Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam bao gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay được chính các biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc sẽ giúp các bạn lớp 11 có thêm nhiều gợi ý học tập, trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra sắp tới đạt kết quả tốt.
Diễn biến tâm trạng nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam được thể hiện qua nhiều giai đoạn, nhưng có lẽ tâm hồn của một cô gái sẽ có sự nhạy cảm hơn khi cảnh chiều tà và ngày tàn buông xuống. Để hiểu rõ hơn về nhân vật Liên, mời các em tham khảo ngay những bài Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Liên ngay sau đây.
Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
Dàn ý phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Liên
a) Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Thạch Lam là một nhà văn nổi tiếng thuộc nhóm Tự Lực văn đoàn trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
- Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của cây bút truyện ngắn xuất sắc Thạch Lam.
Khái quát về nhân vật Liên: Truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Liên, trong đó một trong những khía cạnh làm nên sự thành công của hình tượng này chính là diễn biến tâm trạng của cô bé khi đợi tàu.
b) Thân bài
* Tâm trạng nhân vật Liên trước thời khắc ngày tàn
- Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, lòng buồn man mác.
- Tinh ý nhận ra hương vị quen thuộc – mùi riêng của đất của quê hương
- Liên thấy động lòng thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng.
- Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu.
=> Cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ: gợi cho Liên nỗi buồn thấm thía, cảm nhận được cuộc sống cơ cực của người dân quê, thông cảm cho nỗi khổ của con người tại vùng đất nghèo.
=> Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình.
* Tâm trạng nhân vật Liên khi chờ tàu
+) Trước khi tàu đến
– Liên cùng em trai dù đã rất buồn ngủ nhưng vẫn cố thức để đợi tàu bởi:
- Cô được mẹ dặn chờ tàu đến để bán hàng
- Nhưng Liên không mong chờ ai đến nữa
- Cô thức vì muốn được nhìn thấy chuyến tàu như một hoạt động cuối cùng của đêm khuya
- Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu
- Liên chăm chú để ý từng đèn ghi, ngọn lửa xanh biếc…
– Tiếng Liên gọi em một cách cuống quýt, giục giã như thể nếu chậm một chút sẽ mất đi điều gì đó quý giá
=> Niềm háo hức, mong ngóng chuyến tàu đêm như mong ngóng một điều gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống vốn tẻ nhạt thường ngày.
+) Khi tàu đến
- Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn tàu vượt qua
- Dù chỉ trong chốc lát, Liên cũng thấy “những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh”
=> Liên thấy một thế giới khác với cuộc sống thường ngày của chị.
- Đứng lặng ngắm đoàn tàu đi qua, Liên không trả lời câu hỏi của em, trong tâm hồn cô cơn xúc động vẫn chưa lắng xuống.
- Liên mơ tưởng về Hà Nội, một Hà Nội sáng rực và xa xăm, một Hà Nội đẹp, giàu sang và sung sướng… Sự hồi tưởng ấy càng khiến Liên thêm tiếc nuối và ngán ngẩm cho cuộc sống hiện tại.
=> Tâm trạng xúc động, vui sướng, hạnh phúc, mơ mộng.
+) Khi tàu đi
- Như bao con người khác, Liên cũng “mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống hằng ngày”
- Khi tàu đi qua, Liên trở về với tâm trạng buồn như cuộc sống thường ngày nơi phố huyện
- Con tàu như niềm vui lóe lên trong chốc lát làm con người mơ tưởng rồi lại chìm vào trong bóng đen dày đặc
– Tất cả chìm trong màn đêm với ngọn đèn tù mù chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ đi vào giấc ngủ chập chờn của Liên
=> Tâm trạng nuối tiếc, niềm suy tư thao thức về cuộc sống hằng ngày nơi phố huyện nghèo.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật tinh tế
- Giọng văn cảm xúc và nhẹ nhàng, điềm tĩnh, khách quan
- Phân tích thế giới nội tâm nhân vật tinh tế và sâu sắc
- Thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập
- Ngôn ngữ trong sáng, giàu hình ảnh và gợi cảm.
c) Kết bài
- Khái quát lại sự chuyển biến tâm trạng nhân vật Liên – người duy nhất trong tác phẩm ý thức được đầy đủ và sâu sắc nhất cuộc sống tù đọng của mình.
- Gửi gắm niềm xót thương của tác giả cho những con người bé nhỏ và trân trọng niềm ước mong một cuộc sống tươi sáng hơn.
20 Bài văn mẫu Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 1
“Văn học là nhân học” (M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hoà quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng. “Hai đứa trẻ” vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng, day dứt về đời sống con người.
Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ xác và lại càng xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ngòi đồng, thế cũng đủ làm thành cái buổi chiều êm như ru như bao chiều khác.
Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lại hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ đi thu lượm các thứ lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong “Hai đứa trẻ”. Song bức trang phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mang trong mắt Liên dường như quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu. chị Tí, bố con nhà hát sẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn. Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng: “Chiều, chiều rồi” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm”, của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao xanh ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hoá nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển. Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ cồn tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hoà nhập hai tâm hồn quan sát là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mãi ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lại”. “Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát”. Nhưng câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn hay chính là từ tâm hồn của Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.
Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Một vài tia sáng le lói từ kẻ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của thứ đom đóm lập loè trong kẽ lá bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “chớp” nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có vài hiện thực vừa có sự bay bổng của người bút phác lên và đằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủ soi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phát đã trải qua một ngày bươn bải với cuộc sống để kiếm cái ăn, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để làm thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ. Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là nơi để họ sống…Âm thanh của cuộc sống phát ra từ những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo. Chẳng có một nét chấm phá nào trong bức tranh nhưng tất cả những con người có mặt đã làm nên tổng thể của cảnh vật cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt của đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo bằng” một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phát hoạ một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lý do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành dật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hoà thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn. Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện nhân cách tuyệt vời của ông.
Trở lại với cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính lả điểm nhà văn đã tập trung khắc hoạ. Liên gây ấn tượng bởi nội tâm sâu sắc, xuất phát từ một con người đa cảm. Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác buồn trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương: đó là những chú bé nheo nhóc nhớn nhác giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẫu que kem và những gì còn có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một người chị còn bé hơn thế nữa, nỗi lòng buồn báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.
Bức tranh phồ huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một thứ gì của cảnh ngoài kìa, Liên đã thốt lên rồi. Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi người lần lượt đi qua tâm hồn tưởng như non nớt của Liên. Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể người dân quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống , ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảnh đất trống “Lá đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.
Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ mà trong số trên chẳng có ai. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nếu mẹ Liên ở đó chắc không cho cô thức. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc hoạ hình ảnh Liên cùng em đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó càng làm lòng Liên có một mỗi buồn vô hình xâm lấn. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại chợt gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã lẩn khuất sau màn đêm dáy đặc, không gian của phố huyện thoáng giao động rồi lại trở về như xưa. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết nên vui hay nên buồn. Vui có lẽ đúng hơn vì hàng ngày chuyến tàu vẫn là niềm mong mỏi của chị. Có người nói “chờ đợi là một điều khủng khiếp”; song, không có gì để chờ đợi lại càng khủng khiếp hơn. Với Liên điều khủng khiếp chính là niềm vui mà chị có thể tự tạo cho mình. Chất lãng mạn ngay trong cảnh đợi tàu. Cảnh đợi tàu ở đây tuy có khác với cảnh đợi tàu trên sân ga nhưng lại vẫn chung một nỗi niềm mong mỏi. Điều đáng nói hơn là duy chỉ một cô bé Liên đợi. Cuộc sống bon chen đã không làm chị chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao niềm vui của cuộc sống. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có cấu tứ khá hoàn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Cho đến nay, chị vẫn sống với một niềm vui của chuyến tàu đem lại. “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện. tạo nên bằng một cuộc đời. tạo nên như là người dẫn chuyện.
Thành công của thạch Lam chính là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn cùng lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới. Ai đó đã định nghĩa về thơ: “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ nữa” thì truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác nữa của thạch lam có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại “cuộc đời” thật nhiều sâu sắc.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 2
Thạch Lam là một trong những cây bút chủ chốt của Tự lực văn đoàn, ông xuất thân trong một gia đình công chức, gốc quan lại, đối tượng văn học mà Thạch Lam hướng đến thường là những con người lao động, những con người nghèo khổ bất hạnh trong cuộc sống. Thạch Lam là một nhà văn theo khuynh hướng văn học lãng mạn tuy nhiên những tác phẩm của ông đều mang màu sắc hiện thực, Thạch Lam có quan niệm văn chương tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn, một trong những truyện ngắn nổi bật của ông là tác phẩm Hai đứa trẻ được in trong tập truyện Nắng trong vườn. Trong tác phẩm này Thạch Lam đã khắc họa rõ nét ước mơ và khát vọng đổi đời của hai chị em Liên và An trong đó tác giả đã miêu tả nổi bật nội tâm sâu kín của nhân vật Liên.
Câu chuyện mở ra bằng khung cảnh của buổi chiều tàn, những câu văn nhẹ nhàng, man mác đầy chất thơ cứ rung lên vang động lòng người: Chiều chiều rồi, một chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài bờ ruộng theo gió nhẹ đưa vào, những câu văn mềm mại cứ nhẹ nhàng đi vào lòng người, trong khung cảnh của buổi chiều tàn đó, có sự quan sát nhỏ bé của nhân vật Liên, tâm hồn của Liên được miêu tả: Liên không hiểu sao nhưng Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của buổi chiều tàn, lòng Liên đội lên những tình cảm dành cho những đứa trẻ con nhà nghèo đang nhặt nhạnh những thứ còn vương vãi trên nền đất của chợ phố huyện nghèo. Liên có những cảm nhận tinh tế: Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này. Chi tiết không chỉ tiếp tục cho thấy tâm hồn nhạy cảm của cô bé mà còn thể hiện rất rõ sự gắn bó, thân thuộc, thấm thía của Liên trước nỗi nghèo khó của phố huyện mình.
Trước giờ khắc của ngày tàn, nhân vật Liên xuất hiện với những nét tâm trạng hết sức nhẹ nhàng, tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, trong sáng, thánh thiện. Những rung động trong tâm hồn Liên khiến mỗi người phải suy ngẫm về cuộc sống xung quanh. Hình ảnh mà Liên và An hi vọng trong ngày tàn đó là hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện, chuyến tàu như mang một diện mạo mới cho phố huyện đang chìm ngập trong màn đêm tối tăm. Đó là hình ảnh của thế giới khác thế giới tràn ngập ánh sáng mà chị em Liên và An từng sống khi bố chưa mất việc, hai chị em được sống trong thế giới tràn đầy ước mơ, hi vọng được thưởng thức những cốc nước xanh đỏ, được đi dạo ven bờ hồ. Thế nhưng thế giới ấy bỗng dưng đóng sập lại trước mặt hai chị em Liên và An đổi lại bằng thế giới khác đó là phố huyện nghèo tăm tối với những con người kì dị.
Đó là hình ảnh cụ Thi dở người, là hình ảnh nghèo khổ của mẹ con chị Tí, là hình ảnh lam lũ của bác Siêu bên gánh phở rong, tất cả những hình ảnh đó đều khiến cho ước mơ của hai chị em Liên và An bị dập tắt, hai chị em như đang sống một cuộc đời bế tắc, cùng cực, không tương lai, không hi vọng. Nhưng ẩn đằng sau những tâm hồn nhạy cảm ấy là khát khao được đổi đời được vươn đến những miền ước mơ xa xôi, dù đêm đã khuya nhưng chị em Liên và An vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm trong ngày, chuyến tàu đêm từ Hà Nội về nơi để lại cho chị em những kỉ niệm, những dấu ấn khó phai. Liên luôn mong ngóng chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua để được chiêm ngưỡng thức ánh sáng từ phố huyện, hay để được mơ ước đến những miền xa xôi hơn nữa.
Liên là cô bé có tâm hồn nhạy cảm, cô bé rất yêu đời và thiết tha với cuộc sống, cô mong muốn có một cuộc sống đầy ước mơ, tương lai và hi vọng nhưng cuộc đời với những sự cay nghiệt và khắc khổ của nó đã không cho em có cơ hội thực hiện những giấc mơ lớn của mình. Liên là cô bé có tình thương bao la đối với con người em xót xa cho những đứa trẻ con nhà nghèo phải lam lũ, vất vả kiếm sống, điều này cho thấy tâm hồn cao đẹp và trong sáng của Liên. Đối với hai chị em, chuyến tàu đêm đi qua đã thắp sáng trong hai chị em giấc mơ, khát vọng được đổi đời được hòa mình vào dòng chảy của cuộc sống, được sống một cuộc đời đầy đủ và hạnh phúc. Thạch Lam đã rất tinh tế khi lồng ghép hình ảnh chuyến tàu đêm vào trong câu chuyện, hình ảnh ấy là một sáng tạo độc đáo, đắt giá của tác giả.
Chuyến tàu đêm đi qua phá tan sự im lặng, bình yên ngày thường của phố huyện, nó đem đến một thế giới rực rỡ, lộng lẫy gấp nhiều lần so với thế giới của hai chị em đang sống, đó là chuyến tàu khơi gợi kỉ niệm ước mơ, đó là chuyến tàu thắp lên niềm tin, hi vọng vào tương lai của hai chị em, đó cũng là chuyến tàu báo hiệu sự đổi thay sẽ phá tan màn đêm đang bao phủ khắp phố huyện, chuyến tàu của những hoài bão, chuyến tàu của những say mê và khát khao hạnh phúc. Chắc hẳn Liên phải là một cô bé tốt bụng, yêu đời thì mới có thể nhạy cảm với những hình ảnh đi ngang qua phố huyện như thế, em phải mở lòng mình với cuộc sống, với cuộc đời thì mới có thể cảm nhận hết những khát khao, hoài bão, ước mơ của chính mình.
Những tháng ngày tươi đẹp ở Hà Nội là những tháng ngày Liên được sống được tận hưởng và được trải nghiệm những khoảng thời gian thú vị, vui vẻ, hơn thế nữa những kí ức ở Hà Nội khiến Liên không thể nào quên được một thế giới tràn đầy ánh sáng, đầy niềm tin. Và khát khao đó kéo dài đến khi Liên và An chuyển về phố huyện, chứng kiến biết bao mảnh đời sống ở nơi đây, Liên và An cảm thấy nghẹn ngào, tủi hờn vì một cuộc sống nhọc nhằn khổ cực. Còn tuổi ăn và chơi Liên và An đã phải trông hàng giúp mẹ, hình ảnh ấy dường như quá đối lập đối với những ngày tháng rực rỡ khi hai chị em còn ở Hà Nội được thưởng thức những cốc nước xanh, đỏ.
Hình ảnh khiến mỗi người nhớ nhất về hai chị em đó là dù trời đã về khuya, đêm đã tàn nhưng hai chị em vẫn thức để đợi chuyến tàu đêm cuối cùng đi ngang qua phố huyện, hai chị em: ngước mắt lên các vì sao để tìm sông Ngân Hà hay con vịt theo sau ông Thần Nông. Chi tiết này bộc lộ tâm hồn ngây thơ, trong sáng của Liên và An. Phải có tình yêu mãnh liệt với cuộc sống, phải có ước mơ, hoài bão thì cả Liên và An mới có thể sống trọn vẹn cuộc đời của mình.
Nhân vật Liên để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng của độc giả, khiến người đọc cứ trầm trồ, ngẫm nghĩ về số phận của những mảnh đời bất hạnh nhưng khát khao được bay xa, bay cao.
Bằng sự nhạy cảm tinh tế của một nhà văn, bằng nghệ thuật viết văn điêu luyện, Thạch Lam đã cho chúng ta thưởng thức những trang văn thấm nhuần xúc cảm, những trang văn lột tả được tâm lý nhân vật và thấu hiểu vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật đó, ông đã tìm ra cái đẹp khắp hang cùng ngõ hẻm, đã đi sâu vào lòng người bởi giọng văn ấm áp và tinh tế. Thạch Lam đã thực sự để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 3
Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả, thầm lặng chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy cảm của ông, cũng như điểm nhìn của tác giả. Nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một trong số những nhân vật điển hình của ngòi bút Thạch Lam. Sự nhạy cảm, sự chuyển biến tâm trạng nhân vật Liên gợi ra nhiều nét tâm trạng của một cô gái mới lớn. Những nét tính cách của Liên được bộc lộ qua những chi tiết nhỏ nhặt trong truyện ngắn, hay chính là những sự thay đổi trong tâm tư tình cảm của tác giả.
