Đề bài: Phân tích khổ 4 bài Việt Bắc
Phân tích khổ 4 bài Việt Bắc
I. Dàn ý Phân tích khổ 4 bài Việt Bắc (Chuẩn)
1. Mở bài
– Giới thiệu về bài thơ Việt Bắc
– Khái quát nội dung khổ thơ thứ 4
2. Thân bài
– Mượn lối đối đáp trong ca dao cùng lối xưng hô “mình-ta” làm cho lời thơ trở nên tha thiết, ngọt ngào.
– “Ta với mình, mình với ta” câu thơ thể hiện sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của người đi- người ở lại.
– Tình cảm thủy chung, trước sau như một “sau trước mặn mà đinh ninh”
– Cách so sánh độc đáo “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”:
+ “Nguồn” là nơi bắt đầu của dòng nước, lúc nào cũng dồi dào, không bao giờ vơi cạn
+ Tình cảm của người cách mạng luôn sục sôi, đong đầy, không vì hoàn cảnh thay đổi mà trở nên đổi thay.
– “như nhớ người yêu” cụ thể hóa nỗi nhớ: tha thiết, trào dâng, luôn thường trực.
– Hình ảnh “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” mở ra bức tranh đẹp của núi rừng và nỗi nhớ thường trực ngày đêm trong trái tim người cách mạng.
– Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và thời gian:
+ Nhớ về tất cả những gì thân thuộc nhất: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê
+ Nhớ về những ngày tháng đồng cam cộng khổ chia sẻ những “đắng cay ngọt bùi”
3. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Việt Bắc
II. Bài văn mẫu Phân tích khổ 4 bài Việt Bắc (Chuẩn)
Việt Bắc là bản anh hùng ca mạnh mẽ, hào hùng cũng là khúc tình ca ngọt ngào, tha thiết về tình nghĩa quân dân trong kháng chiến. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ 4, nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện đầy xúc động tình cảm gắn bó, nghĩa tình thủy chung, son sắc giữa giữa người ra đi và người ở lại ; những người chiến sĩ cách mạng với con người, vùng đất chiến khu.
Mượn lối đối đáp trong ca dao cùng lối xưng hô “mình-ta”, nhà thơ Tố Hữu không chỉ mở ra trước mắt người đọc không khí lưu luyến, bịn rịn của buổi chia ly mà còn mang đến âm hưởng ngọt ngào, tha thiết tựa như một lời tâm tình:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”
“Ta với mình, mình với ta” tuy hai nhưng là một, câu thơ thể hiện sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của người đi- người ở lại. Câu thơ cũng là lời hồi đáp chắc chắn nhất về tình cảm của người ta đi “sau trước mặn mà đinh ninh”. Những tình cảm gắn bó đã có với con người và vùng đất chiến khu sẽ mãi vẹn nguyên, sống động trong trái tim, tâm hồn của những người chiến sĩ cách mạng, trước đây như thế nào thì sau này cũng sẽ như vậy. Cách so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã bộc lộ trọn vẹn tấm lòng, tình cảm của người ra đi. “Nguồn” là nơi bắt đầu của dòng nước, bởi vậy mà lúc nào cũng dồi dào, mạnh mẽ, không bao giờ vơi cạn, nó cũng giống như tình cảm của người cách mạng, luôn sục sôi, đong đầy, không vì hoàn cảnh thay đổi mà trở nên đổi thay. Cách so sánh tự nhiên, mộc mạc nhưng lại thành công khơi dậy những tình cảm ấm áp, chân thành của người ở lại.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Trong những câu thơ tiếp theo, nhà thơ Tố Hữu tiếp tục giãi bày nỗi nhớ, tình thương thông qua những câu thơ ngọt ngào, giàu hình ảnh. Nỗi nhớ vốn vô hình, khó diễn tả bằng lời lại được nhà thơ cụ thể hóa qua một cảm xúc cụ thể “như nhớ người yêu”. Cách so sánh độc đáo, dễ gợi những liên tưởng đã thể hiện được tình cảm tha thiết, trào dâng trong lòng mỗi người chiến sĩ khi chia tay con người, vùng đất chiến khu để trở về xuôi. Hình ảnh “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” không chỉ mở ra bức tranh đẹp của núi rừng Việt Bắc mà còn khéo léo diễn tả nỗi nhớ luôn sục sôi, thường trực ngày đêm, bao trùm cả không gian và thời gian.
Rời xa Việt Bắc, nhưng những hình ảnh thân quen của cuộc sống, con người vẫn đong đầy nơi trái tim của những người chiến sĩ trẻ. Đó là những làn khói bảng lảng, là không gian mờ sương của núi rừng, là hơi ấm bếp lửa, là hình ảnh người thương “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. Nỗi nhớ còn được cụ thể qua những hình ảnh, địa danh quen thuộc: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…Tính từ “vơi đầy” trong câu thơ “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy” được sử dụng rất khéo, nó không chỉ gợi ra cái cáu đong đầy của nước nơi sông suối mà còn là cái đong đầy của tình cảm trong tâm hồn của người ra đi.
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”
Trở về miền xuôi, những người chiến sĩ không nhớ về hình ảnh quen thuộc của núi rừng, người thương Việt Bắc mà còn mang theo cả những kỉ niệm gắn bó trong những ngày tháng gian khổ nhất. “Đắng cay ngọt bùi” là những gian khổ, vất vả mà những người chiến sĩ đã cùng con người Việt Bắc trải qua. Tình cảm được khẳng định trong hoàn cảnh gian khó càng trở nên ý nghĩa hơn cả vì trong hoạn nạn mới thấy chân tình.
Sử dụng thể thơ lục bát đậm chất dân tộc kết hợp với lối đối đáp quen thuộc trong ca dao, nhà thơ Tố Hữu đã mang đến bức tranh đầy màu sắc về những ân tình thủy chung của người ra đi và người ở lại. Đó là những nghĩa tình được tạo dựng bởi sự chân thành, gắn bó trong những ngày tháng gian khổ nhất của cả dân tộc, bởi vậy dẫu có chia xa về địa lí, khoảng cách thì tình cảm của người ra đi vẫn luôn cháy bỏng, trước sau như một.
—————HẾT——————
Trên đây chúng tôi đã hướng dẫn các em xây dựng dàn ý và hoàn thiện bài văn Phân tích khổ 4 bài thơ Việt Bắc. Bên cạnh đó, để củng cố thêm những hiểu biết về tác phẩm, các em không nên bỏ qua những bài văn mẫu đặc sắc khác như: Bình giảng 8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, Phân tích tình cảm của người ra đi trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, Cảm nghĩ về bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, Cảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Việt Bắc.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp