Phân tích đoạn trích Con chó Bấc của Giắc Lân-đơn (Tiếng gọi nơi hoang dã)

0
67
Rate this post

Phân tích đoạn trích Con chó Bấc của Giắc Lân-đơn, đoạn trích trong tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã, trích đoạn nhiều cảm xúc để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc, thể hiện tình cảm của chú chó Bấc với chủ của mình.

Đề bài: Phân tích đoạn trích Con chó Bấc (trong Tiếng gọi nơi hoang dã) của Giắc Lân-đơn.

1. Khái quát toàn bộ nội dung đoạn trích

2. Cuộc sống của chú chó Bấc kể từ khi đến Bắc cực

3. Phân tích tình cảm của tác giả Giắc Lâm-đơn dành cho nhân vật của mình là chú chó Bấc

4. Nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong đoạn trích

5. Phân tích chi tiết chú chó Bấc thức đêm rồi đứng ở mép lều canh cho chủ của mình

Dàn ý phân tích đoạn trích Con chó Bấc

+ Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả? Giắc Lân-đơn là một nhà văn người Mỹ sinh năm 1876 và mất năm 1916.

– Giắc Lâm-đơn bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng những Truyện ngắn nhỏ trên một tờ báo tờ báo sinh viên, cho đến mãi những năm đầu thế kỷ XX thì sự nghiệp của ông mới bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển đỉnh cao.

– Giới thiệu về tác phẩm? Tác phẩm “Tiếng gọi nơi hoang dã” là tiểu thuyết gây được nhiều tiếng vang của Giắc Lâm-đơn.

– Giới thiệu về đoạn trích? “Con chó Bấc” là một trích đoạn nhiều cảm xúc để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc, thể hiện tình cảm của chú chó Bấc với chủ của mình.

+ Thân bài:

– Khái quát toàn bộ nội dung đoạn trích: “Tiếng gọi nơi hoang dã” kể về cuộc sống của một chú chó có tên là Bấc chẳng may bị bắt cóc và đưa đến vùng Bắc cực lạnh lẽo để làm việc kéo xe trưởng tuyết cho những người đi đào vàng ở vùng này.

– Cuộc sống của chú chó Bấc khá lận đận, kể từ khi tới đây chú chó phải trải qua rất nhiều đời chủ khác nhau. Họ rất độc ác đối xử với chú chó tàn nhẫn thường xuyên đánh đập.

– Phân tích tình cảm của tác giả Giắc Lâm-đơn dành cho nhân vật của mình là chú chó Bấc: Trong đoạn trích ta thấy rõ nhà văn Giắc Lâm- đơn là một con người tinh tế, gần gũi với loài vật nên ông có thể miêu tả những hành động, đời sống tâm hồn của chú chó Bấc một cách rất tinh tế, nhiều cảm xúc thể hiện được tấm lòng yêu thương, nhân vân với của tác giả với những động vật nuôi.

– Nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong đoạn trích “Chú chó Bấc”? Thông qua sự miêu tả chi tiết, lối viết xúc tích, giản dị bằng văn kể chuyện ta thấy rằng chú chó Bấc đối với chủ của mình là Giôn Thooc- tơn hết sức tình nghĩa, trung thành, nhiều sự yêu mến và tôn kính.

– Phân tích chi tiết chú chó Bấc thức đêm rồi đứng ở mép lều canh cho chủ của mình thật xúc động người đọc. Hình ảnh này vừa thể hiện được sự trung thành, yêu quý chủ nhân của chú chó Bấc vừa thể hiện sự quan sát tài tình, tinh tế của tác giả.

+ Kết bài

– “Tiếng gọi nơi hoang dã” trong khi con người đang mải mê giành giật nhau quyền lợi, của cải, sự sống…mọi quan hệ đều có thể đánh đổi để lấy lợi ích cho bản thân.Thì tình cảm giữa chú chó Bấc và chủ nhân là Giôn Thooc- tơn thật đáng ngưỡng mộ.

– Qua tác phẩm tác giả Giắc Lâm-đơn muốn nhắn nhủ tới con người dù trong hoàn cảnh nào cũng đừng để lợi ích, của cải làm mờ mắt. làm ảnh hưởng đến cuộc sống tốt đẹp, tình nghĩa.

Để có thêm kiến thức phục vụ việc làm bài, các em hãy tham khảo Soạn bài Con chó Bấc do biên soạn.

Top 5 bài văn mẫu hay nhất phân tích đoạn trích Con chó Bấc

Bài văn mẫu số 1

Giắc Lân-đơn (1876 – 1916) là nhà văn Mĩ, tên thật là Giôn Gri-phit Lân-đơn, sinh ở bang San Phran-xi-xcô. Ông trải qua thời kì thơ ấu rất vất vả, từng phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Lân-đơn bắt đầu sự nghiệp sáng tác bằng những truyện ngắn đăng trên một tờ báo của sinh viên. Thời kì phát triển cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là vào đầu thế kỉ XX.

Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) là tiểu thuyết ra mắt bạn đọc sau khi ông đi theo những người tìm vàng đến miền Clân-đai-cơ trở về. Con chó Bấc là một đoạn trích trong cuốn tiểu thuyết đó.

Tác phẩm kể về Bấc, một con chó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác. Chỉ riêng Giôn Thoóc-tơn là người đã có lòng nhân từ dối với nó. Sau khi Thoóc-tơn chết, nó rời bỏ con người, đi theo tiếng gọi nơi hoang dã và trở thành một con chó hoang.

Trong đoạn trích, nhà văn Lân-đơn đã có những nhận xét tinh tế và trí tưởng tượng tuyệt vời khi đi sâu vào đời sống “tâm hồn” của con chó Bấc, đồng thời bộc lộ tình cảm yêu thương của mình đối với loài vật.

Bài văn được chia làm ba phần.

Phần một. Từ đầu đến… mói khơi dậy lên được: Quan hệ của Bấc đối với gia đình chủ cũ.

Phần hai. Tiếp đến… hầu như biết nói đấy! Tình cảm yêu mên của Thoóe-tơn đối với Bấc.

Phần ba. Đoạn còn lại: Tình cảm gắn bó của Bấc đối với Thoóc-tơn,

Qua cách miêu tả và kể chuyện, ta thấy nhà văn chủ yếu muốn thể hiện lòng biết ơn và tình cảm yêu thương của con chó Bấc đối với người chủ giàu lòng nhân ái.

Ở đoạn thứ nhất, tác giả kể về quan hệ của con chó Bấc đối với gia đình thẩm phán Mi-lơ là chủ để lấy đó làm cơ sở so sánh tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn:

Với những cậu con trai của ông Thẩm, trong những buổi đi săn hoặc đi lang thang đây đó, tình cảm ấy chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường; với những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm, là trách nhiệm ra oai hộ vệ. Còn đối với bản thân ông Thẩm, đó là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng.

Mức độ tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn lại hoàn toàn khác những tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt thì phải đến Giôn Thoóc-tơn mới khơi dậy lên được.

Với con chó Bấc thì Giôn Thoóc-tơn là một ông chủ lí tưởng: Các ông chủ trước chăm sóc nó chỉ là vì nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh (trông nhà hoặc kéo xe trượt tuyết để đi tìm vàng) chứ không thực sự yêu thương nó.

Trước hết, ta hãy xem tình cảm của Thoóc-tơn đôi với con chó Bấc.

Thoóc-tơn đối xử với bầy chó của anh như thể chúng là con cái của anh vậy. Riêng đối với Bấc, trong ý nghĩ và trong tình cảm, dường như anh không coi nó chỉ là một con chó, mà còn là một người bạn thân thiết:

Con người này đã cứu sống nó đó là một lẽ; nhưng hơn thế nữa, anh là một ông chủ lí tưởng. Những người khác chăm nom chó của họ xuất phát từ ý thức về nghĩa vụ và về lợi ích kinh doanh; còn anh chăm sóc chó của mình như thể chúng là con cái của anh vậy, bởi vì anh không thể nào không chăm sóc. Và anh còn chăm sóc nhiều hơn nữa kia. Anh không bao giờ quên chào hỏi thân mật hoặc nói lời vui vẻ và ngồi xuống chuyện trò lâu với chúng (mà anh gọi là (tầm phào), điều mà cả anh và chúng đều thích thú.

Anh có thói quen dùng hai bàn tay túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đẩy tới đẩy lui, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mà đối với Bấc lại là những lời nói nựng âu yếm. Bấc thấy không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy và những tiếng rửa rú ri bên tai ấy và theo mỗi cái lắc đẩy tới đẩy lui, nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi ca thể vì quá ngây ngất. Và khi được buông ra, nó bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động…

Tình cảm của Thoóc-tơn biểu hiện rõ rệt nhất khi anh kêu lên, trân trọng: Trời đất ! Đằng ấy hình như biết nói đấy ! Anh coi Bấc như một người bạn tri âm, tri kỉ.

Trong đoạn văn này, mục đích chủ yếu của Lân-đơn là tập trung miêu tả những biểu hiện tình cảm của con chó Bấc. Trước đó, nhà văn kể về tình cảm của Thoóc-tơn đối với bầy chó của anh nói chung và đối với con chó Bấc nói riêng, nhằm nhấn mạnh tình cảm đặc biệt mà con chó Bấc dành cho anh. Không phải đối với bất cứ ông chủ nào con chó Bấc cũng yêu quý như với Thoóc-tơn vì Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác, chỉ riêng Thoóc- tơn là có lòng nhân từ với nó.

Đọc những dòng miêu tả Bấc, chúng ta sẽ thấy tài quan sát và sự hiểu biết của nhà văn đối với loài chó:

Bấc có cái tài biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta. Nó thường hay há miệng ra cán lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu. Và cùng như Bấc hiểu các tiếng rủa là những lời nói nựng, con người cũng hiểu cái cắn vờ ấy là cử chỉ vuốt ve.

Lân-đơn có những nhận xét tinh tế, tỉ mỉ khi miêu tả từng con chó trong bầy chó kéo xe. Những biểu hiện tình cảm của chúng là đặc điểm chung của loài chó nhưng nhà văn chú trọng đến nét riêng của mỗi con để làm nổi bật nét khác biệt của Bấc so với những con chó khác trong bầy.

Bấc có tình cảm đặc biệt đối với Thoóc-tơn. Có lúc nó bày tỏ thái độ âu yếm qua những cái cắn vờ hoặc theo sát Thoóc-tơn không rời một bước : Tuy nhiên, tình thương yêu của Bấc phần lớn được diễn đạt bằng sự tôn thờ. Mặc dù nó sung sướng đến cuồng lên mỗi khi Thoóc-tơn chạm vào nó hoặc nói chuyện với nó, nhưng nó không săn dồn những biểu hiện ấy.

Khác với cô ả Xơ-kít có thói quen thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thooc-tơn rồi hích, hích mãi cho đến khi được vỗ về, cũng khác với Ních thường chồm lên tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối của Thoóc-tơn, Bấc chỉ tôn thờ ở xa xa một quãng. Nó thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hằng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt. Hoặc cũng có lúc nằm ra xa hơn, về một bên hoặc đằng sau anh, quan sát hình dáng của anh và từng cử động của thân thể anh. Và thường thường, như mối giao cảm giữa họ với nhau, sức mạnh ánh mắt của Bấc làm cho Giôn Thoóc-tơn quay đầu sang và nhìn lại nó, không nói năng gì, đôi mắt anh tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng, trong khi tình cảm của Bấc ngời ánh lên qua đôi mắt nó tỏa rạng ra ngoài.

Tình cảm của con chó Bấc được tác giả miêu tả cụ thể và tinh tế. Nhà văn không nhân cách hóa con chó Bấc theo kiểu của La Phông-ten trong thơ ngụ ngôn. Lúc muốn bày tỏ tình cảm với chủ, họng nó chỉ rung lên những âm thanh không thốt nên lời… Thoóc-tơn cảm thấy Bấc hầu như biết nói và anh thấu hiểu thế giới tâm hồn phong phú của nó:

Trước kia, nó chưa hề cảm thấy một tình thương yêu như vậy…, Bấc thấy không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy…, nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực…

Nhà văn kể rằng: Một thời gian dài sau khi được cứu sống, Bấc không muốn rời Thoóc-tơn một bước. Từ lúc anh ra khỏi lều cho đến lúc anh quay trở về, Bấc luôn bám theo gót chân anh. Việc thay thầy đổi chủ xoành xoạch từ khi nó đến vùng đất phương bắc đã làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không người chủ nào có thể gán bó lâu dài. Nó sợ Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây.

Ngay cả ban đêm, trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Những lúc ấy, nó vội vùng dậy không ngủ nữa, trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ…

Đoạn văn trên vừa phản ánh trí tưởng tượng tuyệt vời của nhà văn, vừa nói lên tình yêu thương loài vật của ông. Điều mà ông muốn nhắn gửi tới chúng ta là hãy hết lòng thương yêu loài vật, nhất là những loài vật có nghĩa, có tình.

Bài văn mẫu số 2

Đọc Tiếng gọi nơi hoang dã của Lân-đơn, ta như được đi theo đoàn người đi đào vàng lên vùng A-lax-ca, Bắc cực mênh mông tuyết trắng, với những cảnh, những con người với bao ấn tượng mạnh mẽ, dữ dội không cùng. Đặc biệt những trang viết về con chó Bấc, viết về mối quan hệ cảm động giữa Giôn Thoóc-tơn với con chó Bấc là hay nhất, cảm động nhất. Nhà văn không miêu tả ngoại hình, sinh hoạt bản năng của con chó Bấc mà đi sâu vào thế giới bên trong, thế giới tâm hồn của con vật, hình như mang nặng tình người hiếm có, cảm động. Đoạn văn Con chó Bấc là một đoạn văn ngọt ngào chất thơ khi nói về một tình thương giao cảm thắm thiết giữa người với vật nuôi.

Có lẽ vì đã trải qua những tháng ngày kéo xe trượt tuyết nặng nhọc, gặp phải những ông chủ độc ác, con chó Bấc mới hiểu sâu sắc thế nào là tình người. Miếng ăn của nó kiếm được là roi vọt, là sự bố thí của những con người tàn nhẫn và đang khát vàng. Cho nên từ ngày con chó Bấc được Giôn Thoóc-tơn cứu sống, nó mới được sống trong “một tình yêu thương thực sự vù nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó”. Nó cũng đã một lần ít ỏi được hưởng hương vị của tình thương khi chưa bị bắt cóc lên bắc cực, đó là những ngày sống trong nhà ông Thẩm phán Mi-lơ giữa thung lũng Xan-ta Cla-ra mơn man ánh nắng.

Con Bấc chẳng bao giờ quên những ngày tháng êm đẹp và ngắn ngủi ấy. Những lần đi săn, đi lang thang với mấy cậu con trai ông Thẩm “tình cảm của Bấc cũng chỉ là thứ tình cảm làm ăn cùng hội cùng phường”. Với các cháu nhỏ ông Thẩm “đó là một thứ trách nhiệm hộ vệ trong niềm kiêu hãnh tự cao tự đại”. Còn với ông Thẩm “là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng”.
Lân-đơn đã có một cách nói rất đặc sắc về mối quan hệ của Bấc với những thành viên trong gia đình Thẩm phán Mi-lơ. Bấc chỉ là một con chó săn, một con chó giữ nhà, và là một con chó cảnh. Thế thôi!

Còn từ ngày nó được sống với Giôn Thoóc-tơn, nó được ông chủ, ông bạn mới “khơi dậy” lên trong lòng Bấc những tình thương yêu, những tình cảm chưa hề được hưởng, chưa hề có: “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt… ”

Tinh cảm vui, buồn, thương yêu, giận dữ cũng tựa như dòng nước có độ tràn, có hẹp và mênh mông, có sức chảy nhanh, chậm. Mọi dòng nước đều có nguồn cũng như mọi tình cảm đều có nguồn. Cái nguồn tình cảm sâu xa mà Bấc tìm thấy ở Giôn Thoóc-tơn là anh đã “cứu sống nó”, anh là “ông chủ lý tưởng”. Những người khác nuôi Bấc là xuất phát từ nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh để Bấc đi săn, giữ nhà, là vật nuôi làm cảnh và để kéo xe trượt tuyết đi tìm vàng. Còn Giôn Thoóc-tơn đã coi Bấc là “con cái của anh” vậy. Cái nguồn gốc ấy mới sâu sắc và cao quý, vì nó đã vượt hẳn mối quan hệ con vật với con người, đi tới mối quan hệ của tình thương, tình người. Mối quan hệ tình cảm ấy, con Bấc đã cảm nhận được bằng trực giác, bằng cảm xúc, bằng sự tinh nhậy, khôn ngoan mà chỉ có những con chó như con Bấc mới có.

Giôn Thoóc-tơn “đã chăm sóc”, lúc là một lời chào “hớn hở’’, lúc là một cử chỉ “thân ái”, lúc là anh ngồi xuống rất lâu “nói chuyện” với Bấc mà cả hai đều tương thân, đều đồng cảm, đều “thích thú”. Giôn Thoóc-lơn “có thói quen túm chặt lấy đầu Bấc rồi đưa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đảo qua đảo lại, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mù đối với nó lại là những lời nói nựng âu yếm”. Với con Bấc, đó là những giây phút thần tiên mà chỉ có Giôn Thoóc-tơn mới trao cho nó trong sự vuốt ve, yêu thương. Lúc đó, con Bấc cảm thấy “không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ”, “tiếng rủa rủ rĩ bên tui”. Sự vui sướng của Bấc đến cực độ, có lúc nó cảm thấy “quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực”.

Tình yêu thương giữa người và vật nuôi cũng có “cho” có “nhận” trong mối giao cảm, giao hòa, tương tác. Đây là một đoạn văn tuyệt bút nói về mối quan hệ sâu sắc, đẹp đẽ và hiếm có ấy:
“Khi được buông ra, nó bật đứng dậy thẳng lên, miệng cười, mắt hùng hồn diễn cảm, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động. Những lúc ấy, Giôn Thoóc-tơn lại kêu lên, trân trọng: “Trời đất! Đằng ấy hầu như biết nói đấy!”.
Bấc như một đứa trẻ giàu tình cảm, nó “có một kiểu biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta”. Nó hay cắn vào tay Giôn Thoóc-lơn “ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc sau mới mất”. Và chỉ có anh mới cảm nhận một cách hạnh phúc rằng “cái cắn vờ ấy là cử chỉ âu yếm, yêu thương”.

Lân-đơn với tình yêu thương loài vật, với cái tài quan sát và diễn tả, đặc biệt ông đã phát hiện ra, đã “sống” với những rung động, với những biến thái tâm tình, ông đã tả, hiểu được” ngôn ngữ riêng của một vật nuôi đã được thuần dưỡng và gắn bó lâu đời với con người, một vật nuôi khôn nhất, trung thành nhất và giàu tình cảm nhất, để nói lên một cách xúc động về mối quan hệ “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến mức cuồng nhiệt” giữa Giôn Thoóc-tơn và con Bấc.

Nếu như phần đầu, nhà văn đã lấy mối quan hệ giữa con Bấc với gia đình Thẩm phán Mi-lơ để làm nổi bật mối tình yêu thương đặc biệt giữa con Bấc với Giôn Thoóc-tơn, thì ở phần giữa ông lại so sánh cách biểu hiện tình cảm của con Bấc và những con chó khác đối với chủ, mỗi con một vẻ. “Xơ-kit có thói quen thọc cúi mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mũi cho đến khi được vỗ về. Lúc thì tựa cái đầu to lớn của nó lên đầu gối của Thoóc- tơn”. Còn Bấc thì diễn đạt tình thương yêu bằng “sự tôn thờ”, sung sướng đến “cuồng lên ” khi được Thoóc-tơn “vuốt ve” hoặc “nói chuyện ” với nó. Thế giới loài vật được Lân-đơn nhìn nhận và miêu tả như thế giới con nguời tràn ngập tình yêu thương và biết sống trong sự giao cảm đầy hạnh phúc!

Con Bấc “thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hàng giờ, mắt hau háu, tỉnh táo, linh lợi, ngước nhìn thẳng vào mặt anh, chăm chú vào đấy, xem xét kỹ nét mặt, theo dõi với một mối quan tâm đặc biệt từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên thần sắc”. Có lúc con Bấc ngắm nhìn chủ từ phía sau, và bằng linh cảm, giao cảm giữa người và chó, anh quay đầu nhìn lại, đôi mắt Thoóc-tơn “tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng”, còn “tình cảm của Bấc cũng ngời ánh lên qua đôi mắt nó.

Cách ngồi, cái ngước nhìn, cái lắng nghe và theo dõi cặp mắt và ánh mắt của con chó Bấc hiện lên trên trang văn như một linh hồn người, trong biểu cảm có chiều sâu lí trí, trong tâm hồn có cả chiều cao của tư duy. Con chó Bấc không chỉ có tình yêu thương mà còn có cả những suy nghĩ sống bên “Ông chủ lí tưởng”.

Con chó Bấc cũng có nỗi lo. Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã qua, luôn luôn ám ảnh nó, “nó không muốn rời Thoóc-tơn ra một bước”. Nó luôn luôn sợ, Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời của nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây. Cả trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Đêm nào nó cũng tỉnh giấc giữa chừng, rồi trườn qua giá lạnh đến đứng ở mép lều “lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ”. Chi tiết ấy là một nét vẽ cảm động gợi lên trong lòng ta nhiều cảm thương xót xa. À ra thế đó, không chỉ riêng ở con người, mà cả những vật nuôi như con chó Bấc tinh khôn, tình cảm này cũng sợ ly biệt! Nhà văn Lân-đơn đã nói được điều đó và diễn đạt bằng những hình ảnh giàu giá trị nhân bản.

Tóm lại, Lân-đơn đã lấy tình thương đổ tả loài vật. Ông đã miêu tả sống động, hấp dẫn con chó mang tình người. Nó đã sống tình nghĩa thủy chung như con người. Chúng ta học lập ở Lân-đơn nghệ thuật tinh tế, biểu cảm trong miêu tả loài vật. Con chó Bấc nhân hậu, tình nghĩa đã làm cho thế giới tâm hồn chúng ta trở nên phong phú đối với những vật nuôi trong gia đình. Biết sống trong tình người, trong tình thương là cách sống đẹp nhất.

>> Xem thêmTrình bày suy nghĩ của em về tình cảm giữa Bấc và Thooc tơn

Bài văn mẫu số 3

Sự gắn bó đến mức yêu thương quyến luyến giữa con người với con vật và giữa con vật với con người là điều hết sức tự nhiên. Con người quý con vật vì chúng là những vật nuôi có ích, còn con vật thì hiền lành, nhớ bổn phận và biết đền ơn. Song quan hệ chỉ dừng ở đó, ở chỗ con vật nuôi dù quý chủ đến đâu cũng chỉ có tính chất bản năng. Tục ngữ có câu “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng” thể hiện một phần tính chất bản năng đó. Tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã với trích đoạn Con chó Bấc lần đầu tiên có một cái nhìn mới mẻ hơn, sâu sắc hơn, thấm thìa và cảm động hơn rất nhiều về mối quan hệ vốn giản đơn, quen thuộc ấy. Cái nhìn đậm chất nhân văn, sáng tạo trong cách thể hiện, mang đến cho con người một hạnh phúc nho nhỏ nhưng đáng quý biết bao.

Tình cảm của Thoóc-tơn với con chó Bấc là tình cảm yêu thương đậc biệt. Bấc là kẻ thấu hiểu và mang ơn. Trong ý nghĩ thầm kín và sâu xa, nó cảm thấy diễm phúc được gặp con người này, con người không chỉ cứu sống nó mà còn là một người cha. Chỉ là một người cha mới có khả năng chăm sóc “con cái” của mình như vậy, chăm sóc chu đáo, tận tình và không còn giới hạn của sự thương yêu. Vì sao lại như thế, Bấc chỉ còn biết tự trả lời “bởi vì anh không thể nào không chăm sóc. Và anh còn chăm sóc nhiều hơn nữa kia”. Ấy là chưa nói cái cách chăm sóc của Thoóc-tơn không giống bất kì ai và hơn bất kì ai, hơn những cậu con trai của ông Thẩm, hơn những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm đã đành, còn hơn cả cách đối xử “trịnh trọng và đường hoàng” của chính ông Thẩm nữa. Cái cách mà Thoóc-tơn chuyện trò, những lời mà anh rủ rỉ được gọi là “tầm phào” ấy làm cho cả hai (người nói và kẻ nghe) thích thú. Còn thích thú hơn nữa, ấy là cử chỉ thân ái của anh “túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó”.

Trong những phút cao hứng này, Bấc còn nghe những tiếng rủa từ miệng anh khe khẽ thốt lên mà nó cho là “những lời nói nựng âu yếm”. Hạnh phúc lớn lao mà con Bấc có được từ Thoóc-tơn là không có gì so sánh được, “không có gì vui sướng bằng”. Những lúc được “đẩy tới đẩy lui” như thế của Thoóc-tơn, nó tưởng như “quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể”. Còn lúc buông ra rồi, nó như một đứa trẻ “bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh”. Những âm thanh trong họng Bấc rung lên “không thốt nên lời” làm cho chính Thoóc-tơn không chỉ ngạc nhiên và mừng rỡ : “Trời đất ! Đằng ấy hầu như biết nói đấy !”. Đó là một đứa trẻ đang học nói, đang muốn nói bằng một thứ ngôn ngữ riêng mà con người vẫn có khả năng hiểu được. Điều kì lạ này không phải lúc nào cũng có thể xảy ra. Tất cả từ tấm lòng của Thoóc-tơn với con vật của mình. Tình yêu ấy, qua cảm nghĩ của Bấc được miêu tả bằng biện pháp song hành : lúc thì cử chỉ, khi thì lời nói, mở ra nhiều bình diện và nâng cấp, mỗi lúc một trìu mến, thương yêu lại tăng lên một bậc, tình nghĩa của Thoóc-tơn thật dồi dào không còn gì là giới hạn nữa.

Tình cảm của con Bấc đối với Thoóc-tơn là tình cảm tương ứng với những gì nó nhận được. Đó là thái độ thật sự mang ơn và ý thức đền ơn sâu sắc. Về thái độ chịu ơn, là con vật, Bấc suy nghĩ như một con người. Nó phân biệt được đúng sai và mức độ khác nhau của lòng tốt. Trước lúc gặp Thoóc-tơn, với những cậu con trai ông Thẩm nó chỉ biết đến mối quan hệ “chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường” với những cậu con trai ông Thẩm nó chỉ có trách nhiệm “ra oai hộ vệ”. Riêng với ông Thẩm, nó nhận được tình bạn “trịnh trọng và đường hoàng” có nghĩa là vẫn có gì như xa cách, vẫn không có gì nhiều hơn cái “ý thức về nghĩa vụ và vể lợi ích kinh doanh”. Chỉ tới khi gặp được Thoóc-tơn, nó mới lạ lùng và choáng ngợp trước một cái gì lớn lao chợt đến. Ấy là tình thương yêu.

Câu văn miêu tả tâm trạng của Bấc như một tiếng reo vui: “Tình yêu thương, một tình yêu thương thực sự và nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó”. Bấc ngẫm nghĩ để rồi xác nhận một cái gì được khơi lên trong cơ thể, trong tâm hồn từ trước vẫn ngủ yên của nó, một “tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt”. Giữa cuộc đời rộng lớn, Bấc đã gặp không ít người, nhưng chỉ với Thoóc-tơn, nó mới nhận ra mái nhà của nó, nó mới thực sự thương yêu. Thái độ của nó là trách nhiệm của kẻ đền ơn, lấy thương yêu đền đáp lại thương yêu (chứ không phải là công lao kéo xe trượt tuyết giúp chủ tìm vàng ở vùng Bắc cực). Và cái cách đền ơn – nghĩa là ngôn ngữ của lòng thương yêu của nó cũng đặc biệt, trước hết vẫn là của một con vật tình nghĩa với con người, biểu lộ tình thương yêu gần giống nhừ làm đau người ta. Bấc thường “há miệng ra cắn lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hàn vào da thịt một lúc lâu”. Bởi nó hiểu cử chi cắn vờ ấy là “cử chỉ vuốt ve”.

Tuy vậy, Bấc cũng là một con vật có bản lĩnh, nó biết tiết chế sự “vuốt ve”. Ở điểm này nó khác hẳn với cô ả Xơ-kít có thói quen “thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay” của chủ cho đến khi được vỗ vé, cũng khác với con Ních “thường chồm lên tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối Thoóc-tơn”. Không táo tợn mà lặng lẽ, thâm trầm “xem xét” và theo dõi “từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên nét mặt” Thoóc-tơn không phải để ngờ vực hay xét đoán vu vơ mà bằng niềm sung sướng thầm thì với đôi mắt “háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lên” thật là mãn nguyện. Chỉ cần thế thôi, thậm chí còn “xa hơn”, nó hiểu rằng cái gì sẽ đến. Giác quan đặc biệt từ sợi dây thần kinh mơ hồ mách bảo và nó đón nhận. Chỉ cần sức mạnh của ánh mắt Bấc không lời như thế, Thoóc-tơn sẽ quay đầu sang nhìn lại nó và đôi mắt anh “toả rạng tình cảm tự đáy lòng”, còn nó, đôi mắt nó cũng “ngời lên” như thế. Chỉ có điều, hạnh phúc đến với nó vì quá to lớn nên rất đỗi mong manh. Nó sợ đến một lúc nào đó, một ngày nào đó, giấc mơ đẹp đẽ kia chỉ còn là ảo ảnh, sẽ biến mất, sẽ tuột khỏi tầm tay.

Thực tế thường phũ phàng, cay đắng. Một con vật như nó nào có giá trị gì, việc thay đổi chủ nuôi như người thay áo, diễn ra luôn “xoành xoạch” như nó đã biết từ khi nó có mặt ở phương Bắc lạnh giá tới nay. Một ám ảnh, một cơn ác mộng vụt đến nếu như số phận của nó như những cuộc gặp gỡ vô duyên trước đó với Pê-rôn, Phư-răng-xoa, hay anh chàng người lai Ê-cốt. Vì thế, bằng cách của nó, theo cách nghĩ của nó, Bấc phải tìm cách đẽ phòng, phải gìn giữ. Cả ban ngày, lẫn ban đêm. Đêm đêm, trong nỗi lo sợ mơ hồ, Bấc thường đang ngủ vùng dậy “trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ”. Chỉ có tiếng thở bình yên của chủ mới có thể làm cho thần kinh hoảng loạn của Bấc trở về với trạng thái thăng bằng.

Bài văn là trích đoạn của một tiểu thuyết, nó chỉ là một mảnh nhỏ của đời sống hiện thực, một tâm trạng ở vào khoảnh khắc trong mối giao lưu giữa con vật với con người. Tính độc lập và trọn vẹn của đoạn văn chỉ là tương đối. Tuy vậy, ta vẫn nhận ra một tài năng trên nhiều phương diện. Đặc điểm bao trùm về mặt thể loại sáng tác là miêu tả kết hợp với chứng minh. Chứng minh ấy tạo nên cái mạch kết cấu toàn đoạn bắt đầu từ một nhận định mở đầu về tình yêu thương ở một con vật như con Bấc. Cái cách mà con Bấc chịu ơn và tìm cách đền ơn dường như rất dễ chia đoạn cũng bởi phương pháp chứng minh như vừa nói. Nhưng đi sâu vào các chi tiết về ý nghĩ và tâm trạng của con Bấc, ta lại gặp một thiên tài.

Ngòi bút miêu tả tâm trạng của con vật thật tinh tế mang nhiều màu sắc trữ tình tạo được ấn tượng sâu xa của lòng cảm mến. Biện pháp tu từ ở trích đoạn trên đây chủ yếu là biện pháp so sánh. So sánh tình cảm ớ những cung bậc khác nhau (ví dụ, giữa Bấc với gia đình Thẩm phán và giữa nó với người chủ mới Thoóc-tơn, so sánh giữa con vật này với con vật khác (so sánh với Xơ-kít, Ních), nhất là so sánh giữa con vật với con người khi Bấc vùng dậy trên hai chân với đôi mắt long lên đầy phấn khích. Trông nó không khác một con người chỉ có điều âm thanh mà nó phát ra chưa thật rõ ràng, rành mạch. Câu văn trong trích đoạn hầu hết là câu văn dài, nhiều vế, tạo nên sự trùng điệp cho cảm nghĩ đa tầng. Dụng ý ấy không ngoài mục tiêu khắc hoạ tính cách một con vât rất gần người – con Bấc. Chẳng hạn “con người này đã cứu sống nó, đó là một lẽ, nhưng hơn thế nữa…”. “Những người khác chăm nom chó của họ… còn anh…”. “Bấc thấy không có gì vui sướng bằng…”.

Những câu văn vừa gợi mở vừa trang trọng ấy gần với thơ ca, những vần thơ ca ngợi vẻ đẹp rất đáng ngợi ca. Tinh cảm cao quý giá giữa con người với con vật và một hồi âm ít nhất là như thế giữa con vật với con người.

Bài văn mẫu số 4

Tình yêu thương là một trong những tình cảm tốt đẹp cần được nâng niu và gìn giữ.Những tình cảm đẹp đẽ ấy không chỉ được trao tặng giữa con người với con người mà còn trao nhau ở con người với mỗi loài vật. Con chó Bấc trong Tiếng gọi nơi hoang dã của Giắc Lân-đơn đã thể hiện nên những giá trị nhân văn cao đẹp đó. Đoạn trích như một bài ca ngọt ngào soi rọi tâm hồn mỗi người đọc về tình thương.

Bấc là một chú chó bị người ta bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực làm việc cho những người đi đào vàng. Bấc đã trải qua thời gian sống với những ông chủ độc ác và tàn nhẫn. Họ chỉ chăm sóc Bấc với mục đích vụ lợi. Đến với Thooc-tơn, anh đối xử với Bấc như một người thân, như thể là một người bạn hết mực thân thiết. Chính Thooc-tơn đã cứu sống Bấc và trở thành một ông chủ lí tưởng của nó. Anh đã dùng những cử chỉ thân mật, những lời nói thân thiết, vui vẻ, trò chuyện bên Bấc. Chính những tình cảm chân thành và giản dị đã làm lay động tâm hồn của Bấc. Anh dành cho bấc những tình cảm mãnh liệt, Thooc- tơn luôn khiến Bấc cảm thấy mình được vui vẻ, được quan tâm, chăm sóc. Điều đó khiến Bấc vui và xem anh như một người tri âm, tri kỉ.

Có lẽ cũng bởi vậy mà Bấc dành cho Thooc-tơn những tình cảm thiết tha mà chưa dành cho bất kì ai khác. Nó hiểu hết những cử chỉ yêu thương mà anh dành cho nó, Bấc chưa bao giờ cảm thấy một “tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt” như thế. Bấc dùng những cử chỉ âu yếm, tấm lòng biết ơn và sự tin tưởng tuyệt đối dành cho Thooc-tơn.Nó thường hay há miệng ra cắn lấy bàn tay Thooc-tơn rồi ép răng vào da thịt làm cho chúng hằn sâu vào da thịt anh.Bấc cũng thường nằm gục ở chân Thooc- tơn hằng giờ,mắt háo hức tỉnh táo, ngước mắt lên nhìn anh. Nó sợ Thooc-tơn cũng sẽ biến khỏi cuộc đời vì thế nó không bao giờ rời ông một bước dù chỉ là trong giấc mơ. Nó sợ việc thay đổi chủ xoành xoạch từ khi nó đến vùng đất phương Bắc đã làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không có người chủ nào gắn bó lâu dài với nó.Tâm trạng lo lắng cho người chủ yêu thương, nét tâm trạng rất người dành cho người chủ của mình.

Hình ảnh Bấc hiện lên thật cao đẹp, làm thức dậy trong ta tình yêu thương con người. Qua hình ảnh về chú chó trong bài, ta càng thêm trân trọng giá trị của tình thương, quý trọng và biết ơn những tình cảm tốt đẹp của con người. Bảo vệ và giúp đỡ yêu thương những loài vật, đặc biệt là những loài vật sống có tình nghĩa. Phải chăng, tác giả có một tấm lòng rất đỗi cao thượng dành cho những loài vật mới viết nên những trang tiểu thuyết thấm đẫm cảm xúc như thế.

Bài văn mẫu số 5

Viết về loài vật bằng cả trái tim yêu thương G. Lân- đơn đã thể hiện cảm động tình cảm giữa chú chó Bấc với người chủ Giôn Thooc- tơn của mình. Dù chỉ là một loài vật nuôi nhưng ở Bấc luôn có sự trung thành cùng những tình cảm thương yêu, kính trọng với ông chủ của mình. Qua việc miêu tả con chó Bấc, Lân- đơn đã thể hiện được những tình cảm đáng quý ở những loài vật nuôi, trong cái nhìn của Lân- đơn thì chúng không phải là những con vật vô tri, vô giác mà ngược lại chúng có cảm xúc, tình cảm như ở con người vậy, phải có sự thương yêu đối với con vật Lân- đơn mới có thể miêu tả con chó Bấc trong những trang văn của mình thành công và chân thực đến vậy.

Trích đoạn “Con chó bấc” là một đoạn trích trong tác phẩm “Tiếng gọi hoang dã” của nhà văn Lân- đơn. Qua tác phẩm này, nhà văn đã tái hiện một cách sinh động không khí của vùng Bắc cực lạnh giá với những cánh đồng tuyết mênh mông, hiện lên trên đó là những con người với quyết tâm tìm kiếm kho báu của Bắc cực, đó là những mỏ vàng. Nhưng điều đặc biệt nhất trong tác phẩm này không phải là hành trình tìm kiếm vàng, cũng không chỉ đơn thuần miêu tả không gian của vùng Bắc cực mênh mông, rộng lớn mà đó chính là những trang văn viết về con chó Bấc, cũng như mối quan hệ gắn bó giữa Bấc với người chủ của mình. Ở trong tác phẩm này, Bấc không chỉ miêu tả nó như một loài động vật thông thường mà đi sâu vào khám phá, khai thác thế giới nội tâm của nó, nhìn nhận nó ở những khía cạnh rất nhân văn, rất con người.

Những trang văn viết về chú chó Bấc cũng là những trang văn ngọt ngào, cảm động đầy chất trữ tình mà Lân – đơn đã kì công miêu tả, khắc họa. Con chó Bấc là một con chó bị bắt cóc lên vùng núi Bắc cực để làm kéo xe, làm những công việc nặng nhọc nhằm phục vụ cho mục đích tham lam của những người chủ. Bấc đã trải qua rất nhiều đời chủ, nhưng những người chủ đó cũng chỉ coi nó là một công cụ để tìm kiếm vàng, là một con vật không hơn, không kém. Hàng ngày Bấc phải kéo những xe tuyết nặng nhọc, phải đương đầu với cái lạnh buốt của thời tiết ở Bắc cực, vốn những công việc nặng nhọc này đâu có phải dành cho một chú chó như nó. Nhưng vì lòng tham thì những người chủ vẫn nhẫn tâm ép buộc nó làm những công việc vốn không phải dành cho mình này.

Vì là một chú chó có tình cảm, cảm xúc nên Bấc có thể nhận thức được mọi việc cũng như nhận biết được sự đối xử của những ông chủ này với mình là bất công, là tàn nhẫn. Bởi tuy là người giúp họ vận chuyển, là người bạn đồng hành nhưng họ đâu coi nó là vật nuôi, không dành cho nó một chút tình cảm nào mà ngược lại coi nó là một công cụ biết đi không hơn, không kém. Hàng ngày nó phải làm việc cực nhọc để có được miếng ăn, miếng ăn của nó cũng đánh đổi bằng những hàng hóa nặng nhọc, bằng những trận đòn roi của người chủ, việc nuôi nó cũng chỉ là trách nhiệm cũng chỉ là sự bố thí của những người chủ đang lợi dụng nó để thực hiện lòng tham của mình. Vì bị đối xử bất công, tàn nhẫn nên có cũng thấm thía được thế nào là tình người, cũng có lẽ vì vậy mà khi gặp Giôn Thooc- tơn, một người chủ thực sự , được sống những ngày tháng tươi đẹp nhất.

Chó Bấc được Giôn- thooc tơn cứu sống và đối xử vô cùng ân cần, dịu dàng với nó, khác hẳn với những người chủ trước đây, từ khi gặp và sống bên Thooc- tơn, Bấc cảm thấy hạnh phúc, cảm nhận được cuộc sống ý nghĩa hơn “Một tình yêu thương thực sự và nồng nàn, lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó”. Nếu như trong gia đình của Thẩm phán mi- lơ, Bấc chỉ là một con chó săn, một con vật giữa nhà và là một vật để làm cảnh. Nhưng với ông chủ Giôn Thooc- tơn thì không như vậy. Vì ông chủ mới này không chỉ là một người chủ tốt bụng mà còn là một người bạn tri kỉ của nó, người đầu tiên cũng là duy nhất có thể khơi dậy, nhen nhóm lên trong lòng của Bấc những tình cảm yêu thương, kính trọng mà trước nay chưa từng có, đó là thứ tình cảm “…sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến mức cuồng nhiệt… “

Nếu với những người chủ khác, quan hệ của Bấc với họ là công cụ để họ thực hiện lòng tham của mình, tức cũng là xuất phát từ mục đích thực dụng, dùng Bấc để làm chó săn, kéo xe trượt tuyết để tìm kiếm vàng thì với Thooc- tơn, ông coi Bấc như con, như cái. Không chỉ là người cứu Bấc mà còn là “ông chủ lí tưởng” nhất trong lòng Bấc. Như vậy sự biến chuyển tình cảm trong lòng Bấc có sự thay đổi rõ rệt, nó đã gặp được người chủ thật sự của mình. Giây phút Bấc cảm thấy hạnh phúc nhất, thích thú, cảm động nhất chính là lúc được ông chủ vuốt ve.

Giôn Thooc- tơn có thói quen “…túm chặt lấy đầu của Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu của nó, hoặc lắc nó đẩy tới đẩy lui, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mà đối với Bấc là những lời nói nựng âu yếm”. Khi ấy, chú chó Bấc cảm thấy không gì hạnh phúc hơn “không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ”, sự vui mừng, hạnh phúc của Bấc cũng như tình cảm gắn bó của Bấc với ông chủ khiến cho người đọc cảm thấy đồng cảm, mừng thay cho Bấc, vì cuối cùng sau bao nhiêu gian khổ, thăng trầm thì Bấc đã tìm được một người chủ thực sự tốt bụng, một người xứng đáng để chú trung thành, yêu thương.

Như vậy, trong đoạn trích Con chó Bấc, nhà văn Lân- đơn đã thể hiện một cách cảm động tình cảm của chú chó Bấc đối với người chủ tốt bụng của mình Giôn Thooc- tơn. Đó cũng là tình cảm thật đẹp giữa con người và những loài vật nuôi. Qua tác phẩm nhà văn Lân- đơn như muốn truyền tải những thông điệp nhân văn, đó là những loài động vật cũng có những tình cảm, cảm xúc, và những xúc cảm ấy cũng rất đáng được tôn trọng, và nhân vật ông chủ Giôn Thooc- tơn cũng là nhân vật tư tưởng để nhà văn kí thác những quan điểm đó, ông biết yêu thương, quý trọng với những con vật, những người bạn đồng hành của mình.

*********

Hy vọng rằng dàn ý chi tiết cùng bài văn mẫu phân tích đoạn trích Con chó Bấc của Giắc Lân-đơn trên đây sẽ giúp các em hoàn thành bài làm của mình một cách hoàn thiện và thuận lợi nhất. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 9 khác được cập nhật thường xuyên tại . Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao nhé!

 

Tuyển tập và chọn lọc những bài văn mẫu 9 hay nhất phân tích đoạn trích Con chó Bấc của Giắc Lân-đơn, qua đó thể hiện tình cảm yêu thương của tác giả đối với loài vật.

Giáo dục

Bản quyền bài viết thuộc thcs-thptlongphu. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://thcs-thptlongphu.edu.vn
https://thcs-thptlongphu.edu.vn/phan-tich-doan-trich-con-cho-bac-cua-giac-lan-don-tieng-goi-noi-hoang-da/

Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn

Chuyên mục: Tổng hợp