Tâm trạng nhân vật Liên trong tác phẩm được thể hiện qua nhiều giai đoạn, nhưng có lẽ tâm hồn của một cô gái sẽ có sự nhạy cảm hơn khi cảnh chiều tà và ngày tàn buông xuống. Với một cô gái trẻ đầy suy tư những đường nét, âm thanh và màu sắc của chiều xuống càng khiến cho tâm trạng cô thêm lâng lâng khó tả. Buổi chiều ấy bắt nguồn từ những âm thanh quen thuộc, tiếng trống thu không vưng ra từng tiếng, gọi buổi chiều về, hình ảnh của những đám mây hồng ở cuối trời do ánh mặt trời hắt lên. Dưới con mắt của một cô gái, hình ảnh hoàng hôn thật khác. Trên nền áng mây ấy những ngọn tre cao vút như in hình và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Trong gian hàng đơn sơ chỉ có mấy thức hàng đơn giản âm thanh của tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, đến cả tiếng của những con muỗi vo ve, mà Liên cũng cảm nhận được. Chứng tỏ rằng không gian bây giờ rất yên tĩnh, ngoài Liên ra, không khí thật chìm vào buổi hoàng hôn,người ta thấy được sự chuyển đổi đó khi nhắc tới những âm thanh những dấu hiệu quen thuộc của một buổi chiều tà. Trước sự thay đổi của đất trời, cộng với mùi hơi đất bốc lên hay chính mùi đất mà chính phố huyện này mới có, nghĩ rồi Liên lại có một nỗi buồn man mác, có lẽ là do suy nghĩ của Liên về cuộc sống nơi đây, nghèo nàn, cái phố huyện tàn tạ. Những nét vẽ của đồng quê, với hình ảnh quen thuộc nhưng những âm thanh và cả buổi chiều êm như nhung đó, dưới con mắt của một cô gái nó lại trở thành cái cớ cho sự buồn lâng lâng không rõ vì sao.
Tâm trạng nhân vật Liên – một cô gái 9 tuổi còn được thể hiện qua cái nhìn của cô trong bức tranh thiên nhiên và con người khi chợ tàn. Xuất hiện giữa cảnh chợ tàn là hình ảnh của những người bán hàng vẫn đang nán lại dù đã vãn chợ từ lâu,mấy đứa trẻ con thì nhặt nhạnh những thứ còn sót lại, đó chỉ là những thanh tre thanh nứa thôi, nhưng chúng cũng tỏ ra mải mê với công việc. Hình ảnh những rác rưởi vỏ cùng với những gì xuất hiện trong đầu một cô gái khiến cho cô buồn. Buồn không chỉ là do cô cảm thấy cuộc sống của cả những người ở đây đều nghèo khổ như cô mà còn chính cô cũng buồn vì không thể giúp được gì cho họ, kể cả những đứa trẻ. Một vài chi tiết nhỏ nhặt vậy nhưng lại nói lên được nhiều điều, tâm sự của một cô gái. Điều này còn cho thấy Liên là một người giàu lòng trắc ẩn.
Đêm xuống hình ảnh của cuộc sống cũng nhanh chóng chìm vào bóng tối, khiến cho Liên buồn hơn nhưng có lẽ nỗi buồn đó đã quá quen thuộc đối với cô. Hình ảnh của phố huyện chìm vào bóng tối, cách tác giả lấy ánh sáng để miêu tả bóng tối thật đặc sắc.Khi chợ tàn đi đêm bắt đầu buông xuống,Liên mở gian hàng mà cứ ngồi trên chõng tre ngắm ngía nơi ở của mình. Tất cả những hoạt động đều được Liên quan sát bằng một tình cảm yêu thương cái vùng quê hương của bản thân mình. Đó là hình ảnh ánh sáng và bóng tối quen thuộc nơi đây. Liên mơ màng ngồi trên chiếc chõng mà ngắm cảnh tượng ấy, dường như Liên đã đưa mắt đi khắp nơi để tìm kiếm những nguồn sáng trong không gian phố huyện: đó là những hột sáng, những khe ánh sáng từ ngọn đèn, phên nứa khiến cho cát cũng hiện lên lóng lánh như những hạt vàng. Đó còn là ánh sáng của hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh thế nhưng không xua được bóng tối của màn đêm. Khi đêm đến cả phố huyện chìm trong một màn đêm không đáy. Và có lẽ Liên cảm nhận được, trong cô vẫn là một cảm giác mơ hồ buồn.
Hình ảnh của mẹ con chị Tí với gánh hàng nước vẫn mở, ban ngày mẹ con chị mò cua bắt tép đêm đến mẹ con chị lại mở quán nước để kiếm thêm. Bên cạnh đó là gia đình nhà bác Sẩm với hình ảnh manh chiếu rách và hình ảnh đàn bầu, đứa con bò ra nghịch cát, bác chưa hát vì chưa có ai nghe. Còn bác Siêu thì lật đật với gánh hàng phở để đi cũng đi đến. Trong Liên cảm nhận được tất cả sự cố gắng của tất cả mọi người vì cuộc sống mưu sinh. Đặc biệt tình cảm và yêu thương trắc ẩn của Liên thể hiện tình thương với bà cụ Thi điên. Ngày nào bà cũng đến quan mua rượu uống rồi lại lảo đảo bước ra cười khanh khách. Liên rót đầy rượu cho bà cụ, không nói gì về hành động hay nhận xét gì về cụ nhiều nhưng qua cách kể, Liên cũng bộc lộ sự yêu thương qua cách Liên nghĩ tới nhân vật này.
Thêm một chút gia vị cho tâm hồn liên, hình ảnh con Tàu đêm đến sẽ khiến cho những con người nơi đây kiếm thêm chút gì đó, và Liên cũng thế. Chị em Liên cũng thao thức chờ cho đến khi tàu tới mới thôi. Và cũng chính con tàu là nguồn sáng đưa hai chị em sống về những kí ức thời còn sung sướng, được đi chơi và uống những thức uống xanh đỏ. An đã ngủ rồi, Liên cứ ngồi trên chõng mong đợi thao thức.
Khi tàu đến vừa bừng sáng phố huyện nghèo vừa mang đến những nét vui trên gương mặt của những người nơi đây, khi họ mong tàu như mong một tương lai tươi sáng hơn còn chị em Liên đặc biệt là Liên, cô không muốn quên đi một quá khứ đẹp đẽ ngày nào. Liên đang tìm đến những niềm vui trong quá khứ để bù đắp cho những khó khăn hiện tại của gia đình. Đối với Liên mà nói con tàu là miền kí ức tuổi thơ trở về chính vì thế mà cô luôn trân trọng và muốn nhìn thấy nó qua hình ảnh đoàn tàu. Ánh mắt của Liên tập trung vào ánh sáng của tàu, ánh sáng đó như mở ra bao nhiêu kí ức kỉ niệm, cũng là niềm khát khao của cô khi muốn theo những ánh sáng đó tìm kiếm những điều đẹp đẽ nơi xa xôi mà ngay ở nơi phố huyện nghèo này sẽ rất lâu nữa mới có được. Khung cảnh khi ánh mắt Liên nhìn cho tới khi ánh sáng đó chỉ còn một chút le lói nữa mới thôi cũng cho ta càng hiểu thêm điều đó. Dù không bán được gì, hay cô không mong chờ gì nhiều khi hành khách trên tàu có thể xuống và mua nhiều thứ cho gian hàng của cô, mà đợi tàu là mong đợi những con người từ mọi miền, hương vị của kí ức chảy qua..
Chỉ là một cô gái nhỏ nhưng tâm hồn của cô chẳng khác gì một thiếu nữ trưởng thành, cùng với đó là sự nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn mà không phải ai cũng có. Sự yêu thương cảm thông và cả những ước mơ lẫn kí ức đẹp đẽ đa tạo nên một hình ảnh rất đặc biệt, qua đây cũng thể hiện tâm hồn của chính tác giả Thạch Lam.
Khi miêu tả tâm trạng nhân vật Liên, Thạch Lam muốn thể hiện được sự nghèo khổ hiện thực chua xót ấy nhưng vẫn mang những nét thi vị của chốn bùn lầy nước đọng và cũng là sự cảm thông sâu sắc đối với những nhân vật nhỏ bé của mình.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 4
“Thạch Lam là nhà văn mở đầu cho một giọng điệu riêng: trữ tình hướng nội trong truyện ngắn. Ngòi bút của ông thường khơi sâu vào thế giới bên trong của cái “tôi”, với sự phân tích cảm giác tinh tế”. Thạch Lam – nhà văn thành công với nghệ thuật miêu tả thế giới nội tâm nhân vật. Liên – cô gái mới lớn mang tâm hồn nhạy cảm với cuộc sống khi buồn man mác trong cảnh chiều tà, buồn sâu thăm thẳm lúc về đêm đặc biệt là điểm nhấn tâm trạng “mơ hồ khó hiểu” và háo hức, hồi hộp, vui mừng lúc chờ tàu trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” đã minh chứng cho tài năng của ông.
“Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam được in trong tập “Nắng trong vườn”_tập truyện ngắn viết về hiện thực cảm động với văn phong lãng mạn, nội dung sâu sắc và đầy tính nhân văn của ông được nhiều độc giả đón nhận.
Truyện không có chuyện – đặc trưng cho thể loại truyện ngắn của Thạch Lam kể về cuộc sống của những kiếp người lay lắt nơi phố huyện, đặc tả đi sâu vào thế giới nội tâm của Liên. Nếu như ở khỏang thời gian lúc chiều tà và đêm tối bóng đen bao phủ lên cảnh vật với những kiếp người nghèo khổ khiến cho Liên – một cô bé có tâm hồn tinh tế và nhạy cảm luôn mnag trong mình cảm giác buồn man mác thì khi về khuya khoảnh khắc đoàn tàu từ Hà Nội về sắp chạy qua khiến cho tâm trạng cô thay đổi hẳn đó là sự cộng hưởng của quá khứ, hiện tại và tương lai.
Liên mang trong mình cảm giác mơ hồ khó hiểu khi nào? Đó là lúc chờ tàu đến Cô thả hồn mình quan sát cảnh vật thiên nhiên trên trời những ngôi sao sáng lấp lánh, dưới mặt đất là con đom đóm bám dưới mặt lá sang nhấp nháy, cô lắng mình cảm nhận từng đợt hoa bàng rơi trên vai thật nhẹ nhàng, dịu êm. Rồi cô quan sát tất cả những con người nơi đây. An buồn ngủ mí mắt sắp rơi xuống vấn cố nhắc chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”, mẹ con chị Tí vẫn “phe phẩy cành chuối khô đuổi ruồi bò trên mấy thức hàng”, vợ chồng bác xẩm góp chuyện bằng khúc đàn bầu, thằng con thì bò cả ra đất, bác Siêu vẫn với gánh phở mong có người mua hàng… họ vẫn cố thức đợi tàu “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Những con người ấy họ sống vất vả cực nhọc trong tăm tối được Liên thu vào trong tầm mắt của mình. Liên thương cảm cho số phận của họ, cô cũng thương cho chính mình. Sự lãng mạn của cảnh vật và cái hiện thực của cuộc sống con người đan xen vào nhau không chỉ khiến cho Liên mơ hồ khó hiểu mà còn làm cho người đọc người nghe cảm thấy băn khoăn, trăn trở về cuộc sống của những kiếp người nghèo khó.
Tâm trạng thứ hai của Liên khi chờ tàu là sự háo hức mong đợi. Liên dù buồn ngủ ríu cả mắt lại nhưng vẫn cố thức để chờ chuyến tàu đi qua ngày nào cũng vậy, không phải như lời mẹ dặn là để bán được ít hàng mà tại vì lí do khác. Đó là chuyến tàu của khát vọng tương lai. Chuyến tàu đem đến một thế giới khác với ánh sáng trưng của các toa đèn, ánh sáng lấp lánh của đồng và kền, đốm than đỏ rực bay lung lung xé toạc bầu trời tăm tối. Âm thanh của đoàn tàu ồn ào, náo nhiệt với tiếng còi vọng, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng huyên náo của hành khách phá tan sự tĩnh lặng, u sầu của không gian. Liên háo hức, mong chờ nhìn thấy sự đổi thay mà đoàn tàu mang đến. Chuyến tàu còn đưa Liên trở về với kí ức xưa với “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”_nơi mà gia đình cô còn khá giả, hai chị em còn được vui chơi. Đoàn tàu vừa là kỉ niệm đẹp của tuổi thơ vừa là hy vọng ở ngày mai. Thạch Lam thật là tinh tế và sâu sắc khi phát hiện ra khao khát vừa đáng thương vừa đáng trân trọng ấy để cho nhân vật của ông dù sống trong nghèo khó nhưng không tuyệt vọng mà vẫn không ngừng hy vọng, ước mơ. Dù chỉ xuất hiện trong thoáng chốc nhưng có còn hơn không, nó mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc đúng như Xuân Diệu đã từng viết “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Liên cùng biết bao người dân huyện nghèo háo hức, mong chờ đoàn tàu là bởi lí do ấy. Nhà văn Thạch Lam phải là một con người có lòng thương cảm đối với những số phận nghèo mới có thể viết nên những câu chuyện, khắc họa những mảnh đời và lột tả được nội tâm sâu thẳm của nhân vật với những câu văn trữ tình đặc sắc. Tâm trạng của liên khi chờ tàu khiến cho người đọc có nhiều sự cảm thông, thương xót mà cũng rất đáng trân trọng với bài học nhân sinh sâu sắc.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 5
Thạch Lam là một nét chấm phá khác biệt của văn học lãng mạn. Giữa thời điểm người ta tìm cái lãng mạn ở cuộc sống thị thành thì Thạch Lam lại hướng ngòi bút của mình để trân trọng nâng niu những mơ ước khát khao đẹp đẽ của những con người nghèo khổ. Tình cảm nhân văn ấy được thể hiện rất rõ trong truyện ngắn Hai đứa trẻ khi Liên đang chờ chuyến tàu đêm đi qua phố huyện.
Liên và An vốn là những đứa trẻ từng được sống ở Hà Nội, nơi thị thành ngập tràn ánh sáng và mơ ước. Nhưng gia đình sa sút, nên các em phải chuyển về nơi phố huyện nghèo nàn sinh sống. Xung quanh họ là những kiếp người nhỏ bé đáng thương, sống trong bóng tối: chị Tí ngày mò cua bắt ốc, đêm bán nước; bác Siêu với gánh phở luôn ế hàng, bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách đầy ám ánh,… “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Và mong ước ấy được thể hiện rõ nhất trong cảnh Liên chờ đoàn tàu cuối cùng đi qua phố huyện.
Liên đã từng sống cuộc sống sung sướng, hạnh phúc, được sống ở nơi tràn đầy ánh sáng, bởi vậy khi chuyển về đầy mặc dù đã quen với cái bóng tối ngập đầy khắp ngõ làng nhưng ở trong Liên vẫn dấy lên khát khao, hi vọng được hướng về Hà Nội xa xăm mà rực sáng. Liên đợi đoàn tàu đi qua không phải chỉ đến bán được thêm phong diêm hay điếu thuốc mà để thoát khỏi thực tại nhàm chán buồn tẻ, đơn điệu dù chỉ trong khoảnh khắc. Trong hành động tưởng như vô thức ấy lại chứa đựng những ước mơ, những khao khát cao đẹp của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế đang trong tuổi mới lớn.
Nghe tiếng bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi” cùng lúc đó Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc như ma trơi xuất hiện. Liên lắng tai nghe, lắng lòng mình để nắm bắt trọn vẹn khoảnh khắc con tàu đi qua. Những làn khói trắng sáng từ đằng xa rồi tiếp đến những tiếng hành khách ồn ã vọng tới, Liên ngay lập tức gọi em dậy để có thể nhìn thấy đoàn tàu rõ hơn. Vẫn như mọi khi cô nhận ngay ra “các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền vàng lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Một không gian rực rỡ, sang trọng hiện ra trước mắt cô bé, đó là hình ảnh của cuộc sống sung túc, đẹp đẽ, của một Hà Nội rực sáng mà cô đã từng được sống. Nhưng nhanh chóng Liên cũng nhận ra những thay đổi của chuyến tàu đêm nay: “Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn”. Cô cố nhìn theo đóm lửa xanh cho đến khi nó xa dần và khuất vào bóng đêm, đoàn tàu đi để lại niềm tiếc nuối trong lòng. Liên đợi tàu đây không phải lần đầu tiên, có lẽ từ ngày sống ở phố huyện đêm nào Liên cũng lặng lẽ chờ tàu đi qua, và có lẽ đêm nào trong cô cũng dâng lên những tiếc nuối như vậy. Qua đó ta mới thấy được khao khát thay đổi cuộc sống, khát khao đổi đời trong cô mãnh liệt đến thế nào. Khi đoàn tàu qua đến cả không gian bừng lên rực rỡ bao nhiêu thì lúc nó đi khỏi phố huyện đêm tối, lặng lẽ bấy nhiều, cả không gian bị bao bọc bởi bóng tối, và những âm thanh ảm đạm: “Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”.
Hình ảnh đoàn tàu mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. Đó là hình ảnh của quá khứ đẹp đẽ, của thế giới thần tiên mà Liên đã từng được chung sống. Nó còn là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà Liên, An cũng như người dân phố huyện đang khao khát hướng đến. Thông qua hình ảnh đoàn tàu Thạch Lam đã thể hiện niềm xót thương cho số phận những đứa trẻ và người dân phố huyện. Đồng thời ông cũng trân trọng những mơ ước đổi đời tha thiết của họ.
Tác giả đã sử dụng thành công bút pháp miêu tả: miêu tả đoàn tàu khi qua lồng vào đó là sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối; miêu tả tâm trạng nhân vật Liên với những nắm bắt tinh tế, nhanh nhạy khi đoàn tàu đi qua phố huyện và mơ ước đổi đời của em cũng như biết bao người. Hình ảnh giàu tính biểu tượng (đoàn tàu) chứa đựng nhiều thông điệp giàu ý nghĩa.
Qua tâm trạng của nhân vật Liên khi chờ tàu, Thạch Lam đã gửi để thông điệp sâu sắc và ý nghĩa đến với người đọc: phải vượt thoát cuộc sống nghèo nàn, tù túng đơn điệu để vươn đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Đây mới là cuộc sống thực sự của con người. Đồng thời qua đoạn trích cũng thể hiện tài năng bậc thầy của tác giả trong năm bắt và miêu tả tâm lí nhân vật.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 6
Văn học trung đại Việt Nam khép lại ở cuối thế kỉ XIX nhường lối cho văn học hiện đại phát triển. Thời kì này thể loại văn xuôi thành công nhất được kết tinh ở tiểu thuyết và truyện ngắn. Nhắc đến truyện ngắn ta phải nhắc đến Thạch Lam – “Cây bút có biệt tài về truyện ngắn”. Đặc trưng truyện ngắn của Thạch Lam là truyện không có chuyện song vẫn có sức lôi cuốn riêng, con người hiện thực dưới cái nhìn và ngòi bút của ông “không dữ dội như Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao hay bị đày đọa như chị Dậu của Ngô Tất Tố” nhưng vẫn để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc. Và nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là con người như thế. Một con người có một tâm hồn tinh tế và nhạy cảm được nhà văn quan sát và thể hiện qua diễn biến tâm trạng của cô từ lúc chiều tối cho đến đêm khuya với hai trạng thái cơ bản là nỗi buồn triền miên và niềm vui thoáng chốc khi đoàn tàu đến.
Liên và An – hai nhân vật chính của câu chuyện đã một thời từng sống ở Hà Nội với biết bao điều vui tươi, mới mẻ. Kể từ khi cha cô bị mất việc, cả nhà lâm vào hoàn cảnh khó khăn phải chuyển về quê – nơi phố huyện nghèo để sinh sống. Hai chị em được mẹ giao cho việc trông nom cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu có dán giấy nhật trình. Hàng bán là mấy thứ vặt vạnh như: bánh xà phòng, bao diêm hay gói thuốc… để mong kiếm ít thu nhập phụ giúp gia đình nhưng chẳng đáng là bao.
Liên là một cô gái mới lớn luôn mang trong mình một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật xung quanh và những con người nghèo khó. Trong truyện tác giả đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm nhân vật, được thể hiện rõ nét qua diễn biến tâm trạng của cô ở tại mỗi thời điểm.
Trước tiên là nỗi buồn. Cô buồn khi nào? Ngay từ khi vào truyện tác giả đã gợi nhắc nỗi buồn của cô gái có tâm hồn tinh tế qua việc tả cảnh chiều tà. Cô buồn khi một ngày sắp qua đi được báo hiệu bằng tiếng trống thu không vang vọng rời rạc từng tiếng một. Buồn khi nghe tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Buồn khi bóng tối lan dần bởi “dãy tre làng trước mặt đen lại” trên bầu trời là ánh hoàng hôn rực rỡ ở phía Tây như lửa cháy và đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn điểm thời khắc của màn đêm buông xuống có mùi của ẩm mốc và hơi nóng ban ngày bốc lên hòa quyện vào nhau tạo thành mùi của cát bụi, mùi của quê hương. Không chỉ vậy cô buồn khi phải chứng kiến những mảnh đời nghèo khó sống đơn điệu xung quanh mình. Đó là mẹ con chị Tí với công việc của ban ngày là mò cua bắt tép, tối thì trông chờ vào gánh nước chè. Đó là những đứa trẻ con nhà nghèo “lom khom” nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì còn dùng được của người bán hàng bỏ lại. Rồi cả bà cụ Thi “một bà già hơi điên” hay ra chỗ Liên mua rượu đi ra từ bóng tối và cũng trở về với bóng tối trong tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng. Tất cả những cảnh vật ấy, con người ấy đều gợi lên cảm giác về sự tàn lụi, khơi sâu vào nỗi buồn thăm thẳm khiến cho Liên ngồi yên lặng để quan sát “đôi mắt chị bóng tối gập dần dần và cái buồn của buổi chiều quê thâm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Nỗi buồn man mác ấy thật khó diễn tả thành lời. Liên cảm nhận nỗi buồn xa xăm, sâu sắc đang lan tỏa khắp không gian cho thấy một tâm hồn nhạy cảm, ánh lên vẻ đẹp tình yêu quê hương đất nước và tình thương của tác giả dành cho những người nông dân nghèo khổ.
Nỗi buồn của Liên không chỉ dừng lại ở đó mà còn nhân lên gấp bội lần khi bóng đen bao phủ không gian trong đêm tối “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Trên trời hàng ngàn ngôi sao lấp lánh. Dưới mặt đất, những con đom đóm bay là là. Không gian vắng lặng, bình yên đến tĩnh mịch, u buồn bởi “Các nhà đều đóng cửa im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức chỉ hé ra một khe sáng”. Liên thu vào trong tầm mắt của mình tất cả cảnh vật nơi đây để rồi cô nhận ra những đốm sáng leo lét, yếu ớt không những không làm cho bầu trời thêm sáng mà càng trở nên tăm tối hơn cũng giống như những kiếp người sống lay lắt của cư dân nơi phố huyện. Là ánh sáng leo lét của bác phở Siêu, ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hột sáng của chị em Liên, và “tất cả phố xá trong huyện đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Những con người ấy cứ lặp đi lặp lại một cuộc sống đơn điệu, nhàm chán ngày qua ngày để cầm cự, chống chọi với thời gian. Đúng như Huy Cận đã từng viết: “Quẩn quanh mãi cũng vài ba dáng điệu/ Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người”. Vẫn là mẹ con chị Tí ngồi dưới gốc bàng với bát nước chè xanh, vẫn là chị em Liên hay những đứa trẻ con nhà nghèo không được hưởng tuổi thơ trọn vẹn, vẫn là gia đình bác Siêu trông chờ vào gánh phở ế ẩm gánh đi rồi lại gánh về như “một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra” bởi món hàng của bác cũng là một thứ quà xa xỉ của những người dân cơ cực. Vẫn là gia đình bác xẩm một mảnh đời vất vả với manh chiếu rách, cái thau trắng trước mặt để chờ đợi những giọt hạnh phúc hi hữu rơi xuống. Những kiếp người lay lắt, tội nghiệp với cuộc sống tẻ nhạt không tương lai, không lối thoát. Liên ngậm ngùi cảm thương cho số phận của họ, cô cũng thương cho chính mình phải chịu cảnh buồn tẻ.
Tuy nhiên cuộc sống không chỉ toàn là nỗi buồn mà còn có những niềm vui ánh lên ước mơ, cho ta hy vọng ở một ngày mai tươi sáng. Tâm trạng của Liên được thay đổi trở nên tươi mới hơn khi đoàn tàu đến. Đoàn tàu mang một thế giới khác, một trạng thái cảm xúc khác cho chị em Liên và những cư dân phố huyện. Liên và An đợi tàu trong tâm trạng háo hức, chờ đợi mòn mỏi đêm nào cũng để ngắm nhìn đoàn tàu đi qua rồi mới ngủ. Thằng bé An dù đã buồn ngủ ríu mắt vẫn nhắc “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Trong lòng chúng luôn mong chờ một điều gì đó chứ không phải là mong bán được hàng như lời mẹ dặn. Cũng như lũ trẻ người dân phố huyện cũng mong muốn được nhìn thấy đoàn tàu bởi nó mang một thế giới khác hẳn với ánh sáng của ngọn đèn chị Tí, ngọn lửa bác Siêu hay hột sáng thưa thớt của đèn chị em Liên. Những ánh sáng ấy rực rỡ, kiêu xa xua đi màn đêm tăm tối. Có làn khói bừng trắng lên đằng xa, các toa đèn sáng trưng, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng, rồi những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Thứ ánh sáng ấy khiến cả phố huyện sáng rực, cả vũ trụ như được hồi sinh sống lại bởi những âm thanh nhộn nhịp tiếng còi từ xa vọng lại, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng tàu rầm rộ đi tới, tiếng hành khách nói chuyện… làm tan đi cái không khí ảm đạm, vắng vẻ của phố huyện. Liên cũng như bao người dân vui mừng và hạnh phúc, hi vọng cũng đưa cô mơ về một Hà Nội xa xăm, hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp khi gia đình cô còn dư giả ở thị thành nhộn nhịp. Chuyến tàu như một giấc mơ, một vệt sao băng sáng lóe trên bầu trời tăm tối và lặng im nơi cô đang sống. Chuyến tàu cho cô và những con người nơi đây một ước mơ, một niềm vui, một khát vọng ở tương lai tốt đẹp hơn. Chi tiết đó đã thể hiện cho tuyên ngôn của Thạch Lam về văn chương mà ông đã từng phát biểu: “Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Giá trị nhân đạo của truyện cũng nằm ở đây trong cái tăm tối cùng cực, bế tắc con người vẫn phải không ngừng vươn lên, không ngừng hy vọng, ước mơ để có một cuộc sống tươi sáng hơn ở tương lai.
Niềm vui trong phút chốc thoáng qua nhưng để lại biết bao dấu ấn, kỉ niệm trong tâm hồn Liên. Khi chuyến tàu qua đi tâm trạng của Liên là nuối tiếc “hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre” cũng là lúc cô trở về với nỗi buồn của bóng đêm “cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và hình ảnh thế giới quanh mờ mờ đi trong mắt chị” khi đã chìm vào giấc ngủ trong đêm khuya.
Diễn biến tâm trạng nhân vật Liên được nhà văn đi sâu lột tả, khám phá thật sâu sắc tỉ mỉ qua từng thời điểm khi buồn man mác, khi ngậm ngùi chua xót, khi háo hức mong chờ, khi hạnh phúc và hy vọng. “Ông tả nội tâm nhân vật tài tình, nhuần nhị, tinh tế” với văn phong lãng mạn, giàu chất thơ những câu văn mềm mại, êm dịu mà không thoát li hiện thực. “Về bút pháp, có thể nói Thạch Lam mở đầu cho một giọng điệu riêng: trữ tình hướng nội trong truyện ngắn” nhân vật Liên với những xúc cảm mong manh đã minh chứng cho tài năng của ông.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 7
Nhận xét về văn Thạch Lam, Nguyễn Tuân đã nhận định: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn từ những chân cảm đối với con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là nhà văn luôn quý mến cuộc sống, trân trọng sự sống của mọi người xung quanh”. Mạch cảm xúc của Thạch Lam thường bắt nguồn từ con người bình dị, cuộc sống bình dị. Ông tinh tế nắm bắt những rung cảm, những xúc cảm trong tâm hồn họ. Nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ đã thể hiện rõ biệt tài này của ông, đồng thời qua nhân vật còn thấy được tấm lòng trân trọng của nhà văn đối với con người.
Hai đứa trẻ là câu chuyện mà dường như lại chẳng phải truyện của ông. Tác phẩm lấy lát cắt của một buổi chiều tà như bao buổi chiều ta khác nơi phố huyện nghèo nàn, tù túng. Chân dung từ con người, từng số phận đều được chiếc máy quay của Thạch Lam nắm bắt. Nổi bật trong bức tranh đó là Liên, cô gái độ mười bốn, mười lăm tuổi với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế trước thiên nhiên, trước cuộc sống, đằng sau đó còn bừng lên những khát vọng, những mơ ước đẹp đẽ của nhân vật.
Trong khung cảnh buổi chiều tà, là một cô gái nhạy cảm Liên đã nhanh chóng năm bắt những khoảnh khắc, những chuyển động nhỏ bé nhất của thiên nhiên. Đó là tiếng trông thu không điểm vang từng nhịp báo hiệu chiều về, đó là phương Tây đỏ rực như lửa cháy với những đám mây như ngọn lửa sắp tàn, hay những âm thanh rất đỗi đồng quê là tiếng ếch nhái vẳng từ xa đưa vào. Cô gái nhỏ nắm bắt chọn vẹn từng khoảnh khắc, từng chuyển động, và “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị” “thấy lòng buồn man mác trước cái thời khắc của ngày tàn”. Không chỉ vậy, Liên còn cảm nhận được mùi vị riêng biệt của quê hương, của phiên chợ ngày tàn: “một mùi ẩm ẩm bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụ quen thuộc quá” mùi của quê hương thấm vào tâm hồn Liên, nó trở nên tha thiết sâu nặng trong lòng mỗi người. Trong khoảnh khắc chiều tà, ta không chỉ thấy sự tinh tế nhạy cảm của Liên trước biến chuyển của thiên nhiên mà còn thấy được tấm lòng nhân hậu, giàu lòng thương người của chị. Thấy những đứa trẻ lao động nghèo đang cố nhặt nhạnh những thứ còn sót lại sau buổi chợ, chị cảm thấ thương chúng nhưng bản thân mình lại không có tiền để cho. Thấy chị Tí xuất hiện, Liên ân cần hỏi han, lời kể về gia cảnh của chị Tí trong đó chứa dựng cả tình yêu, sự xót thương và ái ngại cho hoàn cảnh của chị. Từ xa nghe tiếng cười khanh khách của cụ Thi điên, Liên lẳng lặng rót một chén rượu đưa cho cụ và đứng sững nhìn theo cho đến khi cụ đi khuất hẳn. Đối với mỗi người Liên có những nỗi niềm và cảm xúc riêng, chị cảm thông cho bất hạnh của người này, ái ngại cho hoàn cảnh của người khác, bởi Liên thấu hiếu hoàn cảnh của họ, thấu hiểu nỗi cơ cực, sự cô đơn mà họ phải trải qua.
Khi bóng tối đã bao trùm hết cảnh vật, Liên thích thú ngắm nhìn cuộc sống xung quanh, chị đưa mắt hướng lên để cảm nhận vẻ đẹp của bầu trời đêm: “Vòm trời hàng ngàn ngôi sao lấp lánh, lẫn với các vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất len vào những cành cây” và tưởng tượng ra dòng sông ngân hà với hai con vịt đi theo chân ông thần nông. Thế giới truyện cổ tích với kỉ niệm tuổi thơ lại ùa về trong Liên, đó là những năm tháng còn sung túc, Liên được hưởng cuộc sống êm đềm hạnh phúc. Rồi Liên nhanh chóng cúi nhìn về mặt đất, để tìm thấy những luồng sáng khác xung quanh mình: đó là quầng sáng trên chõng hàng chị Tí, xa xa phía huyện là chấm lửa nhỏ và vang lơ lửng,… Trong bóng tối ngập đầy nhưng vẫn le lói đâu đây hình ảnh của ánh sáng và Liên là người cố công tìm ra chúng. Đó chỉ là những đốm sáng, vệt sáng tuy nhỏ bé, nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt khơi dậy trong Liên những mơ ước, niềm tin vào tương lai. Cái tinh tế trong tâm hồn Liên còn thể hiện trong cảm nhận về những bông hoa bàng nhỏ bé, mỏng manh khẽ khàng rơi trên vai. Phải là người có tâm hồn vô cùng tinh tế mới có thể cảm nhận đầy đủ những chuyển động nhẹ nhàng đó của thiên nhiên, vạn vật. Cảnh vật dưới con mắt cảm nhận của Liên tuy buồn nhưng thân quen, gần gũi, lặng lẽ quan sát những gì xảy ra ở phố huyện, Liên cảm thương, xót xa và chia sẻ với những kiếp người sống trong bóng tối cơ cực, bế tắc.
Nỗi buồn cùng bóng tối đã ngập đầy trong Liên, nhưng tâm hồn của chị vẫn luôn khắc khoải một mơ ước, một hi vọng đổi đời. Cô đi tìm nguồn sáng xua tan đi bóng tối: khe sáng, hột sáng, quầng sáng… Nhưng những nguồn sáng ấy dù phong phú nhưng nhỏ bé, mong manh, yếu ớt, không đủ để xua đi bóng đêm. Liên hoài niệm về quá khứ, để thấy một Hà Nội rực rỡ ánh đèn, nhưng đó chỉ là ánh sáng của hoài niệm. Cô tìm đến nguồn ánh sáng thứ ba chính là ánh sáng của đoàn tàu. Liên cố đợi đoàn tàu, bởi đây chính là khoảnh khắc cô vui sướng và náo nức nhất trong ngày. Đoàn tàu đi qua đã mang đến một thế giới khác, thế giới của ánh sáng, của âm thanh náo nức, ồn ã, … đối lập với nhịp sống nhàm chán, buồn tẻ ở phố huyện. Chuyến tàu này từ Hà Nội về còn mang theo biết bao kí ức tuổi thơ đẹp đẽ, êm đềm. Hơn thế nữa, sự xuất hiện của đoàn tàu còn giúp Liên thấy rõ sự ngưng đọng, tù túng của cuộc sống nghèo nàn, phủ đầy bóng tối nơi phố huyện.
Khắc họa tâm trạng nhân vật Liên, Thạch Lam đã cho người đọc thấy hiện thực cuộc sống nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng tám, từ đó cảm thương số phận và nâng niu, trân trọng những ước mơ của họ. Đồng thời, cũng gióng lên hồi chuông báo động về nguy cơ chết mòn trong cuộc sống đói khổ, tù túng của những kiếp người nhỏ bé. Qua đây thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của ông.
Nhân vật được khắc họa qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc. Ngôn ngữ giàu chất trữ tình, giàu hình ảnh biểu tượng. Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, thấm đượm chất thơ. Cốt truyện đơn giản, đi sâu vào mạch cảm xúc, diễn biến tâm trạng của nhân vật.
Bằng bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, đã cho ta thấy một nhân vật Liên tinh tế, nhạy cảm và giàu lòng trắc ẩn với cuộc sống xung quanh. Không chỉ vậy trong cô còn khơi dậy những mơ ước, hi vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Tấm lòng của Liên cũng chính là tám lòng của tác giả trân trọng, nâng niu những kiếp người nghèo khổ nhưng có lòng hướng đến tương lai.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 8
Thạch Lam là một trong số những cây bút lãng mạn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với lối viết giàu tâm tình, lời văn bình dị mà gợi cảm, những sáng tác của Thạch Lam luôn mở ra một thế giới thầm kín bên trong của con người với biết bao cảm tưởng, cảm giác và đọng lại trong lòng người đọc thật nhiều dư vị. Và có thể nói, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một trong số những sáng tác xuất sắc của Thạch Lam. Đọc thiên truyện, người đọc sẽ không thể nào quên được nhân vật Liên – một cô gái nơi phố huyện cũ với nhiều cung bậc cảm xúc, vừa mơ hồ, mong manh, vừa tinh tế và ẩn chứa nhiều ý nghĩa.
Trước khoảnh khắc của ngày tàn, tâm hồn nhạy cảm của Liên đã có những rung động trước sự đổi thay của bức tranh thiên nhiên, cảnh vật. Thiên nhiên lúc chiều tàn nơi phố huyện vừa bình di, gần gũi vừa có gì đó xơ xác, tiêu điều. Đó là âm thanh của tiếng trống thu không, là tiếng kêu râm ran của những chú ếch, chú nhái, là tiếng muỗi đã bắt đầu vo ve. Đó còn là màu sắc, là hình ảnh của “phương tây đỏ rực” và “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”, là hình ảnh của dãy tre làng. Tất cả, tất cả những âm thanh, hình ảnh ấy đã quyện hòa vào nhau và tạo nên bức tranh phố huyện lúc chiều về, đồng thời, bức tranh ấy đã có tác động rõ nét đến tâm trạng, cảm xúc của Liên. Trước giờ khắc của ngày tàn, trong đôi mắt của Liên “bóng tối ngập đầy dần”, “cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tầm hồn ngây thơ của chị” và rồi “Liên thấy lòng buồn man mác”. Dường như, có một nỗi buồn ngập tràn và thấm thía trong nỗi lòng của Liên. Nhưng không dừng lại ở đó, Liên còn cảm nhận được vị riêng của đất, của quê hương đã thấm vào trong nỗi lòng, trong con người của chị, đó là “mùi ẩm mốc bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”. Đặc biệt, khi nhìn thấy hình ảnh của những đứa trẻ con nhà nghèo “cúi lom khom trên mặt đất nhặt nhạnh những gì còn sót lại sau phiên chợ”, Liên thấy “động lòng thương cảm”. Có lẽ cô thấy thương cho số phận của những đứa trẻ, cho những con người nơi phố huyện nghèo và thương cảm cho cả chính bản thân mình. Như vậy, có thể thấy, Liên là một cô gái có tâm hồn nhạy cảm và đầy lòng trắc ẩn, thương yêu con người.
Khi trời đã bắt đầu về đêm, khi bóng tối đã bao trùm lấy cả không gian phố huyện nghèo, trong Liên lại hiện lên bao nỗi niềm cảm xúc. Trước hơn cả đó chính là Liên đưa mắt nhìn về phía vòm trời xa xa để tìm lấy niềm vui với bao điều bí mật và xa lạ của bầu trời đêm “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất” rồi liên tưởng chúng với dải Ngân Hà, với những nhân vật trong thế giới truyện cổ tích thần bí. Và để rồi, những kỉ niệm tuổi thơ với những tháng ngày tươi đẹp lại hiện về trong tâm hồn của Liên. Đó là những ngày tháng gia đình cô còn sống ở Hà Nội, được thưởng thức những món quà ngon và lạ. Nhưng giờ đây, tất cả đã là quá khứ, nó chỉ còn là một miền kỉ niệm không còn rõ rệt trong Liên, để cô lại quay về với cuộc sống thực tại, ngắm nhìn cảnh vật, cuộc sống của những con người phố huyện lúc đêm khuya. Đó là không gian với bóng tối ngập tràn khắp muôn nẻo, là những ngôi nhà đã “đóng cửa im ỉm” . Liên cố đưa mắt tìm ánh sáng nhưng có chăng chỉ là những vệt sáng nhạt nhòa, leo lét trong đêm tối, chỉ là vệt sáng, chấm sáng từ “ngọn đèn con của chị Tí”, “cái bếp lửa của bác Siêu”, ngọn đèn nhỏ trong cửa hàng của chị em Liên,… Bóng tối ngập tràn cảnh vật, còn cuộc sống của những con người phố huyện nghèo thì tẻ nhạt, đơn điệu, ngày này qua ngày khác vẫn mãi một công việc, một suy nghĩ. Trước cuộc sống của những con người nơi phố huyện lúc đêm khuya, Liên không thể không cảm thấy xót xa, cảm thông với những kiếp người nhỏ nhoi sống lay lắt trong bóng tối của cơ cực đói nghèo.
Dẫu nơi phố huyện nghèo, trong Liên luôn hiện hữu một nỗi buồn man mác nhưng đâu đó trong tâm hồn của cô vẫn luôn ánh lên một ánh sáng, một tia hi vọng, một mong ước và một sự đợi chờ trong đêm. Tất cả những nỗi niềm ấy của Liên được nhà văn Thạch Lam khắc họa rõ nét qua cảnh đợi tàu. Đêm nào cũng thế, dù thật muộn, nhưng những con người nơi phố huyện nói chung, chị em Liên nói riêng vẫn thức và háo hức chờ đợi chuyến tàu đi qua. Cũng như những người dân nơi đây, chuyến tàu chính là niềm vui duy nhất trong ngày của chị em Liên, bởi lẽ chuyến tàu ấy đã mang đến cho họ một thế giới khác với cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu của phố huyện. Và hơn thế nữa, đó là chuyến tàu ở Hà Nội về nên nó chở đầy ký ức tuổi thơ của hai chị em Liên,mang theo bao kỉ niệm, bao ánh sáng, bao hi vọng và mơ ước về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn để xua tan đi bóng tối ngập tràn nơi mảnh đất này. Như vậy, có thể thấy, việc chờ tàu là việc làm không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của chị em Liên. Cả hai chị em cô đều đón chờ chuyến tàu đêm đi qua với tâm trạng háo hức, vui sướng.
