi lụy, hoang tàn mà là nét buồn lãng mạn, nên thơ, nét buồn thấm vào mưa, vào con đò, vào mái tranh hay cánh hoa đều mang cả sự mơ màng, thương mến.

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”

Làng quê Việt Nam tự bao đời gắn với cánh đồng mênh mông rộng lớn, những triền đê xanh mát mỗi chiều về. Triền đê bước vào thơ Anh Thơ cũng đẹp đẽ đến nao lòng, những áng cỏ non ” biếc” như đang thi nhau vươn mình đón nắng, mọc tràn cả bờ đê xanh mát, tươi non mơn mởn. Đàn sáo đen cũng bị hấp dẫn bởi vẻ tươi non mà hạ cánh mình xuống mổ vu vơ. Sáo đen đang đi tìm mồi, đang kiếm ăn, đang lao động đấy thôi mà sao nghe nhẹ nhàng đến thế, chúng tựa như những đứa bé đang nghịch ngợm những ngọn cỏ non xanh dưới chân mình, vui vẻ kiếm tìm những con mồi nhỏ bé. Cảnh tượng thật bình yên và khoáng đạt biết bao!

Những chú bướm dang đôi cánh của mình bay “rập rờn” giữa khoảng trời yên bình, trong từng cơn gió thổi. Những đôi cánh mỏng manh ấy lượn lờ chào nghiêng thật mềm mại và duyên dáng. Nơi triền đê là những chú trâu, chú bò “thong thả cúi ăn mưa”, cuối chiều, khi những hạt mưa êm êm buông mình xuống mặt cỏ, trên những cây cỏ còn đọng lại những giọt mưa, trâu bò ăn cỏ mà tựa như đang thưởng thức những hạt mưa tinh túy của đất trời. Sự lắng đọng của cảnh trước được thay thế dần bằng những hoạt động của vật, bởi thế mà cảnh cũng tình hơn.

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”

Đồng lúa quê hương xanh rờn được đắm mình trong những cơn mưa xuân, lúa lặng lẽ tận hưởng vị mát dịu của những hạt mưa trong lành mà ông trời ban tặng, ướt đẫm trên lá. Những cánh cò trắng trốn mình nơi những vạt lúa xanh, “chốc chốc” bay ra tận hưởng khí trời xuân tuyệt diệu. Đẹp nhất là hình ảnh những người lao động thôn quê, cần mẫn cúi cuốc cào, chắc có lẽ “cô nàng yếm thắm” ấy đang tập trung với công việc của mình mà chợt cò bay ngang qua khiến nàng không khỏi giật mình. Thửa “ruộng sắp ra hoa” phải chăng chính là những thành quả lao động mà còn người sẽ nhận được sau những ngày vất vả cuốc cày chăm bón.

Còn điều gì đẹp hơn khi một bức tranh có cảnh, có người. Một bức tranh nghệ thuật chiều xuân đầy hài hoà và xinh đẹp của quê hương đất Việt, biểu tượng của hồn quê hương, hồn dân tộc. “Chiều xuân” của Anh Thơ là một bản nhạc đầy thương yêu và tự hào dành cho quê hương mà thi sĩ gửi đến cho chúng ta, bồi đắp và nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi người những tình cảm đẹp đẽ cho cảnh vật bình dị của làng quê Việt.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 2

Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) tên thật là Vương Kiều Ân, xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học. Quê gốc của nữ sĩ ở thị xã Bắc Giang nhưng bà lại sinh ra và lớn lên tại Ninh Giang, Hải Dương. Tuy chưa học hết tiểu học nhưng vốn có khiếu văn chương nên bà rất thích đọc sách và làm thơ. Bút danh Anh Thơ xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những bài thơ viết về đề tài nông thôn tràn ngập những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, gợi nhớ những ki niệm êm đềm về làng mạc, quê hương trong tâm thức của mỗi con người. Thơ của bà mỗi bài là một bức tranh thiên nhiên tươi mát, hài hòa, gợi nên không khí và nhịp sống êm đềm ở miền quê Bắc Bộ. Nữ sĩ Anh Thơ được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007.

Tác phẩm đã xuất bản: Bức tranh quê (thơ, 1941); Xưa (thơ, in chung, 1942); Răng đen (1944); Hương xuân (thơ, in chung, 1944); Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ, 1957); Theo cánh chim câu (thơ, 1960); Đảo ngọc (thơ, 1964); Hoa dưới trăng (thơ, 1967); Mùa xuân xanh (thơ, 1974); Quê chồng (thơ, 1979); Lệ sương (thơ 1995).

Chiều xuân in trong tập Bức tranh quê (xuất bản năm 1941) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh bình khiến cho con người thêm gắn bó với quê hương.

Buổi chiều thường là khoảnh khắc dễ làm nảy sinh cảm xúc và thi hứng của thi nhân. Nhà thơ đã quan sát và lựa chọn những hình ảnh, chi tiết đặc trưng của cảnh vật để phác họa nên ba bức tranh chiều xuân êm ả, thanh bình.

Bức tranh thứ nhất tả cảnh một chiều mưa bụi với hình ảnh bến sông vắng khách, con đò nằm gần như bất động, quán tranh xơ xác bên chòm xoan rụng đầy hoa tím:

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.

Nữ sĩ quan sát, thưởng thức bằng cái nhìn tâm tưởng nên đã cảm nhận được cái hồn của cảnh vật thân quen. Trong chiều mưa lạnh, quang cảnh bến sông ven làng càng tiêu điều, vắng vẻ. Một bức tranh dường như thiếu sắc màu và ánh sáng. Trong sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối của không gian vẫn có sự hoạt động của cảnh vật, dù là nhẹ đến mức như có như không: Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng. Con đò thường ngày tất bật chở khách sang sông, giờ đây dường như mệt mỏi, biếng lười nằm mặc nước sông trôi. Còn quán tranh cũng như thu mình lại, đứng im lìm trong vắng lặng bởi không còn khách vào ra với tiếng cười, tiếng nói rộn ràng. Chòm xoan hoa tím rụng tơi bời trước ngọn gió xuân còn vương hơi lạnh của buổi tàn đông. Tất cả đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín khó nói thành lời.

Bức tranh thứ hai:

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Hình ảnh đường đê trong buổi chiều xuân qua cảm nhận của nữ sĩ thật thân thương và bình yên. So với cảnh bến vắng đìu hiu ở trên thì cảnh đường đê vui hơn và nhiều sức sống hơn. Màu xanh biếc của cỏ non mơn mởn trải dài hút tầm mắt khiến nhà thơ có một liên tưởng bất ngờ và thú vị: Đàn trâu bò đang ung dung gặm cỏ mà như đang thong thả cúi ăn mưa. Đó là một ảo giác nghệ thuật nảy sinh từ thực tế, qua lăng kính lãng mạn của nhà thơ. Trên cái phông nền xanh mát mắt và mát cả hồn người ấy điểm xuyết vài nét chấm phá của Đàn sáo đen và Mấy cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ có nhiều nét tươi mát và thơ mộng, chứng tỏ tác giả có tài quan sát và có sự rung động tinh tế nên nhận thấy cảnh vừa thực lại vừa ảo, vừa quen, vừa lạ.

Thế nhưng bức tranh quê dù đẹp đẽ, thanh bình đến đâu chăng nữa cũng sẽ trống trải nếu thiếu hình ảnh con người. Con người xuất hiện làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh sinh hoạt:

Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Khung cảnh thực mà giống như trong một giấc mơ. Giữa cánh đồng lúa xanh rờn nổi bật lên hình ảnh một cô nàng yếm thắm tràn đầy sức sống của tuổi xuân. Hình ảnh đáng yêu ấy thể hiện chất trữ tình lãng mạn đậm đà trong tâm hồn nữ thi sĩ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Tiếng động bất ngờ của Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra khiến cô gái giật mình ngơ ngác là một điểm nhấn nghệ thuật. Hình ảnh cô thôn nữ với cái dáng cắm cúi, chuyên cần làm việc giữa khung cảnh chiều xuân êm đềm như thế quả đã làm xúc động lòng người, vẻ đẹp của cô thôn nữ bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên khiến cho cảnh sắc bình thường, thân quen bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Thủ pháp lấy động tả tĩnh đã làm nổi bật vẻ thanh bình, vắng lặng của chiều xuân chốn đồng quê.

Ba bức tranh vẽ ba khung cảnh khác nhau nhưng trong cùng một thời điểm. Nữ sĩ Anh Thơ tìm cảm hứng từ những khung cảnh bình dị, quen thuộc xung quanh và tỏ ra có thế mạnh ở lối miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, thâu tóm được cái hồn của cảnh vật thiên nhiên. Mặc khác, Anh Thơ còn đóng góp cho Thơ mới ở cách dùng từ độc đáo, mới lạ chưa từng có trong thi ca. Đó là những cụm từ mưa đổ bụi, đò biếng lười; rụng tơi bời, mổ vu vơ; Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa… Những nét độc đáo, mới lạ ấy được thể hiện qua sự duyên dáng, mềm mại của các câu thơ càng làm nổi bật phong cách lãng mạn của tác giả. Bức tranh tổng thể về buổi chiều xuân yên ả, thanh bình vừa hòa hợp với tâm hồn nữ sĩ vừa gợi nên tình cảm làng mạc, quê hương sâu sắc trong lòng mỗi con người.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 3

Mùa xuân là mùa của cây cối sinh sôi nảy nở, mùa xuân cũng là mùa của biết bao nhiêu thế hệ thi sĩ đắm chìm vào những bài thơ miêu tả xuân. Nếu như đa số những nhà thơ nói đến cái màu sắc yêu kiều tinh khôi của xuân vào buổi sáng bình minh cây xanh nắng dội thì Anh Thơ lại chọn riêng cho mình tả mùa xuân vào buổi chiều. Và bài thơ Chiều Xuân ra đời như thế, qua đây ta thấy được thêm những nét đẹp của mùa xuân vào buổi chiều – vẻ đẹp êm đềm trên những cánh đồng quê hương dịu ngọt.

Nhà thơ vẽ lên một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều, bức tranh ấy cũng bắt đầu bằng hình ảnh của mưa xuân êm đềm:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

Không gian mở ra trên bến đò xưa cũ và bức tranh mùa xuân hiên lên có sự có cả âm thanh, màu sắc, hình ảnh. Tứ thơ mùa xuân lan tỏa trong từng hình ảnh từng chi tiết, từng lời thơ. Đó là những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân xứ Bắc: mưa bụi êm đềm, chùm hoa xoan tím rụng trên quán nhỏ hình ảnh cơn mưa bụi gợi lên sự êm đềm phảng phất của những hạt mưa xuân nhỏ nhẹ êm êm. Chiều xuân cũng vắng như những buổi chiều, con đò được nhân hóa như biết lười biếng để mặc cho nước trôi lững lờ cong mình thì nằm im lìm trên bến vắng đó. Trước mắt ta là một cảnh tượng hữu tình sông nước bến vắng với con đò. Anh Thơ không phải tìm đâu xa mà những hình ảnh bình thường nhưng lại nên thơ ấy đã như phô trước mắt chỉ cần một tâm hồn biết cảm nhận là toát lên những lời thơ tuyệt vời. Quán nước cũng im lìm trong sự vắng lặng ấy, chòm xoan hoa tím rụng tơi bời. Mùa chiều vốn tàn tạ nhưng mùa xuân thì nảy nở sinh sôi. Vậy Anh Thơ đã cho ta biết thêm một vẻ đẹp nhẹ nhàng lững lờ của mùa xuân nữa. Mọi thứ đều hoạt động một cách nhẹ nhàng phảng phất buồn trong sự vắng lặng của con người.

Sang khổ thơ thứ hai lại là một phiên cảnh khác, không phải là cảnh bến vắng con đò lười nữa mà là cảnh mùa xuân trên những triền đê:

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”

Màu sắc của cỏ cũng trở nên thật dịu nhẹ làm sao, sắc cỏ dịu dàng biếc cỏ. Sắc màu ấy không rực rỡ không chói chang không nổi sóng như bài xuân chín của Hàn Mạc Tử, cũng không bàn bạc thời gian như trong thơ Quách Tấn, mà sắc màu ấy là gam màu của cuộc sống được khúc xạ qua một tâm trạng ngẩn ngơ một chút buồn vu vơ của thi sĩ. Những con sáo đen sà xuống mổ vu vơ, mấy cánh bướm thì chập chờn trong gió, những đàn trâu thong thả ăn những búi cỏ ướt đẫm mưa xuân. Ở đây ta cảm thấy được nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ quả thật rất hay. Những con số như “đàn”, “mấy”, “những” thể hiện sự nhiều, sự đầy đủ nhưng cũng không quá đông của những con vật làm đẹp cho bức tranh chiều mùa xuân ấy. Và đặc biệt là hình ảnh cánh bướm thì trôi trước gió, đàn trâu thì ăn mưa. Người ta chỉ hay nói rằng trôi theo nước, ăn cỏ hay uống mưa chứ không ai nói như thi sĩ cả. Những cái vô lý ấy lại trở thành cái có lý thành những hình ảnh nghệ thuật vô cùng đẹp. Nó nhằm thể hiện lên sự dập dìu của thiên nhiên cảnh vật, cánh bướm mỏng manh bay trong gió tựa như đang trôi theo những làn gió nhẹ nhàng ấy. Đàn trâu gặm những búi cỏ ướt đẫm những hạt mưa xuân như đang ăn mưa vậy.

Chia tay cảnh chiều xuân trên triền đê bãi cỏ chúng ta đến với cảnh xuân trên trong ruộng lúa nước thân quen:

“Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”

Cơn mưa xuân êm êm kia cũng làm cho những cây lúa trên đồng ướt lặng. Cái chữ lặng kia làm cho chúng ta thấy được sự lặng lẽ êm đềm của cảnh vật xuân nơi làng quê. Cánh đồng không thiếu đi hình ảnh những con cò chân đứng chân co rồi lại chốc chốc bay vút lên bầu trời kia. Cánh cò cứ bay lả rập rờn như thế. Cái hành động chốc chốc bay ra ấy khiến cho những cô gái yếm thắm giật mình. Cái giật mình ấy thật đáng yêu làm sao. Hình ảnh những người con gái xưa duyên dáng với chiếc yếm trên thân mình gợi cho ta bao niềm liên tưởng về những con người ngày xưa. Đặc biệt câu thơ cuối với bốn từ liền nhau đều mang âm đầu là “c” “cúi cuốc cào cỏ” thể hiện sự nhịp nhàng trùng điệp. Những cô gái yếm thắm ấy không chỉ duyên dáng trong trang phục của người xưa mà còn đẹp với cái nết na chăm chỉ vun vén cho những cây lúa tốt tươi, cuốc những cây cỏ đang ra hoa kia đi.

Như vậy có thể nói ba cảnh ấy hợp lại thành một bức tranh chiều xuân với nét đẹp vẫn sinh sôi nảy nở nhưng lại êm đềm vắng vẻ và thoáng chút buồn vu vơ của người thi sĩ. Có thể nói ta cảm nhận được sau bức tranh ấy là một tâm hồn thuần phát trong sáng của nhà thơ.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 4

Nhắc đến nhà thơ Anh Thơ người độc giả lại nhớ về hình ảnh một nữ thi sĩ tiêu biểu của phong trào thơ Việt Nam hiện đại. Tuổi thơ êm đềm đã từng gắn liền với đồng ruộng cánh cò quê hương sớm chiều mưa hay nắng, chính điều này là nền tảng khơi nguồn cho dòng suối cảm xúc thơ trong bà với phong cách thơ bình dị mà sâu sắc qua từng câu chữ, qua bao hình ảnh của cảnh sắc nông thôn quê hương nhẹ nhàng được gợi tả một cách khéo léo. Càng ấn tượng hơn khi bà đến với thơ ca như con đường giải thoát khỏi cuộc đời tù túng, buồn tẻ và tự khẳng định giá trị người phụ nữ trong xã hội đương thời. Tập thơ “bức tranh quê” đầu tiên ra đời chan chứa những gì mộc mạc và dung dị, đặc biệt qua bài thơ “chiều xuân”, một bức tranh về cảnh mây trời tắt nắng trong sắc xuân tươi đẹp.

Những cơn mưa xuân đặc trưng nơi miền Bắc là những cơn mưa bụi li ti rơi nhẹ tắm mát cho chồi non ngọn cỏ thêm xanh tươi, mưa xuất hiện trong dòng thơ đầu tiên rất đỗi lặng lẽ trên bến đò vắng, cảnh vật thoáng buồn và chút tĩnh lặng, thêm cái lạnh của tâm hồn bằng sự trống trải:

“Mưa bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi”

Từng giọt mưa mãi rơi hững hờ và “êm êm” trước mắt nhà thơ. Từ láy gợi tả hình ảnh những giọt mưa rơi nhẹ điểm xuyết cho khung cảnh, không ồn ào vồn vã hay nặng hạt mà có chút gì như chầm chậm theo từng khoảnh khắc thời gian. Bến sông thì thưa khách đi đò chiều, vắng mênh mông, không gian rộng hơn và sự trống trải lan tỏa vào tâm hồn. Con đò nhỏ sau một ngày làm việc chở khách ngược xuôi trên dòng sông quê hương bây giờ nằm đây và lắng vào phút giây nghỉ ngơi, mạn đò lung lay theo sóng nhỏ, vô tình trôi bềnh bồng theo nước sông. Như thế đấy ta có cảm giác nhịp mưa rơi nhịp sóng vỗ nhẹ nhịp đò trôi hòa theo nhau tạo nên bức tranh giản dị nhưng sâu lắng bao cảm xúc. Ánh mắt nhà thơ chuyển hướng và cũng bắt gặp sự yên tĩnh đang bao trùm:

“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

Quán tranh được nhà thơ nhân hóa qua động từ “đứng”. Không chỉ là “đứng” mà là “đứng im lìm” và “trong vắng lặng”, từ láy nối tiếp động từ như nhân thêm sự trống vắng không chỉ riêng bến sông gây hiệu ứng mạnh trong khổ thơ.Nơi quán tranh này là trung tâm của hoang vắng và xơ xác khi ngày sắp kết thúc. Hoa tím rụng “tơi bời” vào những phút cuối của ngày dài. Dường như không chỉ con người mệt mỏi mà vạn vật cũng rã rời, trút bỏ tàn dư cuối cùng.Thời gian thì cứ mỗi phút trôi qua mang theo sự rộn ràng hối hả của ban ngày và thay thế là chiếc áo khá buồn tẻ vì cô đơn và vắng lặng khắp nơi.Khổ thơ thứ hai hiện lên bằng những hình ảnh được thu gọn vào tầm mắt nhà thơ:

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ”

Đường đê rộng đôi bờ chạy dài và mơn mởn bao ngọn cỏ xanh tươi, màu sắc của câu thơ chính là màu “biếc” của cỏ. Ngòi bút nhà thơ tạo những nét chấm phá màu sắc khá đẹp, cảnh thoáng buồn của khổ một bây giờ như được dung hòa lại bằng chính màu sắc của sự sống dù chỉ là ngọn cỏ. Đến đây không gian bớt đi màu tàn phai nhường chỗ cho màu biếc rạng rỡ, cái tĩnh lặng cũng tan dần theo tiếng vỗ cánh của đàn chim sáo đen đang sà xuống.Chúng vô tư như những đứa trẻ nghịch trên đồng qua cách miêu tả tinh tế “mổ vu vơ”. Không phải “mổ vu vơ” mà thực ra chúng đang mổ những con mồi bé nhỏ nhưng trong mắt nhà thơ hình ảnh đó khá là dễ thương và mang cảm giác thanh bình hạnh phúc vì cuộc sống tự do và khoáng đạt. Không dừng lại bấy nhiêu đó, hình ảnh tiếp theo mang lại cho độc giả cái nhìn hơi ngỡ ngàng vì những điều bình dị mà không bao nhiêu người cảm nhận được:

“Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”

Gió lướt qua thổi mát khung cảnh và không ít lần làm nghiêng nghiêng cánh bướm, khả năng dùng từ láy khá là phong phú “rập rờn”, nhà thơ miêu tả cái cách chú bướm nhỏ muốn bay nhưng không sao vượt qua sức ép của cơn gió nên đôi cánh kia cứ mãi chao đi chao lại theo làn gió thổi. Động từ “trôi” càng tô đậm thêm hình ảnh cánh bướm nhỏ bị cơn gió kia hững hờ mang đi. Từng đợt gió đến rồi đi và tiếp tục thổi cho cánh bướm mãi “rập rờn” chao nghiêng. Thấp hơn cánh bướm là những chú trâu bò đang từ tốn nhai cỏ non một cách “thong thả”, chậm rãi như tận hưởng hạnh phúc. Mưa vẫn còn rơi và vương hạt mưa lên ngọn cỏ cho ta cảm giác trâu bò đang thưởng thức chính “mưa”. Nhịp thơ không nhanh mà theo nhịp hoạt động của muôn vật. Đây là khoảng thời gian mọi thứ trở nên lắng đọng và chầm chậm trôi xua đi mỏi mệt dần tan biến. Đến khổ thơ cuối cùng của bài thơ, không gian mở rộng khắp phía và làm hoàn chỉnh bức tranh “chiều xuân” thơ mộng của thi sĩ Anh thơ:

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”

Quê hương tươi đẹp bởi những cánh đồng xanh rì ngọn lúa rung rinh xào xạc theo đợt gió thổi về, còn thấm đẫm những giọt mưa bụi lất phất. Lũ cò con lông trắng là hình ảnh gắn liền với ruộng đồng, với bầu trời thôn quê, với cơn gió mát chiều về, nghịch ngợm bay ra vội vàng hối hả làm xao động cả góc trời, chúng tung cánh tự do phiêu lãng và vô tình làm giật mình một cô gái nông thôn đang cần mẫn làm việc bởi âm thanh bay lên của những đôi cánh. Cô gái trong câu thơ vẫn chăm chỉ làm nốt những công việc cuối cùng của ngày sắp tàn và cũng là những gì hiện lên trước mắt nhà thơ sau chót. Khung cảnh thanh bình tràn đầy sức sống, hoạt động của muôn vật đã xây dựng nên nhịp sống vui tươi nơi đây dù thời gian trôi gần hết ngày.

Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, khéo léo dùng ngòi bút của mình vẽ nên những hình ảnh bình dị nhưng thật ấm áp và chan chứa vẻ đẹp cuộc sống, bên cạnh đó theo dòng thơ mạch cảm xúc của người đọc được dâng lên và nhờ đó ta cảm nhận sâu nhất tình cảm cảm xúc của nhà thơ, đây chính là thành công khẳng định giá trị của bài thơ.

Đôi lúc nhịp thơ chầm chậm nhẹ nhàng sâu lắng đôi lúc lại mang đến cảm giác rộn ràng và vui vẻ, cả bài thơ như bài nhạc muôn giai điệu phong phú làm rung động trái tim suy nghĩ của người đọc bài thơ. Tấm lòng yêu thơ ca và yêu những gì thân thuộc giản dị của quê hương cùng tài năng là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công của bài thơ “Chiều xuân”.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 5

Anh Thơ (1921-2005) quê ở Bắc Giang, từ nhỏ bà đã tìm đến văn thơ để giải thoát và tự khẳng định mình. Tháng 8 năm 1945 Anh Thơ hăng hái tham gia cách mạng, nhiệt tình phục vụ kháng chiến và xây dựng đất nước bằng sáng tác thơ ca bà từng là ủy viên ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam, bà đã để lại nhiều tập thơ có ý nghĩa tinh thần và nghệ thuật sâu sắc. Trong đó có bài “chiều xuân” Anh Thơ đã miêu tả một bức tranh quê chiều xuân thanh bình, đồng thời thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha của mình.

Quê hương đất nước là mảng đề tài quen thuộc của giới văn nghệ sĩ, đã có nhiều tác phẩm tuyệt vời ra đời, Anh Thơ là một trong số những nhà văn đó đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thiết tha qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhưng sâu lắng. Cảnh quê hương thanh bình yên ả của một quê hương giàu đẹp được thi nhân đón nhận bằng cả tâm hồn. Trải rộng bài thơ trích trong tập thơ “bức tranh quê” xuất bản năm 1941.

Anh thơ đã chọn thể thơ 8 chữ, gieo vần giãn cách, mỗi khổ có 4 câu là một bức tranh quê êm đềm, thư thái như tâm hồn người phụ nữ :

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

Nhịp thơ 3/5 chậm rãi, khoan thai với những hình ảnh quen thuộc trong ca dao và thơ ca cổ điển Việt Nam vẫn là bến nước, con sông, con đò, quán nước nhưng có lẽ không phải bên sông có đông người lên xuống mà là một bến vắng, con đò cũng không phải là con đò nối giữa cầu hai cảng mà là con đò biếng lười, hờ hững để mặt dòng sông trôi xuôi và quán tranh im lìm, vắng lặng trong một chiều mưa xuân. Tất cả cảnh vật như rơi vào tình trạng im ắng tuyệt đối, tất cả như đang mong mỏi một cái gì đó đến từ nơi xa thẳm. Nếu như không có sự chuyển động của nước sông trôi và “chòm xoan hoa tím rụng tơi bời” thì người đọc tưởng như mình đang đối diện với bức tranh xuân tĩnh vật, bức tranh xuân tuyệt đẹp, thật êm ả nhưng cũng thật buồn, chất chứa tâm trạng buồn não nề của chủ thế tôi đang cô đơn, khao khát đợi chờ, hỏi thăm. Khổ thơ như chứa đựng được nỗi niềm của thi nhân.

Ở khổ thứ 2, từ cái nhìn bao quát tác giả đi gần vào với con người và thiên nhiên

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa .”

Cảnh chiều xuân được mở rộng hơn sau những ngày băng giá, xuân về cỏ non trở nên tốt tươi hơn “cỏ non tràn biếc cỏ”, điệp từ “cỏ” được lặp lại 2 lần đã khắc họa được cảnh vật thân quen ở nông thôn, cỏ non xanh mơn mởn, sức sống bừng lên mạnh mẽ qua cụm từ “tràn biếc cỏ” trên nền hình ảnh cỏ xuân ấy, chiều xuân hiện ra thật sinh động:”Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ” cùng với đàn bò đang gặm cỏ để ăn và cao hơn một chút là: “Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió”, cảnh vật có động nhưng thật nhẹ nhàng vì đàn sáo đen sà xuống nhưng chỉ mổ một cách vu vơ, vài ba cánh bướm thì lại không bay mà để mặc trôi trước gió, mấy chú trâu bò kia lại cúi thong thả ăn mưa, cách miêu tả của Anh Thơ đã làm cho vật đã tỉnh nay càng thêm tỉnh hơn, càng trở nên mơ hồ, huyền hoặc hơn.

Tác giả lại đi vào chỉ tiết hơn ở cánh trong đồng, được Anh Thơ thể hiện trong khổ 3 của bài thơ:

“Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa .”

Thi nhân tiếp tục khắc họa thêm hình ảnh chiều xuân với “đồng hoa lúa xanh rờn và ướt lặng”, có những chú cò con thỉnh thoảng lại tung vụt bay lên giữa mảnh ruộng sắp ra hoa, trên khung cảnh chiều xuân ấy lại có sự xuất hiện thêm bóng dáng của thiếu nữ đang cúi cuốc cào, tưởng chừng như cô gái đang chăm chỉ với công việc, nhưng không tập trung vào công việc của mình nhiều lắm, chỉ cần tiếng cất cánh của đàn chim con” thôi mà cô gái cũng phải giật mình, cái “giật mình” thật đáng suy nghĩ, nàng yêu thắm kia thả hồn về nơi đâu trong tuổi dậy thì mơ mộng với nỗi buồn vu vơ, nàng ngẩn ngơ trước cảnh vật đang rạo rực vào xuân.

Cả bài thơ chỉ vỏn vẹn có 3 khổ thơ, mỗi khổ là một bức tranh xuân hợp lại, tạo nên cảnh xuân buổi chiều êm ả, bình yên và tĩnh lặng. Qua thủ pháp lấy động tả tĩnh cảnh sắc tươi tắn, con người mộng mơ, với sự quan sát tinh tế của người con gái phải yêu quê hương tha thiết thì ngòi bút của nhà văn Anh Thơ mới dựng lên được một cảnh chiều mưa xuân đẹp đến như thế.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 6

Anh Thơ (1921-2005) là một nhà thơ xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê gốc ở tỉnh Bắc Giang, tên tuổi của bà xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những bài thơ viết về cảnh sắc nông thôn tràn ngập những hình ảnh gần gũi, thân thuộc, gợi được không khí và nhịp sống sôi động nơi đồng quê miền Bắc nước ta.

Anh Thơ được được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007. Các tác phẩm tiêu biểu của bà là: Bức tranh quê (thơ -1941), Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ – 1957), Từ bến sông Thương (hồi kí – 1986)…

Bài thơ Chiều xuân là bài thơ được rút từ “Bức tranh quê” – là tập thơ đầu tay của Anh Thơ. Đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ, bài thơ là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh bình làm cho con người thêm gắn bó với quê hương.

Bài thơ với ba khổ thơ như vẽ nên ba bức tranh về chiều xuân yên ả, thanh bình. Những bức tranh nhỏ ghép lại thành một bức họa lớn về bức tranh thiên nhiên nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Khổ thơ thứ nhất tương ứng với bức tranh thứ nhất, tả cảnh một chiều mưa bụi với những hình ảnh thân thuộc, “bến sông vắng khách”, “quán tranh” và “chòm xoan đầy hoa tím”:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”.

Nhà thơ đã dùng cả tâm hồn nhạy cảm của mình để cảm nhận cảnh vật, trong một buổi chiều mưa lạnh nên cảnh vật trở nên tiêu điều, vắng vẻ và có phần xơ xác. Bao trùm cả bức tranh là một vẻ tĩnh lặng gần như là hoàn toàn, nhưng vẫn có sự hoạt động của cảnh vật dù chỉ là sự hoạt động rất nhẹ: “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”, các cảnh vật còn lại dường như chỉ lặng im, con đò thì “nằm mặc nước sông trôi”, còn quán tranh thì “đứng im lìm”.

Con đò hàng ngày tất bật chở khách thì hôm nay trở nên “biếng lười”, như tỏ vẻ mệt mỏi. Quán tranh trong buổi chiều mưa bụi cũng trở nên vắng lạnh vì thiếu đi sự nhộn nhịp tấp nập tiếng cười, tiếng trò chuyện của khách. Nhưng cơn mưa dù nhỏ, nhẹ nhưng khi kèm theo những cơn gió gió còn vướng hơi lạnh của những ngày cuối mùa đông cũng đủ sức làm cho những chòm hoa xoan tím rụng “tơi bời”.

Nhưng có lẽ chính sự tĩnh lặng này đã làm cho bức tranh buổi chiều xuân có chiều sâu của nó, tất cả cảnh vật đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín. Tiếp đến là khổ thơ thứ hai với bức tranh thứ hai, nếu như ở bức tranh thứ nhất là bức tranh về cảnh vật tĩnh lặng thì ở bức tranh thứ hai dường như đã có sự sống, hoạt động của các loài động vật:

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”.

Con đê ven làng là hình ảnh thân thuộc mà có lẽ ở vùng quê nào cũng có, mùa xuân là mùa của hoa lá, cỏ cây bắt đầu sinh sôi nảy nở, chính vì vậy mà con đường ven đê cỏ non tràn biếc cỏ, câu thơ thể hiện sự tươi mát, xanh non của cảnh vật tràn ngập sức sống của mùa xuân, hai từ cỏ như mở ra trước mắt ta một không gian ngập tràn màu xanh làm tâm hồn ta mênh mang, rộng mở.

Trên cái nền xanh tươi ấy là hình ảnh “đàn sáo đen”, là “mấy cánh bướm” và “những trâu bò”, tất cả như một sự điểm xuyết làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động hơn. Trong bức tranh này các hoạt động cũng trở nên rộn ràng, tấp nập hơn chứ không nhỏ, nhẹ như bức tranh thứ nhất nữa, đàn sáo đen sà xuống mặt đất mổ nhưng chỉ là mổ vu vơ, trước cơn gió xuân ta cảm giác như những cánh bướm không bay mà là đang “trôi’ theo làn gió, đặc biệt là hình ảnh trâu bò “cúi ăn mưa”, tại sao không phải là ăn cỏ mà lại là “ăn mưa”.

Đây là một hình ảnh thật sự lãng mạn, mưa xuống những ngọn cỏ còn long lanh nước, ta có cảm giác như không phải là trâu bò gặm cỏ dưới làn mưa bụi mà là đang cúi xuống để gặm những hạt mưa. Bức tranh thứ hai là một bức tranh được nhìn bằng sự lãng mạn của nhà thơ, chính vì vậy nó vừa thực vừa ảo, vừa gợi cảm giác tươi mát vừa gợi sự thơ mộng.

Bức tranh thứ ba được thể hiện qua khổ thơ cuối cùng với sự xuất hiện của con người, đây chính là yếu tố quan trọng làm cho từ một bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh sinh hoạt của con người:

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”.

Một bức tranh dù đẹp đến đâu nhưng nếu thiếu vắng đi bóng dáng con người thì bức tranh cũng thật đơn điệu và kém phần sinh động. Từ bức tranh thứ nhất đến bức tranh thứ ba đã có sự biến chuyển đi từ tĩnh lặng gần như là tuyệt đối đến đã bắt đầu có sự hoạt động của sự vật và ở bức tranh cuối cùng là hoạt động của con người.

Giữa cánh đồng lúa xanh rờn và hành động của lũ cò con “chốc chốc vụt bay ra” thì đã xuất hiện hình ảnh của con người đó là “một cô nàng yếm thắm”, cả bức tranh là một sự hòa hợp của nhiều sắc màu, lúa xanh, cò trắng, yếm thắm làm cho bức tranh trở nên sinh động và rất tươi tắn.

Ba bức tranh đã khắc họa nên những cảnh vật khác nhau với những dáng vẻ khác nhau nhưng đó đều là những hình ảnh rất thân thuộc, gần gũi với làng quê nông thôn, mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật của Anh Thơ.

Bài thơ mang cho ta cảm nhận về bức tranh thiên nhiên của một buổi chiều xuân êm đẹp, qua đó gợi lên tình yêu quê hương đất nước sâu sắc trong trái tim mỗi con người chúng ta.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 7

Nói đến nhà thơ, chắc chắn người đọc sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh tiêu biểu của các nữ thi sĩ trong phong trào thơ Việt Nam hiện đại. Tuổi thơ êm đềm bên cánh cò quê hương chiều nắng chiều mưa là nền tảng cho dòng thơ của chị, với ngôn từ dung dị mà sâu lắng, nặng hình ảnh. Nhẹ nhàng gợi lên khung cảnh thôn quê một cách tinh tế. Ấn tượng hơn nữa, cô sử dụng thơ ca như một cách để thoát khỏi cuộc sống tù túng, tẻ nhạt và khẳng định mình trong xã hội đương đại. Tập thơ đầu tiên “Cảnh quê” ra đời đầy những điều giản dị, không màu mè, đặc biệt qua bài thơ “Hội xuân” tả cảnh xuân như mây, hoàng hôn.

Mưa xuân đặc trưng của miền Bắc là mưa bụi li ti rơi nhè nhẹ làm mát chồi non lá xanh Mưa lặng lẽ xuất hiện trên bến vắng ở dòng đầu bài thơ Cảnh có chút buồn và thanh bình Chiếc xe là một chút tĩnh lặng, và sự trống trải càng làm tăng thêm sự lạnh lẽo của tâm hồn:

“Mưa im lìm rơi bến vắng,

Chiếc thuyền lười nằm trên sông”

Từng giọt mưa rơi hờ hững và “lặng lẽ” trước mắt thi nhân. Từ lá gợi hình ảnh những cơn mưa phùn, không ồn ào cũng không nặng hạt, như chầm chậm trôi theo từng khoảnh khắc của thời gian. Bên sông thưa vắng khách đò chiều, nỗi trống vắng miên man, không gian như rộng ra, nỗi trống vắng lan tỏa đến tận tâm hồn. Con đò chở khách xuôi ngược trên những dòng sông quê hương một ngày lao động, giờ nằm ​​đó, bước vào giây phút nghỉ ngơi, mạn thuyền đung đưa theo con sóng nhỏ, vô tình trôi theo dòng sông.

Qua đây ta cảm nhận được nhịp mưa rơi, nhịp sóng vỗ mạn thuyền, tạo nên một bức tranh giản dị mà sâu sắc, giàu cảm xúc. Khi nhà thơ đưa mắt nhìn, cũng thoáng thấy xung quanh vắng lặng:

“Quán tranh đứng im lìm

Bên chùm hoa tím rơi”

Quán tranh này được nhà thơ nhân cách hóa qua động từ “đứng”. Không chỉ “đứng”, mà cả “đứng im”, “lặng lẽ”, những từ ghép đứng sau động từ dường như càng làm tăng thêm sự trống vắng, và không riêng gì bờ sông có tác dụng mạnh mẽ trong khổ thơ. Trời tối dần, quán nằm ngay giữa nơi vắng vẻ, hoang vu này. Kết thúc một ngày dài, những bông hoa tím buông xuống một cách “đầy ghê tởm”. Dường như không chỉ con người mệt mỏi mà vạn vật cũng đang tan rã, trút bỏ những tàn dư cuối cùng. Thời gian, mỗi phút trôi qua đều kéo theo nhịp sống hối hả của ngày, và bởi sự cô đơn, tĩnh lặng khắp nơi được thay bằng tấm áo khá buồn tẻ. Hình ảnh trong mắt thi nhân ở đoạn hai:

“Ngoài đường cây cỏ mọc um tùm,

Con sáo đen sà xuống mổ vô mục đích”

Cỏ xanh mọc bên bờ đê rộng, màu thơ là màu “xanh” của cỏ. Ngòi bút của nhà thơ tạo nên những nét màu rất đẹp, cảnh hoang tàn đau khổ dường như giao hòa với màu sắc của cuộc sống bây giờ, dù chỉ là một ngọn cỏ. Đến đây, không gian dần mờ đi, thay vào đó là màu xanh lam rực rỡ, và sự im lặng mờ dần khi con mynah đen sà xuống vỗ cánh. Qua sự miêu tả tinh tế của “Mổ xẻ lớn”, họ vô tư như những đứa trẻ chơi trên cánh đồng. Chúng không “tấn công vu vơ” mà mổ những con mồi nhỏ bé, nhưng trong mắt thi nhân, hình ảnh ấy thật dễ thương, mang lại cho con người sự bình yên, hạnh phúc do cuộc sống tự do thoải mái mang lại.

Hơn thế, bộ ảnh dưới đây mang đến cho người đọc cái nhìn hơi ngỡ ngàng, những điều đơn giản, nhiều người không cảm nhận được:

“Con bướm tung cánh trong gió,

Nữu Nữu từ từ cúi đầu ăn mưa”

Gió thoảng qua cảnh vật, nhiều lần nâng cánh bướm Khả năng sử dụng từ ngữ khá phong phú. gió, vì vậy các cánh khác liên tục đung đưa qua lại với gió thổi. Động từ “lơ lửng” càng làm nổi bật hình ảnh con bướm nhỏ bị gió hờ hững đưa đi. Từng đợt gió đến rồi đi, không ngừng thổi tung cánh bướm khiến chúng “lấp lánh” mãi không thôi.

Dưới cánh bướm là những chú trâu, chú bò đang “chậm rãi” nhai cỏ non, chậm rãi, như đang tận hưởng niềm hạnh phúc. Mưa vẫn rơi, những hạt mưa rơi trên cỏ cho ta cảm giác những chú bò đang tận hưởng “cơn mưa”. Nhịp thơ không nhanh mà biến đổi theo nhịp sinh hoạt của vạn vật. Đây là lúc mọi thứ trở nên tĩnh lặng và sự mệt mỏi dần tan biến. Đến khổ thơ cuối, không gian mở rộng ra muôn phương, hoàn thiện bức tranh “Chiều xuân” nên thơ và đẹp như tranh vẽ:

“Trên cánh đồng lúa xanh

Lâu lâu có cò bay ra,

Dọa một cô gái dễ thương

Nhổ cỏ từ từ trên những cánh đồng sắp trổ bông.”

Nhà đẹp, ruộng xanh, đồng lúa xào xạc theo gió, còn lấm tấm hạt mưa bụi. Đàn cò lông trắng là hình ảnh của cánh đồng, của bầu trời thôn quê, của làn gió chiều mát rượi, tinh nghịch bay ra rồi vội vã làm náo động cả một góc trời, chúng tung cánh bay lượn tự do. Vô tình làm giật mình một cô gái quê đang chăm chỉ giữa tiếng cánh cất lên.

Cô gái trong bài thơ vẫn đang cố gắng hoàn thành công việc cuối cùng của ngày sắp hết cũng hiện ra trước mặt nhà thơ cuối cùng. Một khung cảnh yên bình tràn đầy sức sống, nơi hoạt động của vạn vật tạo nên nhịp sống tươi vui, mặc dù thời gian đã trôi qua gần hết ngày.

Nghệ thuật sử dụng từ ngữ khéo léo đã vẽ nên bức tranh giản dị, ấm áp đầy vẻ đẹp của cuộc sống, ngoài việc bám sát từng câu từng chữ, câu thơ còn truyền tải được cảm xúc của người đọc, để người đọc cảm nhận được sâu sắc nhất cảm xúc của nhà thơ .Thành công này càng khẳng định giá trị của bài thơ này.

Nhịp điệu trong thơ có lúc chậm rãi, nhẹ nhàng, sâu lắng, có lúc mang lại cảm xúc nồng nàn, sảng khoái.Cả bài thơ như một bản nhạc có âm điệu da diết, lay động bao trái tim, bao suy nghĩ của nhà thơ. Tình yêu thơ ca, sự giản dị quen thuộc với quê hương và tài hoa là những yếu tố quan trọng góp phần làm nên thành công của bài thơ “Chiều xuân”.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 8

Mùa xuân là mùa cây cối xum xuê, mùa xuân cũng là mùa mà biết bao thế hệ thi nhân đã đắm mình trong những vần thơ tả cảnh xuân. Nếu như hầu hết các nhà thơ đều nói về vẻ đẹp và sự thanh khiết của mùa xuân trong buổi sáng, của bình minh trong xanh và nắng vàng thì riêng nhà thơ lại chọn miêu tả mùa xuân vào buổi chiều tà. Bài thơ “Chiều xuân” ra đời từ đây, và từ đây ta thấy thêm vẻ đẹp của những buổi chiều xuân – vẻ đẹp của sự thanh bình trên cánh đồng quê em.

Nhà thơ đã vẽ một bức tranh chiều xuân, và bức tranh ấy cũng bắt đầu bằng hình ảnh mưa phùn:

Mưa bụi bến vắng,

Chiếc thuyền lười nằm trên sông;

Quán tranh đứng yên lặng

Bên chùm hoa tím rơi

Không gian mở ra trên bến cũ, bức tranh mùa xuân hiện lên sự hiện diện của âm thanh, màu sắc và hình ảnh. Chất thơ xuân lan tỏa trong từng hình ảnh, từng chi tiết, từng câu chữ. Đó là hình ảnh đặc trưng của mùa xuân miền Bắc: mưa bụi nhè nhẹ, hoa bách hợp tím rơi bên quán nhỏ… Hình ảnh mưa bụi gợi sự dịu dàng của mưa xuân, của những hạt mưa nhẹ. Chiều xuân vắng như chiều, con thuyền được nhân hóa buông dòng nước lững lờ trôi rồi ngủ quên trên bến vắng. Những gì mở ra trước mắt chúng tôi là một khung cảnh hấp dẫn của những con sông trống rỗng chở những chiếc thuyền.

Thơ không cần tìm đâu xa, những hình ảnh bình dị mà nên thơ ấy cứ hiện ra trước mắt, chỉ cần một trái tim đa cảm là toát lên chất thơ tuyệt diệu. Quán cũng im lìm trong mảnh tĩnh lặng ấy, những chùm hoa tím lần lượt rơi xuống. Hoàng hôn mờ dần, và mùa xuân đến sống động. Vậy là nhà thơ đã cho ta thấy một vẻ đẹp dịu dàng khác của mùa xuân. Trong sự im lặng của con người, mọi thứ diễn ra một cách nhẹ nhàng, buồn bã.

Tứ quý 2 lại có cảnh khác, không phải cảnh thuyền lười mà là cảnh mùa xuân trên triền đê:

“Ngoài đường cây cỏ mọc um tùm,

Con sáo đen sà xuống mổ vô mục đích

Cánh bướm tung bay trong gió.

Nữu Nữu từ từ cúi đầu ăn mưa”

Màu cỏ cũng trở nên dịu dàng, màu cỏ nhẹ nhàng dịu dàng. Màu ấy không lộng lẫy như bàiChunjiucủa Hàn Mỹ Đồ, không chói chang, không thất thường, không tốn thời gian như thơ Quách Tế, nhưng màu ấy chính là màu của cuộc đời. Tâm trạng bình dị, hơi buồn của nhà thơ. Đàn sáo đen sà xuống mổ mồi vu vơ, đàn bướm dập dờn trong gió, đàn trâu thong dong gặm cỏ ướt đẫm mưa xuân. Đến đây ta cảm nhận được nghệ thuật viết của nhà thơ thật hay. Các con số “nhóm”, “nhiều”, “những” tượng trưng cho những con vật dồi dào, đầy đủ nhưng không quá nhiều, làm đẹp thêm bức tranh chiều xuân.

Đặc biệt là hình ảnh những chú bướm xòe cánh ngược gió và những chú trâu ăn mưa. Người ta thường nói trôi theo dòng nước, ăn cỏ uống mưa, nhưng không ai nói như thi sĩ. Những điều phi lý đó đã biến thành những hình tượng nghệ thuật có lý và vô cùng đẹp đẽ. Được thiết kế để thể hiện sự đung đưa của khung cảnh thiên nhiên, những cánh bướm mỏng manh tung bay trong gió như thể theo những làn gió nhẹ ấy. Trâu gặm cỏ ướt mưa xuân, giống như ăn nước mưa.

Trên cánh đồng lúa xanh

Lâu lâu có cò bay ra,

Dọa một cô gái dễ thương.

Chạy chậm cày ruộng sắp trổ bông

Mưa xuân không ngớt còn làm ướt lúa ngoài đồng. Từ im lặng ấy cho ta thấy nét thanh bình của cảnh xuân nơi làng quê. Lâu lâu trên cánh đồng lại xuất hiện hình ảnh những đàn cò đứng uốn mình bay vút lên không trung. Cánh cò cứ thế tung bay. Hành động bay ra ngoài thường xuyên khiến các cô gái đang yêu bị sốc. Điều bất ngờ thật dễ thương.

Hình ảnh những thiếu nữ duyên dáng khoác lên mình chiếc yếm gợi cho ta nhớ về những con người ngày xưa. Đặc biệt bốn câu cuối có âm đầu là “c” gieo vần với “cúi, cuốc, cào cỏ”. Những cô gái yêu kiều trong trang phục cổ trang không chỉ duyên dáng mà còn chăm chỉ, trồng hoa, thướt tha.

Như vậy có thể nói ba cảnh này gộp lại thành một, tạo thành cảnh một buổi chiều xuân, vẻ đẹp còn nhân lên gấp bội nhưng lại thanh bình, tĩnh lặng, một thi nhân hơi buồn cô đơn. Có thể nói, ta cảm nhận được tâm hồn trong sáng, thuần khiết của thi nhân ẩn sau bức tranh.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 9

Nữ thi sĩ (1921-2005) tên thật là Vương Kiều An, sinh trưởng trong một gia đình Nho học truyền thống. Nữ ca sĩ quê gốc ở thị xã Bắc Giang nhưng cô lại sinh ra và lớn lên tại thành phố Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Tuy không học hết tiểu học nhưng bà có năng khiếu văn chương nên rất thích đọc sách và làm thơ. Trong Phong trào thơ mới xuất hiện những bút danh anh hùng ca, những bài thơ đề tài nông thôn đầy những hình ảnh gần gũi, quen thuộc làm khơi dậy trong lòng mỗi người những nỗi nhớ quê, nhớ quê. Mỗi bài thơ của bà là một bức tranh thiên nhiên tươi mát, hài hòa, gợi lên không khí, nhịp sống trầm mặc của cuộc sống đồng quê Bắc Bộ.

Tác phẩm đã xuất bản: Bức tranh quê (Thơ, 1941); Cổ kính (Thơ, In chung, 1942); Răng đen (1944); Xuân Hương (Thơ, In chung, 1944); Theo bồ câu (thơ, 1960); Ngọc trai Đảo (thơ, 1964); Hoa trăng (thơ, 1967); Mùa xuân xanh (thơ, 1974); Quê chồng (thơ, 1979); Giọt sương (thơ, 1995).

Chiều xuân in trong “Tuyển họa Trung Quốc” (xuất bản năm 1941) là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong lành, thơ mộng cùng khung cảnh làng quê thanh bình, yên ả khiến lòng người không khỏi bồi hồi nhớ quê.

Buổi chiều thường là lúc các nhà thơ dễ khơi dậy cảm xúc và cảm hứng nhất. Qua quan sát, nhà thơ chọn lọc những cảnh, chi tiết tiêu biểu rồi phác ra ba bức tranh về những buổi chiều xuân yên ả, thanh bình. Hình ảnh đầu tiên miêu tả một buổi chiều mưa với bến sông vắng, một chiếc thuyền nằm gần như bất động và một cửa hàng nghệ thuật đổ nát bên cạnh một cây xoan rụng đầy hoa tím:

Hạt mưa rơi trên bến vắng,

Chiếc thuyền lười nằm trên sông

Quán tranh đứng yên lặng

Bên chòm sao hoa tím rơi.

Quan sát và đánh giá bằng cả trái tim, người nữ sĩ quan đã cảm nhận được cái hồn của khung cảnh quen thuộc. Trong buổi chiều se lạnh, khung cảnh làng quê bên sông càng thêm hoang vắng, vắng vẻ. Một bức tranh dường như không có màu sắc và ánh sáng. Trong cái tĩnh lặng gần như tuyệt đối của không gian, vẫn có sự chuyển động của cảnh vật, dù nó nhẹ như hư không: mưa đổ bụi trên bến hoang vắng.

Ngày thường, con đò tấp nập chở khách trên sông, mà giờ đây nó có vẻ mệt mỏi, uể oải nằm thả mình cho dòng sông trôi. Cửa hàng tranh chân dung đứng đó lặng lẽ như một nơi ẩn dật, bởi không có khách ra vào nói cười rôm rả. Gió xuân thổi giàn hoa tím còn vương hơi lạnh cuối đông. Mọi thứ dường như đều chứa đựng một nỗi buồn sâu thẳm không thể nói nên lời.

Hình ảnh thứ hai:

Ngoài đường cây cỏ mọc um tùm

Con sáo đen sà xuống mổ vô mục đích;

Cánh bướm tung bay trong gió,

Nữu Nữu cúi xuống ăn mưa.

Trong hình ảnh con đường chiều xuân, cảm xúc của nữ ca sĩ thật dung dị và bình yên. Quang cảnh con đường đắp cao vui vẻ và sống động hơn quang cảnh cầu cảng vắng vẻ bên trên. Màu xanh của cỏ non trải dài, từ từ cúi xuống ăn nước mưa. Đây là tưởng tượng nghệ thuật sinh ra từ hiện thực, qua lăng kính lãng mạn của nhà thơ. Trên nền xanh dịu mát điểm xuyết vài chùm “sáo đen” và “đôi cánh”. Đoạn thơ có nhiều nét thơ mới mẻ, chứng tỏ năng khiếu quan sát và những rung động tinh tế của tác giả nên bắt mắt và khiến nhà thơ có những liên tưởng bất ngờ, thú vị: đàn trâu, đàn gia súc thong thả gặm cỏ. Thấy một khung cảnh vừa thực vừa ảo, vừa quen vừa lạ.

Tuy nhiên, bức tranh quê dù đẹp, yên bình đến đâu mà vắng bóng người thì cũng trống vắng. Sự xuất hiện của con người đã biến những bức tranh thiên nhiên thành những bức tranh sinh hoạt đời thường:

Trên cánh đồng lúa xanh

Lâu lâu cò bay ra.

Dọa một cô gái dễ thương,

Hãy chậm tay cuốc cào những cánh đồng sắp trổ bông.

Cảnh thực như mộng. Giữa cánh đồng lúa xanh mướt, hình ảnh cô gái trẻ tràn đầy sức sống mùa xuân đặc biệt bắt mắt. Hình ảnh kiều diễm ấy thể hiện chất trữ tình lãng mạn sâu thẳm trong tâm hồn nữ thi sĩ nổi tiếng của phong trào Thơ Mới này. Tiếng “con cò bay ra từ lúc nào” bất ngờ vang lên khiến cô gái giật mình và là một điểm nhấn nghệ thuật. Hình ảnh cô thôn nữ cúi mình làm lụng vất vả trong một chiều xuân êm ả thật cảm động.Vẻ đẹp của cô thôn nữ và vẻ đẹp của thiên nhiên bổ sung cho nhau khiến khung cảnh yên bình, những điều quen thuộc bỗng trở nên đẹp lạ lùng. Sử dụng thủ pháp tĩnh và động đã làm nổi bật vẻ đẹp tĩnh lặng của buổi chiều xuân thôn quê.

Ba bức tranh cùng một lúc diễn tả ba cảnh khác nhau. Nữ anh hùng thơ tìm thấy cảm hứng trong sự thân thuộc bình dị của môi trường xung quanh, bộc lộ sức mạnh của mình trong những miêu tả sắc thái nắm bắt được linh hồn của cảnh thiên nhiên. Mặt khác, nhà thơ còn góp phần làm thơ mới bằng cách sử dụng những từ mới độc đáo chưa từng xuất hiện trong thơ. Đó là những câu từ, câu văn của con thuyền lười biếng trong mưa bụi; tan tác mổ thóc không mục đích; trâu bò thong thả cúi mình ăn mưa… Những nét độc đáo, mới lạ ấy được thể hiện qua sự thanh thoát, mềm mại của những câu thơ làm nổi bật phong cách lãng mạn của tác giả. Bức tranh tổng thể về một buổi chiều xuân êm ả, thanh bình không chỉ phù hợp với tâm hồn của nữ sĩ mà còn gợi lên trong lòng mỗi người những cảm xúc quê hương da diết.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 10

Đọc hồi kí “Từ bến sông Thương ” độc giả mới biết chị Anh Thơ viết tập thơ đầu tay “Bức tranh quê ” phải giấu bố, viết vụng trộm, ông cụ biết được là phải đòn, vì cụ cho rằng con gái làm thơ chỉ tổ ế chồng, chỉ để viết thư cho giai. Rồi chị cũng viết được ba mươi bài gửi thi ở Tự lực văn đoàn và được giải năm 1939, chính thức bước vào làng thơ.

