Đề bài: Phân tích khổ ba bài thơ Viếng lăng Bác
Bài văn mẫu Phân tích khổ ba bài thơ Viếng lăng Bác
Bạn đang xem: Phân tích khổ ba bài thơ Viếng lăng Bác
I. Dàn ý Phân tích khổ ba bài thơ Viếng lăng Bác
1. Mở bài
Giới thiệu về khổ 3 bài thơ Viếng lăng Bác.
2. Thân bài
– Sự xúc động trào dâng khi gặp Bác:
+ Bác đang chìm trong giấc ngủ yên bình.
+ “Vầng trăng sáng dịu hiền” : hình ảnh thiên nhiên thơ mộng là ẩn dụ cho tình yêu thương, trân trọng của nhà thơ cũng như con người Việt Nam dành cho Bác.
–> Câu thơ đã miêu tả vừa khái quát nhưng cũng không kém phần tinh tế không gian trang nghiêm trong lăng Bác.
–> Bác dù đã ra đi nhưng trong mắt những người con Việt Nam, Bác chỉ đang ngủ một giấc yên bình, không còn những lo toan, trăn trở.
– Nỗi xót xa, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác:
+ Nghệ thuật tương phản “vẫn biết”- “mà sao” diễn tả sự mâu thuẫn, đối lập giữa lí trí và con tim.
+ Bác luôn sống mãi trong con tim mỗi người nhưng lại nhưng sự ra đi của Bác vẫn mang đến những nghẹn ngào, đau xót khôn xiết.
3. Kết bài
Cảm nhận chung
II. Bài văn mẫu Phân tích khổ ba bài thơ Viếng lăng Bác
Viếng lăng Bác là bài thơ kết tinh trọn vẹn cảm xúc của Viễn Phương khi ở miền Nam lần đầu được ra Hà Nội và vào lăng viếng Bác. Nếu hai khổ thơ đầu miêu tả dòng cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác và khi hòa vào cùng dòng người vào lăng thì khổ thơ thứ ba lại thể hiện nỗi niềm xúc động thiêng liêng của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác:
” Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Hai câu thơ đầu tiên miêu tả cảm xúc của Viễn Phương khi nhìn thấy di hài của Bác:
” Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”
Nhà thơ cùng dòng người tiến vào lăng, chiêm ngưỡng Bác từ xa và liên tưởng Bác như đang đi vào giấc ngủ yên bình không mộng mị, ánh sáng dịu nhẹ của ngọn đèn lúc đó bỗng trở thành vầng trăng lan tỏa ánh sáng dìu dịu, sáng trong. Câu thơ đã miêu tả vừa khái quát nhưng cũng không kém phần tinh tế không gian trang nghiêm trong lăng Bác. Bác đã ra đi nhưng trong mắt tác giả, đó chỉ là một giấc ngủ dài thanh thản, không còn lo toan việc nước việc dân, không còn lắng lo trăn trở. Bầu không khí ấy bất kì người Việt Nam nào khi vào lăng viếng Bác cũng có thể cảm nhận được, Viễn Phương đã nói lên nỗi lòng và cảm xúc của triệu triệu con tim khi đứng trước di hài của Bác.
Nhìn thấy hình ảnh của Bác, Viễn Phương thốt lên nghẹn ngào:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Nghệ thuật tương phản giữa “vẫn biết” và “mà sao” diễn tả sự mâu thuẫn, đối lập giữa lí trí và trái tim. Lí trí thì khẳng định chân lí muôn thuở Bác vẫn sống mãi trong tâm trí của người dân Việt Nam, vĩnh hằng bất tử, nhưng trái tim thì vẫn xót xa, nghẹn ngào chấp nhận hiện thực rằng Bác đã ra đi mãi mãi. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe” thấy điều chỉ có thể cảm nhận – “nhói ở trong tim” giúp khắc sâu, nhấn mạnh nỗi đau như đang quặn thắt, xót xa và đau đớn vô cùng. Người đọc chợt nhớ đến những vần thơ nghẹn ngào của Tố Hữu khi khóc Bác:
“Bác đã đi rồi sao Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời.”
Hai bài thơ tuy viết ở hai thời điểm khác nhau nhưng đều chung nỗi xót xa đau đớn, chạm đến tâm hồn của bạn đọc.
Khổ thơ bày tỏ cảm xúc của Viễn Phương khi vào lăng viếng Bác một lần nữa nói hộ tấm lòng tiếc thương của biết bao người. Những vần thơ như nghẹn lại, rưng rưng mà cảm động nhưng vẫn không kém phần trang trọng, chỉnh chu. Bác vẫn sống trong lòng mỗi chúng ta, bởi “trời xanh là mãi mãi”.
———————–HẾT———————
Bên cạnh truyện, thơ, tiểu thuyết,…, kịch cũng là một trong số những thể loại quan trọng và được lựa chọn trong chương trình học Ngữ văn các cấp, nổi bật trong chương trình Ngữ văn 9 là kịch, các em có thể tham khảo thêm: Cảm nhận về kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp