Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa

0
55
Rate this post

Tài liệu hướng dẫn phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu do biên soạn gồm những gợi ý chi tiết giúp em làm tốt các bước phân tích đề, lập dàn ý và sơ đồ tư duy kèm theo những bài văn mẫu hay để tham khảo, mở rộng vốn từ ngữ.

Cùng tham khảo ngay…

Huong dan phan tich nhan vat nguoi dan ba hang chai

Nội dung chính

I. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật người đàn bà hàng chài

1. Tác giả Nguyễn Minh Châu

– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam giai đoạn chiến tranh và thời kỳ đầu đổi mới với nhiều cống hiến. Ông luôn có trăn trở về cuộc đời con người cũng như sứ mệnh người nghệ sĩ.

– Trước khi mất, ông đã để lại 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình.

– Tác phẩm chính: Cửa sông (tiểu thuyết, 1966), Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977),...

– Một số ý kiến đánh giá về Nguyễn Minh Châu:

+ “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này” (Nguyễn Khải)

+ “Niềm tin vào tính bất khả chiến bại của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng”. (Nhà phê bình Nikolai Nikulin)

2. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đời tư – thế sự của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa văn học và đời sống.

– Nội dung chính: Thông qua câu chuyện kể về chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng biển miền Trung để chụp ảnh nghệ thuật, với một cốt truyện nhiều tình huống bất ngờ với hệ thống nhân vật đa dạng, nhà văn đề cập đến tính trung thực của người nghệ sĩ, nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và hiện thực cũng như những vấn đề phức tạp của cuộc sống, kể cả bi kịch số phận con người.

3. Tóm tắt nhân vật người đàn bà hàng chài

– Người đàn bà hàng chài là nhân vật đặc sắc nhất của truyện, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả.

– Nhân vật người đàn bà hàng chài chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và trong câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

//Để hiểu rõ hơn về nhân vật này, chúng ta hãy cùng đi vào các bước cụ thể phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa ngay sau đây nhé !

II. Hướng dẫn phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

Muốn làm được một bài phân tích người đàn bà hàng chài trọn vẹn và hay nhất, các em nên bám sát từng bước từ phân tích đề, xây dựng hệ thống luận điểm trước tiên để từ đó hình thành dàn ý chi tiết cho bài phân tích.

1. Phân tích yêu cầu đề bài

– Yêu cầu về nội dung: phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài (tính cách, tâm lí, hành động…)

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: những câu văn, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.

– Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Luận điểm phân tích người đàn bà hàng chài

Luận điểm 1: Hiện thân cho nỗi thống khổ của người phụ nữ làm nghề chài lưới

Luận điểm 2: Vẻ đẹp tiềm tàng của người đàn bà làng chài

II. Lập dàn ý chi tiết phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

1. Mở bài phân tích người đàn bà hàng chài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”, luôn thiết tha truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.

Bạn đang xem: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa

+ Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con người.

– Giới thiệu nhân vật người đàn bà hàng chài – hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

2. Thân bài phân tích người đàn bà hàng chài

* Khái quát tình huống truyện

– Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm vào vùng quê miền biển mong chụp được bức ảnh nghệ thuật về làm lịch và tưởng đã thành công khi thu vào ống kính khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp như một giấc mơ.

– Ngay sau đó, anh đã phải chứng kiến một nghịch cảnh trớ trêu: cảnh bạo hành trong một gia đình hàng chài vừa bước xuống từ con thuyền ấy.

– Những ngày sau, cảnh bạo hành đó vẫn tiếp diễn. Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà làng chài đến tòa án để giải quyết chuyện gia đình của chị.

=> Tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa chứa đựng những suy ngẫm, phát hiện sâu sắc của nhà văn về cách để nhìn nhận, đánh giá con người, cuộc sống và về mối quan hệ giữa nghệ thuật với hiện thực, người nghệ sĩ với cuộc đời.

* Luận điểm 1: Hiện thân cho nỗi thống khổ của người phụ nữ làm nghề chài lưới

– Hoàn cảnh, xuất thân:

+ Không có tên gọi cụ thể

+ Được gọi bằng “mụ” hoặc “người đàn bà hàng chài” -> cách gọi phiếm định.

+ “trạc ngoài 40 tuổi”

+ Nghèo túng, đông con

+ Không gian sống là con thuyền lưới vó chật hẹp.

– Ngoại hình:

+ Cao lớn, thô kệch

+ Mặt rỗ, tái mét vì mệt mỏi, không có sức sống

+ Dáng đi chậm chạp như bà già -> Dáng vẻ lúng túng thể hiện sự mặc cảm và tự ti.

+ Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới …

=> Sự nghèo khổ, nhọc nhằn, sự vất vả, lam lũ thể hiện rõ thông qua ngoại hình, trang phục.

– Số phận bất hạnh, đau khổ:

+ Khi bị chồng hành hạ, đánh đập:

  • Không kêu van, chạy trốn
  • Cam chịu, nhẫn nhục

+ Khi thằng Phác xuất hiện:

  • Cảm thấy xấu hổ, nhục nhã, đau đớn khi để con mình phải chứng kiến cảnh ấy.
  • Ôm chầm lấy con, chị lo sợ con cái bị tổn thương
  • Chắp tay vái lấy vái để xin nó đừng vì thương mình mà trở thành đứa con bất hiếu với cha, làm trái với luân thường đạo lí.

=> Người đàn bà là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường, nỗi đau chồng lên nỗi đau.

* Luận điểm 2: Vẻ đẹp tiềm tàng của người đàn bà làng chài

– Sự bao dung, độ lượng, vị tha:

+ Có cái nhìn bao dung với người chồng mình:

  • Thấy người đàn ông đáng thương, đáng được cảm thông “lão chồng tôi khi ấy… hiền lành, không bao giờ đánh đập tôi”;
  • “…trốn đi lính ngụy, chính cuộc sống nghèo khổ đã biến anh ta thành kẻ ác“. (có thể so sánh với cái nhìn của Phác, Phùng, Đẩu).
  • Luôn coi chồng là người bạn đời thân thiết: cùng chèo chống con thuyền trong lúc phong ba, cùng nuôi con, mưu sinh trong cõi đời cơ cực,…

-> Một mực bênh chồng và đổ lỗi cho hoàn cảnh để không phải bỏ chồng.

+ Nhận mọi lỗi về mình: “cái lỗi chính là đám đàn bà chúng tôi…”, “giá tôi đẻ ít đi” -> Tự trách mình vì đẻ nhiều nên nghèo đói mới khiến chồng đánh.

+ Chắt chiu, nâng niu, trân trọng hạnh phúc: “vả lại trên thuyền cũng có lúc vợ chồng, con cái hòa thuận, vui vẻ,…

– Người mẹ giàu đức hi sinh, lòng thương con vô hạn:

+ “đàn bà trên thuyền chúng tôi … đất được” -> Coi việc mình bị hành hạ, chịu đói khổ là lẽ đương nhiên, là vì hạnh phúc con cái.

+ “vui nhất là khi thấy chúng được ăn no” -> Chịu đựng hành hạ để ở cùng các con, nuôi con khôn lớn.

+ Muốn gia đình có cả cha mẹ để con cái không phải chịu thiệt thòi

– Thâm trầm, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời:

+ “Các chú không phải người làm ăn … lam lũ” -> Nhận ra sự ngây thơ, đơn giản trong suy nghĩ của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu.

+ Nguyên nhân của sự chịu đựng và nhẫn nhục là bởi vì chị cần phải có chồng, trên thuyền cần phải có người đàn ông mạnh khoẻ và biết nghề, các con chị cần phải có bố để nuôi dạy

+ Người đàn bà cần người đàn ông bên cạnh nhất là những ngày mưa bão.

=> Người đàn bà không chỉ là hiện thân cho nỗi thống khổ mà còn là hiện thân cho vẻ đẹp tâm hồn cao cả của người phụ nữ.

3. Kết bài phân tích người đàn bà hàng chài

– Nhận xét khái quát về nhân vật:

+ Người đàn bà hàng chài là một người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh nhưng lại hiểu lẽ đời và ngời sáng vẻ đẹp của tình mẫu tử, lòng vị tha, đức bao dung, sự can đảm.

+ Đó là hạt ngọc ẩn giấu trong cái lấm láp đời thường mà Nguyễn Minh Châu đã phát hiện ra bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều và tình yêu thương, sự trân trọng của ông đối với con người.

– Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật: Cốt truyện hấp dẫn, xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật khắc họa nhân vật, sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo; giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở.

III. Danh sách top 11+ bài văn hay phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

Dưới đây là 11 bài văn mẫu phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa được sưu tầm và tuyển chọn dành cho các em tham khảo giúp mở rộng vốn từ trong quá trình viết bài.

  Cùng tham khảo ngay !

1. Phân tích người đàn bà hàng chài bài số 1

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.

Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.

Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy.

Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng đến “tìm đến một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.

Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chấp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”.

Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.

Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ.

Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn.

Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.

Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.

Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại.

Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

2. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài bài số 2

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Người đàn bà có vẻ ngoài xấu xí, thô kệch và “vốn là đứa con gái xấu lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa”. Người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này đâu có được cái nhan sắc “trời phú”, chị ta xấu xí, khuôn mặt rỗ càng khó nhìn hơn khi chị ta bước sang cái tuổi trạc ngoài 40.

Bên cạnh đó số phận kém may mắn: Trong câu chuyện về cuộc đời mình, chị đã nhận thức được rất rõ sự kém may mắn của mình: “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai của một hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”.

Đồng thời, tác giả cũng khắc họa rõ nét về cuộc đời lam lũ, vất vả của người đàn bà làng chài. Tính cách: Một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục. Hành động và lời nói của người chồng: “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.

Trước hành động rất tàn bạo của người chồng, người đàn bà hàng chài đã không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn. Người đàn bà ấy giàu lòng tự trọng. Chồng đánh như vậy, chị ta đâu có khóc. Nhưng chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) phát hiện chị lại cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã.

Nhiều khi, sự đau đớn do đòn roi không thể làm con người ta bật khóc, điều này đúng trong trường hợp của người đàn bà hàng chài. Những giọt nước mắt đau đớn chứa đựng biết bao sự nhọc nhằn chỉ thực sự rơi khi thấy đứa con yêu của mình chứng kiến cảnh tượng mình bị chồng đánh, chỉ thực sự rơi khi có người khách lạ chứng kiến.

Sống rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng, thương con vô bờ bến, một người phụ nữ vị tha giàu đức hy sinh. Được mời đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình, lúc đầy chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở chốn công đường kia để ngồi. Nhà văn có miêu tả, đây không phải là lần đầu người đàn bà đến chốn công đường nhưng người đàn bà ấy vẫn có cái vẻ sợ sệt, lúng túng – cái sợ sệt lúng túng ấy ngay lúc chị ta đứng ở bãi xe tăng cũng không hề thấy có. Chị thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị ta thật tội nghiệp, cái thế ngồi bị động, ngồi vào mép ghế và cố thi người lại, ngồi như thể để tự vệ cho dù đã được Đẩu nói bằng những lời rất thân mật, chia sẻ, cảm thông.

Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi gặp chánh án Đẩu, chị còn xưng “con” và có lúc đã van xin, “con lạy quý tòa”… “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi gục lập tức người đàn bà hàng chài ngẩng lên, nhìn thẳng, “chị cám ơn các chú… Lòng cách chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.

Vẻ bề ngoài khúm núm, sợ sệt, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho cả Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên. Người đàn bà hàng chài kia không hề giản đơn như Đẩu và Phùng nghĩ. Thì ra, cái nghề chài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênh không thể thiếu bàn tay và sức lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại mà làm quần quật để nuôi một đàn con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Tình cảnh của người đàn bà hàng chài kia cũng như của bao gia đình hàng chài khác, trừ phi chị nói “giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”.

Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình, người đàn bà hàng chài kia đã chấp nhận đau khổ, coi nỗi khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị sống cho con chứ không phải là sống cho mình. Nếu những phụ nữ trên các thuyền khác chấp nhận người đàn ông uống rượu thì chị cũng chấp nhận để chồng đánh chỉ xin chồng là đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân bản.

Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ quyền uy có sức công phá lớn. Nó đã làm chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng thức nhận được nhiều điều. Thức nhận được, nỗi nhọc nhằn vất vả trong công việc làm ăn của cư dân vùng biển. Thức nhận được cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận không ít những nghịch cảnh, những ngang trái. Thức nhận được người đàn bà kia không hề chịu đòn roi một cách vô lí, cả Đẩu và Phùng chua chát nhận ra rằng: trên thuyền cần có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo, cần có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp.

Thức nhận được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên chức mà trời đã giao phó cho người đàn bà. Thức nhận được rằng, người đàn bà hàng chài kia rất biết tìm cho mình những niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn.

Ở chị vững bền một niềm tin, một tình yêu và sự lạc quan vào cuộc sống. Hãy biết sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa, nụ cười chợt ửng sáng lên trên khuôn mặt rỗ chằng chịt chị nghĩ đến “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ” và niềm vui “nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Hạnh phúc với người đàn bà hàng chài kia thật giản dị mà không kém phần sâu sắc. Thức nhận được nỗi đau, cũng như sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời người đàn bà kia không bao giờ để lộ ra bên ngoài cả.

Kết thúc truyện ngắn, người đọc vẫn không biết người đàn bà hàng chài kia tên gì, phải chăng là nhà văn đã sơ xuất? Không phải, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, người nghệ sĩ nhiếp ảnh kể rằng mỗi khi nắm thật kĩ bức ảnh mà mình chụp anh lại thấy người đàn bà hàng chài ấy bước ra từ bức ảnh “mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân rậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” nghĩa là người đàn bà ấy chỉ là một người trong đám đông của những con người lam lũ, nhọc nhằn, những con người lao khổ, đông đúc và vô danh.

Qua những cảm nhận về người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định cho chúng ta thấy sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn không làm mất đi ở người phụ nữ vùng biển nói riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với người phụ nữ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.

Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị “khai quốc công thần của triều đại văn học mới”.

3. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 3

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

   Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiến anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người đàn bà hàng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà chạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”.

Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con của mình.

Dọc theo hành trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.

Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ảm ánh rất nhiều người nữa.

Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó. Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.

4. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 4

Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quý của bà.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Đọc hết câu chuyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta… Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.

Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chi mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị. Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho chị.

5. Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài ngắn gọn mẫu số 5

Hình ảnh người phụ nữ đã từng xuất hiện nhiều trong văn học xưa và nay. Mỗi người đều có những đặc điểm riêng với những vẻ đẹp ấn tượng và khó lẫn qua ngòi bút của mỗi tác giả. Khi phân tích hình ảnh người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, người đọc sẽ có được cảm nhận riêng về số phận người phụ nữ hàng chài tuy vất vả nghèo khó nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp tâm hồn.

Hình ảnh người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa dù nổi bật xuyên suốt tác phẩm nhưng lại không được đặt tên cụ thể. Điều này cho thấy đây là nhân vật có vai trò phát triển mạch truyện, có mối quan hệ mật thiết với các nhân vật khác tượng trưng cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội. Hình ảnh người đàn bà đã thể hiện được tấm lòng nhân đạo và quan điểm nhân văn của tác giả.

Sự xuất hiện của nhân vật người đàn bà mà câu chuyện “săn ảnh” của nghệ sĩ Phùng được soi chiếu từ nhiều góc nhìn khác nhau. Đó là góc nhìn ở bề sâu bức tranh cuộc sống. Hình ảnh người đàn bà xuất hiện khi chiếc thuyền đẹp như mơ nhìn từ xa trong làn sương sớm lao vào bờ. Nguyễn Minh Châu ngay lập tức cho người đọc quan sát những thước phim quay chậm ấn tượng về hình ảnh một người phụ nữ lao động cần cù.

Trước hết, hình tượng người đàn bà hàng chài được khắc họa với những dấu ấn là con người với những éo le của số phận. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở dấu ấn của con người và số phận thì hình ảnh người đàn bà hàng chài sẽ bị lẫn vào giữa bao nhiêu người phụ nữ khác trong văn học xưa và nay. Tác giả đã khẳng định được “chất ngọc” nơi người phụ nữ này nhờ điểm nhấn vẻ đẹp tâm hồn.

Tác giả Nguyễn Minh Châu đã đậm tô một số phận, một hình ảnh đại diện cho người phụ nữ hàng chài nghèo khó, cam chịu và giàu hi sinh. Trong cuộc sống còn nhiều ngang trái, người đàn bà hàng chài đã để lại ám ảnh trong tâm trí của nghệ sĩ. Đặc biệt, mỗi khi anh xem lại tấm ảnh tuyệt mỹ trong bộ lịch là một lần day dứt. Dù không dụng công trong miêu tả, tác giả lặng lẽ ghi lại những gì chân thực nhất về gương mặt và số phận người đàn bà. Đó là gương mặt đời thường mà văn học sau năm 75 trú tâm khám phá và tái hiện.

Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài ta thấy được hình ảnh một người nhanh nhẹn, hoạt bát với một vài chi tiết nhỏ nhưng đặc biệt. Ấn tượng nhất là đôi mắt: chị đưa mắt nhìn xuống chân khi chuẩn bị bị chồng đánh, đưa cặp mắt và đầm phá, đôi mắt nhìn thấu cuộc đời khi nói chuyện với chánh án Đẩu…

Chỉ những chi tiết ấy thôi đã bộc lộ rõ nét nhất tâm sự của một người đàn bà cùng với những lam lũ vất vả phải chịu đựng. Đôi mắt long lanh như biết nói, đôi mắt thấu hiểu sự đời. Quả thật không sai đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ chân thật nhất, không lẫn vào bất cứ đâu.

Qua phân tích hình ảnh người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, ta có thể thấy được vẻ đẹp bên trong của người phụ nữ. Đó được thể hiện chủ yếu hội tụ trong câu chuyện diễn ra ở tòa án huyện, một con người trải qua nhiều khổ cực nên thấu hiểu sự đời. Hình ảnh này khiến người đọc có cái nhìn rõ nhất về nghệ thuật độc đáo trong cách khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người.

6. Phân tích người đàn bà hàng chài mẫu số 6

Nguyễn Minh Châu là tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam sau 1975. Ông thành công với nhiều tác phẩm như: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa nhưng để lại dấu ấn sâu đậm nhất là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Trong tác phẩm, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài – người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh.

Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”.

Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Sự đối lập giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài khiến Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta… Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.

Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ…

Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,… Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên.

Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con. Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…”.

Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì: “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.

Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ: ”Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: ”Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Chị ”phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.

Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mời hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.

Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của anh ta nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho anh ta.

Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “…vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.

Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả lời nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta. Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

7. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 7

Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó.

Hàng loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng đó. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác điển hình của ông được viết sau năm 1980. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng, một nghệ sĩ khao khát khám phá, sáng tạo ra cái đẹp, người luôn lo lắng, trăn trở, suy tư về nhân cách và đời sống con người. Người đàn bà hàng chài là nhân vật đặc sắc nhất của truyện.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự − triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta… Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.

Về ngoại hình, người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài bốn mươi tuổi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Ngoại hình thì vậy, số phận cũng không khá hơn. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng.

Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,… Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất hậu và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

Song ẩn bên trong người đàn bà hình dáng bên ngoài xấu xí, thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình.

Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được.⠀⠀⠀⠀⠀⠀⠀⠀⠀

Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Với người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do chị đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu.

Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh chị còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh”.

Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.

Không những thế, đây còn là người phụ nữ vị tha thánh thiện. Không chỉ yêu thương, hi sinh đến quên mình vì đàn con, ở người phụ nữ này còn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.

Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.

Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”.

Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.

Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. Đó những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ.

Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.

Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng chài, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng

Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời.

Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại h́nh và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị “khai quốc công thần của triều đại văn học mới”.

>>> Phân tích người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa để có cái nhìn khác đầy đủ hơn về nhân vật người chồng.

8. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 8

Sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia làm hai giai đoạn, nếu như giai đoạn trước, các nhân vật luôn được đặt vào bầu không khí vô trùng thì đến giai đoạn sau với cảm hứng thế sự, các nhân vật có nhiều chuyển biến rõ nét. Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chính là một nhân vật tiêu biểu. Cũng qua nhân vật này tác giả gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc của mình.

Nếu như các nhân vật khác trong tác phẩm đều có một cái tên rõ ràng, như Phùng, Đẩu, thằng Phác, thì người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm này lại chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà làng chài”. Phải chăng thông qua cái tên mang tính chất phiếm chỉ này, nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp: người đàn bà kia chính là đại diện cho biết bao số phận người phụ nữ, giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh trong cuộc sống còn vô vàn thống khổ, khắc nghiệt.

Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua nhận xét của Phùng vô cùng đặc biệt – ngoại hình xấu xí, thực không mấy ưa nhìn. Đó là người đàn bà mặt rỗ, dáng vẻ mệt mỏi, thân hình thô kệch lam lũ. Sau này, đi sâu vào tác phẩm và nghe những lời tâm sự của người đàn bà ta mới biết, chị vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm mà mặt rỗ, không ai lấy. Hình ảnh chị cam chịu nhẫn nhục để người chồng lấy dây lưng vụt tới tấp, đã phần nào hé lộ số phận bi kịch, bất hạnh của chị.

Dù chị có số phận bật hạnh như vậy, nhưng ta cũng không thể phủ nhận ẩn sâu trong người phụ nữ ấy là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. Đầu tiên ta thấy được chị là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Có thể thấy, như lời chị tâm sự “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng” cứ khi chồng chị bực là chị bị đánh. Thì có thể thấy rằng, việc chị bị đánh diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Mặc dù bị hành hạ về thể xác như vậy, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu than, không hề chống trả, hay tìm cách chốn chạy. Bởi đối với chị chịu đựng cũng là một lẽ đương nhiên của những người phụ nữ sống ở miềm biển.

Không chỉ vậy người đàn bà làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, vô cùng yêu thương con. Cuộc đời chị hi sinh tất cả về con, khi bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để những đứa trẻ không phải nhìn thấy cảnh ấy. Chị đặc biệt thương thằng Phác, nên đã gửi nó lên rừng ở cùng ông. Khi Phác thấy bố đánh mẹ, đã ngay lập tức xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin. Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương.

Trong những lời vô cùng chân thành, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ đến những niềm vui nhỏ bé mà gia đình bà từng có và đặc biệt khi nghĩ đến cảnh đàn con được ăn no”. Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo. Thương con, hi sinh vì con cũng là lí do vì sao chị kiên quyết không bỏ chồng, bởi với những người dân miền biển, ngày đêm đối mặt với sóng gió không thể thiếu đôi vai vững chắc của người đàn ông. Hành động, suy nghĩ đó của chị càng khẳng định hơn nữa tình mẫu tử sâu nặng chị dành cho con.

Không chỉ vậy, chị còn là một người thấu hiểu lẽ đời, đã đem đến cho cả Phùng và Đẩu những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc đời. Dù chị bị chà đạp về nhân phẩm, bị hành hạ về thể xác nhưng chị đến tòa án huyện trước những lí lẽ của mình, ta không còn thấy một người đàn bà quê mùa, ít học, mà thay vào đó là một người phụ nữ thấu tình đạt lí, thấu hiểu sự đời. Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, bởi đây là lần đầu chị tiếp xúc với một không gian mới. Chị ngồi sâu vào một góc, cố để không ai chú tâm đến mình. Những lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ bé đến tối nghiệp trước Phùng và Đẩu “con” “van xin” “quý tòa”.

Hình ảnh của chị thật đáng thương, khiến cho cả hai người đàn ông không khỏi khó xử. Nhưng sau khi lấy lại được bình tĩnh, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai đối tượng, người giáo huấn và người được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài. Với những suy nghĩ, trải nghiệm trong cuộc đời, lí lẽ đời đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu.

Bằng sự từng trải của bản thân, tình yêu thương con và đức hi sinh, người đàn bà làng chài đã khiến cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ cảm thông cho số phận và cuộc đời mình. Nhìn vào cuộc đời chị người ta mới thấu rằng cuộc đời này vốn đầy những đa đoan, nhìn ngoài sao có thể thấu hết những vấn đề ở xung quanh.

Hình ảnh người đàn bà làng chài là đại diện tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội vừa bước chân ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng trong bóng tối tưởng thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính đẹp đẽ của người phụ nữ nông dân hồn hậu, yêu thương chồng con, đức hi sinh và tình mẫu tử cao đẹp.

9. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 9

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu Nga Ni-Culin nhận xét: “Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng”. Ta có thể thấy điều ấy qua nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng”.

Giai đoạn sau này, nổi bật là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang nhiều cảm hứng thế sự cùng những triết lí nhân sinh hơn. Nhưng quan điểm sáng tác của ông là “gắng đi tìm các hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người” thì không thay đổi. Nhân vật trung tâm của tình huống truyện nghịch lý trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là người đàn bà hàng chài. Từ nhân vật này, nhà văn bộc lộ tấm lòng nhân đạo và gửi gắm những bức thông điệp về nghệ thuật và cuộc đời.

Đọc tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” ta thấy nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn giới thiệu là người đàn bà trạc ngoài 40. Và khi đề cập đến nhân vật này Nguyễn Minh Châu không gọi bằng một cái tên cụ thể nào cả mà gọi một cách phiếm định: “mụ”, “người đàn bà hàng chài”… Việc nhà văn không đặt tên cho nhân vật của mình không phải ngẫu nhiên vô tình mà đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa: Ông muốn nhấn mạnh đây chỉ là một trong vô số những người đàn bà đau khổ, bất hạnh, cần cảm thông sẻ chia mà thôi.

Người đàn bà hàng chài mang một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển với những nét thô, mặt rỗ “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ. Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã lấy đi tất cả của chị: sinh lực, niềm vui và sức sống. Sự nghèo khổ nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong chi tiết miêu tả tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.

Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ: “sợ sệt, lúng túng” khi ở tòa án, “tìm đến một góc tường để ngồi”. Thậm chí khi Đẩu phải mời đến lần thứ hai chị mới “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghé và cố thu người lại”. Có lẽ đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là một phi lí, luôn mặc cảm, tự ti và do đó muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức đến khó chịu mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh.

Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài. Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa và cho người đọc chính là thái độ cam chịu nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước lúc đến bên chiếc xe, người đàn bà đứng lại “ngước mắt nhìn ra ngoài… rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.

Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, một sự quen thuộc khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cặp mắt nhìn xuống chân mệt mỏi như một kẻ tội đồ chờ đợi một hình phạt không tránh khỏi. Khi bị đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với vẻ cam chịu nhẫn nhục, đó là thái độ của một con người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình, không oán thán, không bất bình, không né tránh.

Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về mặt thể xác, mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, không chỉ chịu đựng những đau đớn từ những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà còn bị giày vò nặng nề về những đau đớn tinh thần, về sự nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đời trái ngang.

Mô tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc vừa phải “chấp tay vái mấy vái để đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái luân thường đạo lí”, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nỗi xót thương cho sự đau khổ cùng cực của người đàn bà hàng chài. Chưa hết, chị còn bị gánh nặng cơm áo, cuộc sống nghèo túng đẩy vào cái vòng quẩn quanh bất hạnh. Trước năm 1975 mỗi khi biển động cả nhà toàn ăn xương rồng luộc chấm muối. Khi cách mạng về cuộc sống đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo vẫn còn đó.

Từ thân phận người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những suy nghĩ âu lo: cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo tăm tối và bạo lực còn gian nan lâu dài hơn cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát khỏi cuộc sống đói nghèo chừng đó con người vẫn phải chung sống với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để giành được độc lập tự do trong cuộc chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu giành quyền sống của từng con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống đói nghèo u tối.

Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời như ở người đàn bà rách rưới này. Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài mà người đọc cảm nhận được trước hết đó là ở vẻ đẹp sâu sắc từng trải. Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà hàng chài quê mùa thất học hiểu lẽ đời khiến Đẩu và Phùng trở thành những người nông nổi, hời hợt. Trong khi Đẩu và Phùng bất bình trước người chồng tàn nhẫn, thấy ông ta là kẻ độc ác nhất thì người đàn bà hàng chài đã giúp họ nhận ra bao điều sâu xa của cuộc sống.

Chị cho biết: chồng chị vốn là anh con trai hiền lành, cục tính, nhưng rơi vào cuộc sống luẩn quẩn, bế tắc cho nên trở thành kẻ tha hóa, vũ phu tàn nhẫn. Đó là một sự nhìn nhận sâu xa, thấu hiểu lẽ đời. Người đàn chỉ rõ sự thiếu thực tế của Đẩu và Phùng: “Lòng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc”. Người đàn bà hàng chài đã chỉ ra một hiện thực tàn nhẫn: họ cần một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba sóng gió dù hắn có man rợ, tàn bạo đến đâu. Như vậy, chị đã cho Phùng và Đẩu thấy được sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong những cuộc mưu sinh trên biển cả, luôn bất cập, tiềm ẩn những hiểm họa, đe dọa.

Người đàn bà hàng chài còn chỉ ra sự bất cập trong cuộc sống của Đảng, của chính quyền Cách mạng. Chị cho thấy từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho họ nhưng chẳng ai ở vì không thể bỏ được nghề bởi sự tồn tại của họ gắn chặt với nghề. Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế. Những điều đó đã tạo ra một đối sánh với người đàn bà hàng chài từng trải, hiểu đời, hiểu người, hiểu những điều có thể và không thể. Sự sâu sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương cho một kiếp người.

Người đàn bà hàng chài chấp nhận những trận đòn vũ phu độc ác của người chồng không phải vì chị ngu muội. Cũng không phải vì chị có tội lỗi gì với chồng mà chị cam chịu, nhẫn nhục những trận đòn đó không chỉ vì trên thuyền cần một người đàn ông mà còn như một cách giúp người chồng vơi đi những u uất khổ sở chất chứa trong lòng. Đó là cách xử sự của một con người hiểu rõ bổn phận nghĩa vụ của mình và gắng thực hiện cho xong, đâu đó là những bổn phận và nghĩa vụ phi lí. Không chỉ thấu hiểu xót xa cho nỗi khổ của người chồng, người đàn bà hàng chài còn mang một mặc cảm tội lỗi khi cho rằng “giá tôi đẻ ít đi” hoặc “chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”.

Nếu Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu nhẫn nhục của người vợ bị chồng hành hạ thì khi hiểu được nguyên nhân của thái độ ấy, họ càng kinh ngạc vì sự nhân hậu, vị tha của tấm lòng người đàn bà hàng chài.

Tình mẫu tử được người đàn bà ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chính tình thương yêu sâu sắc với con đã khiến chị nhẫn nhục chịu đựng sự tàn nhẫn của người chồng vì muốn có một người đàn ông khỏe mạnh biết nghề cùng mình làm ăn nuôi nấng các con.

Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, sợ đứa con làm điều gì dại dột với bố nó, người đàn bà hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa con chị yêu thương nhất lên bờ sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy,” tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài”.

Khi đứa con chứng kiến cảnh tàn nhẫn đó, người đàn bà “mếu máo” gọi con rồi “chắp tay vái lấy vái để” ôm chầm nó, bởi chị sợ tình yêu thương, sự ngây thơ non nớt cùng lòng căm giận, u tối trong thằng bé sẽ hành động dại dột. Tiếng khóc của tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đau đớn vừa xấu hổ nhục nhã. Chị đau đớn vì làm con tổn thương rồi mới đau cho bản thân mình.

Khi nhắc đến những lúc hòa thuận trên thuyền “khuôn mặt xám xịt chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Đó là ánh sáng, là vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui nỗi buồn đều xuất phát từ ”vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha và đức hi sinh “biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời” – Tố Hữu.

Người đàn bà ấy đã để lại một ấn tượng sâu sắc để nhiều năm sau tồn tại, khi nhìn lại “bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa” bây giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh… hòa lẫn với đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh khốn khổ trong cuộc sống lầm lũi đời thường. Họ đã kiên cường vượt lên tất cả, không phải vì mình mà là vì những người thân yêu.

Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, hành động,… nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận con người bất hạnh bị cầm tù trong đói nghèo, khốn khổ, bạo lực. Đồng thời thể hiện niềm tin yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con người luôn sống cuộc sống lòng người nhân hậu, vị tha.

10. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 10

Tiên phong trong phong trào văn học đổi mới sau chiến tranh không ai ngoài cái tên Nguyễn Minh Châu nên cách nhìn về con người cũng mới. Hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được xây dựng rất thành công với cái nhìn đa chiều.

Người đàn bà hàng chài hiện lên trong lăng kính của Phùng, chiếc thuyền cập bờ người đàn bà nhìn tầm ngoài 40 tuổi, hình dáng cao, thô kệch còn khuôn mặt thì rỗ chính vì thời con gái cô ta bị bệnh đậu mùa. Nhà văn với cách miêu tả chân thực đã cho người đọc nhận thấy người đàn bà này chắc khỏe nhưng nhan sắc không được ưa nhìn. Chị ấy mặc trong người một chiếc áo cũ mèm, lưng bạc phếch với nhiều chỗ rách rưới. Nhìn vào khuôn mặt ấy hiện lên vẻ đầy mệt mỏi, xanh ngắt, đầu tóc rũ rượi, bơ phờ vì một đêm thức trắng đánh bắt, kéo lưới.

Người đàn bà này qua một đoạn miêu tả, hành động của người chồng nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy được chị có một cuộc đời lam lũ, không mấy sung sướng, ngược lại là vô cùng cực khổ, đói nghèo, lam lũ, gánh nặng gia đình đè lên đôi vai của chị. Những ngày biển động, cả gia đình thiếu thốn ăn xương rồng luộc qua bữa.

Hoàn cảnh nghèo khó, cơ cực một phần xuất phát từ chính gia cảnh đông con mà công việc lại bấp bênh vô cùng, trình độ lao động sản xuất còn kém nên toàn bộ phụ thuộc vào thời tiết mà kiếm sống. Nhìn thấu ở đây là nỗi niềm đau đáu nhân thế của tác giả trước cuộc sống nghèo đói của nhân dân sau chiến tranh. Chính vì cái nghèo khiến cho nhiều bi kịch xảy ra, điển hình ở đây là nạn bạo lực gia đình.

Người đàn bà xuất hiện trong cảnh bạo lực qua lời văn diễn đạt của nhà thơ vô cùng sắc nét đầy bi thương. Khi chiếc thuyền cập bờ, chị ta bước đi về phía bãi cát thẳng đến chiếc xe tăng để rà mìn cũ. Theo sau chị ta là bóng dáng của một người đàn ông hung dữ, cầm trên tay chiếc thắt lưng to hùng hổ lao nhanh đến quật vào lưng chị tới tấp không dừng. Hắn ta dùng hết sức mà đánh chị ta như có gì đó tức nghẹn, uất ức trong lòng, vừa đánh vừa buông lời chửi thậm tệ.

Lạ thay, người đàn không một chút kháng cự, chống trả hay trốn chạy, một tiếng kêu cũng không có. Phùng từ xa chứng kiến cảnh tượng này đau xót đến rùng mình, anh kinh ngạc với màn bạo lực man rợ đáng lên án này. Khi căm tức người đàn ông kia thì lại xót thương, cảm thông vô cùng cho thân phận người phụ nữ – nạn nhân của trận bạo hành đó. Chị ta vô cùng cam chịu, nhẫn nhục nuốt vào trong chấp nhận chịu đòn roi mà không một lời than trách. Hiện lên ở người đàn bà này cái thái độ chịu đựng rất khó hiểu, điều đó để lại ẩn số trong Phùng.

Nhìn vào người đàn bà hàng chài này chúng ta có thể đồng cảm được rằng chị ấy không chỉ đau đớn về thể xác mà cả tinh thần, điều này thấy rõ ở chi tiết đứa con của chị ấy xuất hiện. Dù có bị người chồng đánh đến mức nào chị cũng chịu một mình mà không muốn cho các con thấy cảnh bạo lực này nhưng thằng Phác con chị hiểu chuyện, nó đã theo dõi từ trước nên khi nó xuất hiện chị có bất ngờ. Phác thấy ba đánh mẹ liền xông vào đánh ba để bảo vệ mẹ thì bị ba nó tát hai cái ngã dúi người rồi ông ta bỏ vào thuyền. Chị bàng hoàng, ngạc nhiên lại ôm thằng bé trong lòng rồi buông ra, ngồi bên cạnh lạy rồi khóc.

Người đàn bà lộ rõ cảm xúc đau đớn tột cùng, có chút tủi hổ. Nỗi đau trào dâng khi nhìn cảnh gia đình mình bị xáo trộn, chồng đánh vợ, con đánh cha. Người mẹ đau nỗi đau khi bản thân để con phải chịu tổn thương, mất mát, để chúng không hưởng một cuộc sống gia đình bình yên, yêu thương. Chị xấu hổ vì đã che giấu tất cả, trước các con luôn giả vờ về mọi thứ, lời cảm ơn đến con được thay bằng cái ôm ấm áp hơi ấm vì đã chấp nhận mẹ dù thế nào rồi lạy để mong con sẽ tha thứ cho mình.

Chuyện bạo lực này rồi cũng đến tai tòa án huyện, Đẩu – chánh tòa án huyện cho gọi người đàn bà này lên can thiệp, khuyên chị ly hôn. Dù cho lời lí giải của tòa có thuyết phục thì chị cũng van xin được từ chối. Chị nói “lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn nên các chú đâu hiểu được điều các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Lúc này Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ. Vì với người chồng, chị mang ơn, người đàn ông này tuy cộc tính nhưng bản tính hiền lành, chỉ vì cuộc sống nghèo khó đẩy ông ta thành người vũ phu, dữ dằn. Hơn nữa chị nghĩ đến các con, cái ăn, cái mặc của chúng nên nhất quyết không chịu ly hôn vì nghề chài lưới luôn cần có người đàn ông gánh việc nặng.

Làm sao có thể thấy chị hiểu và thương chồng, một người phụ nữ có tấm lòng vị tha, rộng lượng như vậy nếu không chứng kiến, nghe những lời kể từ tận đáy lòng của chị. Vì cuộc đời các con của mình, một người mẹ giàu lòng yêu thương, một người vợ thủy chung, son sắc, nhân hậu chấp nhận chịu đựng cuộc sống không hạnh phúc, chịu đòn roi từ người chồng và hơn thế nữa. Chị chấp nhận mình khổ cực nhưng không để các con mình phải thiếu cha, thiếu ăn.

Phùng sau khi về nhà mang trong lòng nỗi ám ảnh, cảm nhận về gia đình của người đàn bà này cũng chính là những trăn trở của nhà văn. Niềm tin, hy vọng số phận của gia đình chị ấy sẽ thay đổi tích cực hơn được tác giả gửi gắm vào đó. Nhân vật người đàn bà hàng chài được Nguyễn Minh Châu khắc họa vô cùng chân thực trong hình tượng lao động nghèo khổ ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ bất hạnh.p

11. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài bài số 11

Nguyễn Minh Châu là nhà văn suốt đời trăn trở về nghề và người. Năm 1972 giữa lúc đang viết những thiên sử thi trữ tình lãng mạn, lộng lẫy hào quang, ông đã ghi vào nhật kí “hôm nay chúng ta đang chiến đấu để giành quyền sống cho một dân tộc. Nhưng rồi đến một ngày chúng ta phải chiến đấu để giành quyền sống cho từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn, hạnh phúc hơn. Đó mới chính là cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ”. Với niềm suy tư, trăn trở ấy, Nguyễn Minh Châu đã đổi thay từ cảm hứng sử thi trữ tình lãng mạn sang cảm hứng thế sự đời thường. Sự thay đổi đó để lại dấu ấn rõ nét trong các nhân vật nữ của ông mà tiêu biểu là nhân người đàn bà hàng chài trong truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Nếu nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” là nhân vật hoàn mĩ, lý tưởng từ cái tên đến đôi gót chân bóng hồng, sạch sẽ, từng sợi tóc lấp lánh đến ánh trăng. Và lúc nào cũng hiện lên trong cái nhìn mê muội cảm phục của Lãm thì nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” lại không tên, không chút nhan sắc, chị có thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt tái nhợt đầy những nốt rỗ. Mỗi lần chị khóc nước mặt đọng đầy trong những nốt rỗ ấy, bộ quần áo bạc phếch vá víu lúc nào cũng ướt sũng.

Những nét chân dung như thế đã hé mở một cuộc đời khổ đau bất trắc, chị thuộc hiện thân của mảnh đời cơ cực tối tăm vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta. Đó là người phụ nữ lao động lam lũ vất vả ở làng chài, cả nhà sống chen chúc trên một chiếc thuyền chật hẹp. Thế nhưng trong cuộc đời đen tối đó lại ẩn chứa những vẻ đẹp đáng trân trọng.

Người đàn bà có sức chịu đựng vô bờ bến, khi miêu tả bề ngoài của nhân vật Nguyễn Minh Châu chú ý đến chi tiết “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng vì kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Đây là chi tiết đáng giá để nhấn mạnh sức cam chịu, bình thường lúc mệt mỏi người ta thường sinh ra cáu gắt, ấy thế nhưng người đàn bà vẫn cam chịu những cơn cuồng nộ của người chồng. Khi biết mình phải chịu đòn người đàn bà có những hành động rất ý nghĩa: đưa cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân, quay lại phía con thuyền để xác nhận rằng không còn đứa con nào ở đó.

Chị còn là người hiểu sâu sắc lẽ đời: hiểu rõ hoàn cảnh của mình, hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống và hiểu rõ con người. Chị hiểu rõ nỗi bế tắc của người chồng, hiểu chồng là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh. Chị nói về việc chồng trở nên vũ phu là do đám đàn bà ở thuyền đẻ quá nhiều mà thuyền lại chật”. Chị còn là người mẹ bao dung đầy lòng vị tha, giàu đức hy sinh. Chị chấp nhận để chồng đánh ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng chứ nhất quyết không chịu bỏ chồng về đàn con. Nỗi đau khổ lớn nhất của chị là để đàn con bị tổn thương.

Khi biết thằng Phác chứng kiến cảnh bố nó hành hạ mẹ nó, đây là nỗi đau giày xé trong lòng chị còn đau hơn nhiều những trận đánh, hành động ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, “vái lấy vái để” cho chúng ta thấy điều đó. Người đàn bà ấy còn rất giàu tình yêu thương. Chị yêu thương cảm thông cho lão chồng đã hành hạ chị suốt đời vì chị biết chồng chị chỉ là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh. Hành động chị lạy con để giữ cho nó không phải ân hận vì một lần lỗi đạo để cầu xin thằng bé tha thứ vì mẹ không thể chở che cho tâm hồn ngây thơ non nớt của nó không tổn thương trong hoàn cảnh tăm tối, cơ cực.

Chị còn là người chắt chiu hạnh phúc, chị chấp nhận những cay đắng riêng mình để có niềm hạnh phúc bình dị nhỏ nhoi đó là những lúc đàn con của chị được ăn no, vợ chồng con cái hòa thuận với nhau. Chị còn rất giàu lòng tự trọng, chị có cách ứng xử rất tự trọng: xin lão chồng đưa lên bờ mà đánh để tránh các con phải nhìn thấy, khi biết Phùng và con trai chứng kiến cảnh mình bị đánh chị vô cùng đau đớn, xấu hổ, nhục nhã.

Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng sau mỗi trận đòn chị lại đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng để đuổi theo lão đàn ông. Đó là sự nhẫn nhục của người có nhân cách tự trọng. Chính vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài đã khiến Phùng và Đẩu nhận ra nhiều điều: cuộc sống không đơn giản một chiều, không thể giải quyết vấn đề cuộc sống bằng lòng nhiệt tình, ý thức sách vở.

Với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được hình ảnh nhân vật người đàn bà với đường nét thô kệch nhưng lại mang một vẻ đẹp rất đời, rất thực, ẩn sâu và khuất lấp giữa kiếp người nhọc nhằn, lam lũ. Một vẻ đẹp khiến lòng người quặn đau.

* Sơ đồ tư duy phân tích người đàn bà hàng chài

So do tu duy phan tich nhan vat nguoi dan ba hang chai

Trên đây là những hướng dẫn cách làm chi tiết cùng một số bài văn mẫu hay phân tích người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa mà chúng tôi đã biên soạn gửi tới các em học sinh tham khảo. Kết hợp phần dàn ý phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài với những kiến thức đã được học trên lớp về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, các em có thể tự hoàn thiện bài phân tích của mình bám sát chủ đề và có sức thuyết phục.

Chúc các em học tốt và đạt điểm cao !

 

Hướng dẫn phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài, lập dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và tham khảo một số bài văn mẫu hay phân tích người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.

Giáo dục

Bản quyền bài viết thuộc thcs-thptlongphu. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://thcs-thptlongphu.edu.vn
https://thcs-thptlongphu.edu.vn/phan-tich-nhan-vat-nguoi-dan-ba-hang-chai/

Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn

Chuyên mục: Tổng hợp