“Bức tranh quê”, đúng như tên gọi, là những bức tranh bằng thơ vẽ lại cảnh thôn quê thời đó, mỗi bài thường là mười hai câu, có kết cấu khá giống nhau, nhưng các chi tiết đều sắc sảo, không trùng lặp. Tập thơ mở đầu bằng các bài về cảnh mùa xuân rồi lần lượt mùa hạ, mùa thu, cuối cùng là mùa đông với các bài thơ Tết. Bài “Chiều xuân” này được in ở đầu tập thơ.

Chọn chiều mưa bụi, Anh Thơ có dịp nói được cái đặc sắc của thời tiết xứ Bắc. Nông thôn ta hồi đó thưa vắng (cả nước hai mươi triệu dân), nền kinh tế tiểu nông càng khép kín xóm làng, cuộc sống yên tĩnh, có phần ngưng đọng. Trong chiều mưa lạnh này, nơi bến sông rìa làng càng tiêu điều vắng vẻ.

Một khung cảnh không âm thanh, không sắc màu tươi sáng: mưa rơi rất êm, bến rất vắng, có được con đò thì cũng lười biếng bất động, một quán nước không người. Động đậy một chút chỉ là những cánh hoa xoan tím rụng tơi bời. Nhưng những cánh hoa ấy lại quá nhỏ và nhẹ, nó lăn với màn mưa rồi cùng chìm vào cái vắng và lặng của trời chiều.

Ba đoạn thơ là ba khung cảnh. Cảnh đầu tiên là bến vắng. Cảnh hai là đường đê. Vẫn làn mưa bụi ấy bay dăng nhưng đã có sự hoạt động: có đàn sáo khi bay khi đậu, có trâu bò gặm cỏ, và những “Cánh bướm rập rờn bay trước gió”. Đoạn thơ có nhiều nét tươi mát và thơ mộng, chứng tỏ người viết biết quan sát và lại có hồn thơ nên cảnh vừa thực lại vừa có cái kì ảo, như câu thơ: “Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa ” hay cái sắc “có non tràn biếc cỏ” và “đàn sáo mổ vu vơ”.

Những ý thơ ấy điểm xuyết cho những câu thơ tả thực, tạo nên cái lung linh sinh động của cảm giác, ảo giác. Có những cảnh bình thường, quen thuộc, hàng ngày ai cũng thấy, qua mắt nhìn Anh Thơ bỗng nhiên mới mẻ đầy kì thú. Nhìn, đã thành một phát hiện. Năng khiếu thơ chính ở chỗ này, nó phải thấy được những gì mà người thường không thấy. Chị tả ông thầy bói:

“Bước gậy lần như những bước chiêm bao”

Và một vệt khói buổi đầu ngày mùa hạ:

“Vươn mình lên như tỉnh giấc mơ say”.

Điều đáng quý ở Anh Thơ là chị tìm cảm hứng ngay từ những khung cảnh bình thường quanh chị. Chị không mĩ lệ hóa nhưng vẫn tìm được cái đẹp trong sự bình dị. Đoạn cuối bài thơ “Chiều xuân ” vẫn là cảnh thường thấy ở chốn quê: cảnh ngoài cánh đồng đang mùa cào cỏ. Bài thơ rất dễ bằng phẳng nếu ở đoạn cuối này không có nét gì đột biến. Nét đột biến ở đây là… một cô nàng yếm thắm, một cái giật mình:

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lạnh,

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa “.

So với cảnh đầu bài thơ, ở đây không gian đã hoạt động hơn, đã có con người làm lụng và cảm xúc, ruộng lúa sắp ra hoa thay vì hoa xoan rụng, cảnh sắc bớt vắng vẻ, bài thơ có được cái ấm áp của đời thường.

Các bài thơ trong “Bức tranh quê” có chất lượng khá gần nhau, ít cái hay đột xuất, nhưng bài nào cũng ý vị, cho ta thấy hình ảnh của quê hương ta cách đây nửa thế kỉ, thấy cả vẻ đẹp lẫn nỗi nghèo khó, thô thiển của đời sống dân quê.

Sau “Bức tranh quê “, Anh Thơ định viết “Bức tranh thành thị “, nhưng không thành công. Sống ở quê từ tấm bé, những cảnh sắc quê hương thấm vào chị từ tuổi thơ, nên chị mới diễn đạt cảnh quê bằng nhiều sắc thái chân thật và độc đáo đến thế. Không chỉ quan sát bằng nhìn ngắm mà phải sống với hồn của cảnh vật thì thơ mới tả được cái thần của cảnh.

Đọc “Bức tranh quê” không nên đòi hỏi chiều sâu của tư tưởng. Anh Thơ không quen đặt những vấn đề lớn trong thơ, chị thích viết những điều trông thấy quanh mình. Thơ chị hay ở tài quan sát và cố nhiên cũng ở tình cảm của chị đối với làng quê.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 11

Anh Thơ là nữ thi sĩ tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại. Bà có sở trường viết về cảnh sắc nông thôn, gợi được không khí và nhịp điệu sống ở miền Bắc. Ham văn chương, chịu khó đọc sách, Anh Thơ tìm đến văn chương như một cách tự giải thoát và khẳng định mình. Năm 1937 (mười sáu tuổi) bà đã có thơ đăng báo. Nguyễn Bính viết về nét “chân quê”, thì Anh Thơ lại thiên về “cảnh quê” thân thuộc pha chút tâm sự bâng khuâng, u buồn của cái tôi thơ mới. Bài thơ Chiều xuân là một bài thơ tả cảnh, giọng điệu thơ rất dịu dàng, ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng.

Bài thơ Chiều xuân được rút từ Bức tranh quê, tập thơ đầu tay của Anh Thơ gồm 41 bài viết về cảnh nông thôn bình dị, quen thuộc. Một số bài trong tập thơ làm xúc động lòng người đọc bởi những nét vẽ chân thực, tinh tế, thấm đượm tình quê đằm thắm và có chút tâm sự bâng khuâng, u buồn của “cái tôi” thơ mới.

Chiều xuân là một bài thơ được viết theo lối thơ 8 chữ. Cả bài thơ ba khổ, mười hai dòng, đủ sức họa nên bức tranh chiều xuân với những hình ảnh, chi tiết rất tiêu biểu cho cảnh chiều xuân nơi đồng quê Bắc Bộ nước ta. Một bức tranh buồn mà đẹp.

Khổ 1 là bức tranh quê vào mùa xuân tĩnh lặng, êm đềm, như mộng:

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,

Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời

Cảnh đầu tiên là bến vắng không âm thanh, không sắc màu tươi sáng. Mưa rơi rất êm, bến rất vắng có con đò cũng lười biếng bất động. Một quán nước không người, chỉ có những cánh hoa xoan rụng tơi bời vẻ nên không gian vắng lặng của chiều mưa. Bức tranh buổi chiều xuân có nhịp sống lặng lẽ.

Tất cả gợi nỗi buồn man mác của buổi chiều quê, nỗi buồn ấy từ lòng người nhuốm sang cảnh vật. Nói như nhà thơ Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, bút pháp tả cảnh ngụ tình được thể hiện ở đây thật đặc sắc.

Đó là cận cảnh, bức tranh ở gần, còn xa xa:

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,

Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa .

Nếu như khổ thứ nhất là một bức tranh chiều xuân buồn, bao trùm là cái màu trắng của mưa bụi. Mưa nhẹ, nhưng não nề, đủ cho con người buồn bã, đơn côi, thì đến đây, bức tranh cảnh vật dường như sinh động hơn. Bức tranh chiều quê có màu xanh của cỏ, có đàn sáo đen sà xuống “mổ vu vơ”, có mấy cánh bướm “rập rờn”, có đàn bò “thong thả cúi ăn mưa”. Đó là một bức tranh tả cảnh chiều xuân trên thân đê đồng nội.

Thế nhưng tất cả mọi hoạt động này cũng chỉ tăng thêm nét tĩnh cho không gian chiều xuân. Bức tranh vẫn vắng bóng con người. Anh Thơ đã sử dụng điêu luyện nghệ thuật lấy động để nói tĩnh. Đến khổ thơ thứ 3, cảnh trở nên nhẹ nhàng, êm đềm hơn và trở nên có sinh khí hơn:

Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Đây là một bức tranh tả cánh đồng lúa. Trong bức tranh này có đồng lúa xanh rờn và ướt lặng, chính là lúa chuẩn bị ra đòng. Trong màu xanh mênh mông của đồng lúa có hứa hẹn một mùa vàng, có hứa hẹn niềm hi vọng no ấm. Đột xuất trên cái nền “Xanh rờn” của lúa là hình ảnh những đàn cò trắng “chốc chốc vụt bay qua”. Cánh có đã góp phần phá vỡ cái tĩnh lặng của không gian chiều xuân, làm cho buổi chiều xuân có hơi ấm của sự sinh sôi nảy nở.

Và cuối cùng, hình ảnh con người cũng xuất hiện. Từ đầu bài thơ, chỉ thấy hình ảnh thiên nhiên, đến đây có sự xuất hiện của “cô nàng yếm thắm”. Người con gái lứa tuổi đôi mươi đang hăng say lao động trên cánh đồng lúa xanh bát ngát với những hành động nhanh nhẹn: cuốc, cào.

Màu đỏ của chiếc yếm thắm được đặt trong một khuôn tranh có màu xanh của lúa, màu trắng của cò trở nên đối chọi mà vẫn hết sức hòa hợp. Bức tranh chiều xuân trên cánh đồng lúa vì vậy mà trở nên tươi sáng hơn, giàu sức sống hơn, ấm áp hơn. Xua tan đi tất cả những giá lạnh, buồn bã, quạnh hiu của buổi chiều xuân ở những khổ thơ trên.

Chiều xuân là bức tranh quê đẹp trong tình quê đằm thắm, dịu dàng. Hình ảnh cuối cùng đọng lại trong tâm trí người đọc để lại ấn tượng khó phai. Với bài thơ này, Anh Thơ đã rất thành công trong việc khắc họa bức tranh làng quê Việt Nam. Phải nói rằng, để viết được những câu thơ như bức tranh vẽ như thế này, nhà thơ phải là người có tấm lòng yêu quê hương tha thiết.

Phân tích bài thơ Chiều xuân – Mẫu 12

Bài thơ “Chiều xuân” in trong tập “Bức tranh quê” của nữ sĩ Anh Thơ. “Chiều xuân” được viết theo thể thơ 8 tiếng, gồm có 12 câu thơ, chia đều thành ba khổ thơ.

Bức tranh lụa “Chiều xuân” gồm có ba cảnh; cảnh nào cũng bình dị, thân quen với mọi con người Việt Nam chúng ta. Sau gần bảy mươi năm, người đọc cảm thấy cô gái Kinh Bắc đang đứng bâng khuâng ngắm nhìn cảnh bến đò, dải đường đê và cảnh đồng lúa quê nhà một buổi chiều xuân mưa bụi.

Khổ thơ đầu tả cảnh bến đò. Trời đã ngả chiều, mưa xuân đổ bụi trắng đất trắng trời, nên bến đò trở nên vắng vẻ, không một bóng người khách lại qua: “Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”. Từ láy “êm êm” gợi tả một không gian êm đềm trong làn mưa xuân phơi phới bay”. Tạo vật như đang được ướp khí xuân và hương xuân; cỏ cây như đang mở mắt, lặng nghe “mưa đổ bị êm êm “, chào đón Chúa xuân đã về.

Con đò chiều mưa được nhân hoá, như một kẻ lười biếng nằm nghỉ, vô tâm và vô tình “mặc nước sông trôi”. Ta chợt nhớ đến con đò trong thơ Ức Trai hơn 600 năm về trước:

“Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”

(Bến đò xuân đầu trại)

Vì chiều mưa nên quán hàng cũng vắng vẻ. Quán tranh nghèo trên bến đò được nhân hoá như một lữ khách “đứng im lìm” trú mưa đầy tâm trạng. Nhà thơ không nói đến gió xuân mà ta vẫn cảm thấy có nhiều gió thổi. Chữ “tơi bời” gợi lên cảm nhận ấy:

“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng,

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”.

Hoa xoan tím là một nét đẹp của hồn quê xứ sở. Cuối tháng hai đầu tháng ba, xoan ở đầu ngõ, xoan dọc đường bung nở từng chụm, toả hương nồng nàn. Nguyễn Trãi có câu thơ: “Trong tiếng cuốc kêu, xuân đã muộn — Đầy sân mưa bụi, nở hoa xoan” (Cuối xuân tức sự). Trong bài “Mưa xuân” thi sĩ Nguyễn Bính đã viết:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”.

Cảnh bến đò với hình ảnh con đò biếng lười, quán tranh im lìm, chòm xoan “hoa tím rụng tơi bời” được Anh Thơ chấm phá một cách tinh tế; hình ảnh nào, họa tiết nào cũng có hồn, rất bình dị, thân thuộc, đáng yêu.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh vật ngoài đường đê. Chắc là những dải đê của sông Cầu, sông Thương, sông Đuống? Cỏ xanh là biểu tượng về sắc xuân. Nhiều nhà thơ đã viết rất hay, rất đẹp về cỏ xuân:

– “Phương thảo liên thiên bích” (cổ thi)

– “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Nguyễn Trãi)

– “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)

Cô gái Bắc Giang vẫn có một cách cảm nhận riêng, vừa mới vừa đẹp: “Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ”. Chữ “non”, chữ “biếc” gợi lên màu xanh ngọt ngào; chữ “tràn” gợi tả vẻ tốt tươi, mơn mởn, căng đầy sức sống, nhựa sống của những thảm cỏ xuân trên đường đê uốn lượn. Cảnh vật không còn “êm êm”, “im lìm”, “vắng lặng” nữa mà trở nên sống động, có hồn. Từ đàn sáo đen, mấy cánh bướm đến những trâu bò tất cả như đang mang theo bao tình xuân:

“Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”.

Nét vẽ nào cũng sinh động: “sà xuống mổ vu vơ” , “rập rờn trôi trước gió”, “thong thả cúi ăn mưa”. Cánh bướm sặc sỡ không bay mà “trôi”, con trâu hiền lành đang gặm cỏ non trên dải đê tưởng “cúi ăn mưa”. Chữ dùng của Anh Thơ khá tinh luyện, giàu hình tượng và biểu cảm.

Cảnh thứ hai của bức tranh “Chiều xuân” không còn là tĩnh vật nữa, mà hoạ tiết nào cũng cựa quậy, sống động đầy sức xuân. Các động từ dùng rất đắt: tràn, sà xuống, mổ vu vơ, rập rờn trôi, thong thả cúi ăn mưa. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều; nét nào cũng mang theo sức xuân và tình xuân đầy ý vị. “Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa” là một câu thơ gợi cảm có hình ảnh bình dị đáng yêu đã gợi lên bao nỗi niềm thương mến và tin cậy, làm nhớ lại một lời nguyền xa xưa:

“Bao giờ cây lúa còn bông,

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”

(Ca dao)

Cảnh thứ ba là đồng lúa, lúa “sắp ra hoa ” xanh rờn. Lá lúa như những ngón tay xòe ra đón mưa bụi nên “ướt lặng”. Lũ cò con như bầy trẻ nhỏ tinh quái, tinh nghịch “chốc chốc vụt bay ra”. Chiều đã xuống dần , “Con cò đi đón cơn mưa – Tối tăm mù mịt ai đưa cò về?” (Ca đao). Lũ cò con mong mẹ nên mới “chốc chốc vụt bay ra” hay có tình ý gì? Hình ảnh cô thôn nữ “yếm thắm” nổi bật trên nền xanh ruộng lúa đã làm sáng bừng vần thơ:

“Lũ cò còn chốc chốc vụt bay ra,

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”.

Cảnh thứ ba có nhiều rung động xôn xao. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh khá thành công, làm nổi bật cảnh “Chiều xuân” nơi làng quê, trong những ngày mưa bụi thật là vắng lặng, êm đềm. Những chiều mưa xuân nơi đồng quê, làng quê ngày xưa vốn thế. Anh Thơ đã giúp những thế hệ độc giả hôm nay và sau này cảm nhận được cảnh vật và không khí thôn dã một thời quá vãng.

Trong “Thi nhân Việt Nam” khi nói về Anh Thơ, nhà văn Hoài Thanh viết: “Sau câu thơ, ta mơ hồ thấy một cái gì: có lẽ là hồn thi nhân”. Đọc “Chiều xuân ” ta cảm thấy rõ “hồn thi nhân” của nữ sĩ đã trang trải khắp các vần thơ.

“Chiều xuân ” cho thấy ngòi bút nghệ thuật của Anh Thơ tinh tế, đậm đà. Cảnh vật được chấm phá, phối sắc hài hoà, ý vị. Có màu tím của hoa xoan, màu biếc của cỏ non, đôi cánh đen của bầy sáo, màu xanh rờn của đồng lúa. Và nổi bật nhất, xinh tươi nhất là chiếc yếm thắm của cô thôn nữ, cô đang cần mẫn cào cỏ trên ruộng lúa “sắp ra hoa”.

Anh Thơ sử dụng từ láy tượng hình một cách đắc địa, làm nổi bật cái êm đềm, vắng lặng, xôn xao của cảnh vật trong một chiểu xuân mưa bụi: êm êm, im lìm„vắng lặng, tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả.

“Chiều xuân” là một bức cổ họa xinh xắn. Không phải cảnh lầu son gác tía, mà là cảnh bình dị, thân thuộc nơi đồng quê, làng quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ ngày xưa, là hồn xuân xứ sở. “Chiều xuân” là một bài thơ hay và đậm đà.

**************************

Trên đây là 12 bài văn mẫu phân tích bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ lớp 11 hay nhất. Hy vọng sẽ là tư liệu quý giúp các em hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình. Ngoài ra, các em học sinh có thể tham khảo những bài văn mẫu hay, đặc sắc tại . Qua đó bổ sung vào quỹ tư liệu học tập của bản thân.

Giáo Dục

Bản quyền bài viết thuộc thcs-thptlongphu. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://thcs-thptlongphu.edu.vn
https://thcs-thptlongphu.edu.vn/phan-tich-bai-tho-chieu-xuan/

Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn

Chuyên mục: Tổng hợp