Tóm lại, với cốt truyện đơn giản, ngôn ngữ giàu hình ảnh cùng giọng điệu tâm tình, thủ thủ và ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” đã xây dựng thành công nhân vật Liên – một nhân vật với nhiều cung bậc tình cảm, cảm xúc tinh tế và xúc động. Đồng thời, qua nhân vật Liên cũng giúp chúng ta thêm hiểu và thêm trân trọng tấm lòng của nhà văn Thạch Lam với những con người nơi phố huyện nghèo.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 9
Thạch Lam được mệnh danh là một trong những cây bút lãng mạn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Với lối viết giản dị, giàu cảm xúc những tác phẩm của ông đã để lại nhiều suy tư trong lòng người đọc. “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm như vậy. Với lối viết bình dị, tâm tình cùng nhiều cung bậc cảm xúc, Thạch Lam đã tạo ra một cô bé Liên với nhiều suy tư, ẩn chứa nhiều ý nghĩa.
“Hai đứa trẻ” được đánh giá là một tác phẩm lạ bởi chất trữ tình đã khiến một tác phẩm truyện lại như không phải là truyện. Câu chuyện là mảnh ghép của những lát cắt của một buổi chiều tà nơi phố huyện nghèo nàn. Bước ra từ tác phẩm là hình ảnh của kiếp người khác nhau trong cái nơi tù túng, đói khổ đó. Ngần ấy con người, mỗi người một công việc, một số phận, một câu chuyện nhưng họ cùng có một điểm chung là cuộc sống hằng ngày quanh quẩn bên cái đói, cái nghèo. Và tất cả đều chỉ quan tâm đến miếng cơm manh áo nhưng nổi bật lên trong bức tranh ấy là hình ảnh Liên với những khát vọng và mơ ước đẹp đẽ.
Qua ngòi bút của Thạch Lam, Liên hiện lên với dáng vẻ của một cô bé như đang già đi trước tuổi bởi khả năng quan sát cùng tâm hồn tinh tế, nhạy cảm khó thấy được ở cái tuổi mười tám, đôi mươi. Ngay từ khi đứng trước khung cảnh của một buổi chiều tà, Liên đã cảm thấy long mình man mác buồn: “Cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của Liên, chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Nỗi buồn ấy là cái buồn mơ hồ, cái buồn của cái tuổi mới lớn, của một cô gái nhạy cảm với mọi cảnh vật xung quanh. Thạch Lam đã mở đầu tâm trạng buồn đấy của Liên bằng không gian của một chiều tối với tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài bờ ruộng. Cái khung cảnh ấy chính là khởi nguồn cho tâm trạng buồn bã của Liên. Và chính từ đây, trong cô dội lên một sự thương xót, đồng cảm đối với “những đứa trẻ con nhà nghèo” đang kiếm tìm, nhặt lại những mẩu vụn còn vương vãi trên nền đất của cái chợ quê nghèo.
Không chỉ quan sát, lắng nghe mà tâm hồn nhạy cảm của Liên còn cảm nhận được “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Phải thân thuộc, gắn bó với mảnh đất này, phải thấm thía bao nhiêu cái nghèo khổ, vất vả của nơi đây thì cô bé mới cảm nhận được cái hương vị quen thuộc nhưng lại chẳng mấy ai để ý đó? Đến những câu chữ này, Liên hiện lên trong suy nghĩ của người đọc không chỉ là một cô bé nhạy cảm nữa mà còn có một tâm hồn trong sáng, một trái tim giàu trắc ẩn.
Và trong cái thời khắc ngày tàn đó, hình ảnh duy nhất mà hai chị Liên đang mong chờ, hy vọng là chuyến tàu đêm đi qua phố huyện nhỏ. Đối với hai chị em chuyến tàu mang theo đó ánh sáng về một tương lai được quay trở lại với cuộc sống của những ánh đèn xanh đỏ, của đồ ăn ngon, của sự giàu có. Đó là thế giới khác hẳn với cuộc sống ở cái phố huyện nghèo này.
Liên là một cô gái còn rất nhỏ nhưng với trái tim biết cảm thông, biết yêu thương, với những mong ước được hướng về tương lai tươi sáng, Liên có những sự quan sát tỉ mỉ những con người nơi đây. Liên thấy một bà cụ Thi điên say rượu rồi bỗng bật cười khanh khách rồi những bước chân, dáng hình đó cũng dần chìm vào bóng đêm còn tiếng cười thì cũng xa dần, xa mãi. Đó là hình ảnh hai mẹ con chị Tí ngày ngày dọn gánh nước chè mưu sinh nhưng lại chẳng kiếm được bao nhiêu. Ta còn thấy trong bức tranh là hình ảnh của bác phở Siêu cả đêm chẳng kiếm được đồng nào, hình ảnh cả gia đình bác Sẩm “run rẩy” bên chiếc đàn bầu cùng tiếng nhạc cứ khắc khoải mãi không thôi. Phố huyện nghèo, con người hiện lên trong phố huyện cũng nghèo nàn như thế. Ngần ấy con người trong phố huyện ngày ngày chỉ biết sống lầm lũi trong bóng đêm, sống qua ngày. Cái nghèo đói, khổ sở dường như cứ bám theo họ hết ngày này qua ngày khác. Cô bé nhỏ tuổi ấy đã nhìn thấy được sự bế tắc trong cuộc sống của chính miền quê cô đang sống. Đồng cảm với họ, thấu hiểu họ chính vì thế Liên càng mong ngóng chuyến tàu đêm đi qua – thứ ánh sáng duy nhất mang theo cuộc sống phồn hoa, giàu có cho cả phố huyện này.
Kết thúc câu chuyện là hình ảnh hai chị em Liên cùng nhau ngắm nhìn đoàn tàu đi qua rồi khuất dần, biến mất để lại trong Liên bao tiếc nuối, suy tư: ““Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng” khiến người đọc không khỏi xót xa.
Có thể thấy, xuyên suốt câu chuyện là hình ảnh về một cô bé với tâm hồn nhạy, nhiều suy tư nhưng chính những mạch suy nghĩ đó của Liên đã phản ánh sự đối lập của hai thế giới: một bên là cuộc sống tươi đẹp, tràn ngập ánh sáng với bên còn lại là phố huyện nghèo nàn, vất vả. Từ đây Thạch Lam muốn cho người đọc thấy được cái cuộc sống đáng thương của những đứa trẻ nghèo, của những kiếp người nhỏ bé, vô danh trong cái xã hội khi mà đất nước vẫn đang chìm đắm trong nô lệ, nghèo đói.
Một tác phẩm theo khuynh hướng lãng mạn, một câu chuyện tưởng như không có cốt truyện nhưng lại lôi cuốn người đọc lạ kỳ bởi hình ảnh thiên nhiên, con người được miêu tả dù buồn, dù khổ cực nhưng vẫn toát lên những vẻ rất thơ của nó. Và chính cái bức tranh hiện thực chìm lấp sau cái thơ mộng trữ tình đó khiến người đọc càng thấm thía hơn cái giá trị nhân văn cốt lõi của tác phẩm để mà biết trân trọng hơn những giá trị đó.
Có thể nói Thạch Lam đã rất thành công trong việc xây dựng hình ảnh của Liên để từ đó gián tiếp truyền tải những triết lý sâu sắc của mình. Và có lẽ đây cũng chính là điều làm nên sự trường tồn cho tác phẩm.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 10
Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của Thạch Lam. Đó là một truyện ngắn trữ tình. Truyện không có truyện. Nhân vật là nhân vật trữ tình. Tất cả nội dung của chuyện đều xoay quanh tâm trạng cửa chị em một cô gái tên Liên, nhân vật chủ yếu của tác phẩm. Nhân vật của Thạch Lam nói chung là thế; không có suy nghĩ sâu sắc, thường chỉ thể hiện những cảm giác, những vui buồn nào đấy. Họ thường ngồi yên lặng lắng nghe tiếng nối thầm kín của lòng mình, ít phân tích lí giải đề xuất những khái quát triết lí như thường thấy ở nhân vật Nam Cao.
Nhưng đằng sau thế giới nhân vật với những tâm trạng như thế, người ta thấy thấp thoáng nhân vật tác giả, người kể chuyện. Nhân vật này thì giàu suy tư, thường phát biểu bằng một giọng nói dịu dàng nhỏ nhẹ những tư tưởng có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.
Tác phẩm tự nó chia làm ba đoạn:
Đoạn một: Tâm trạng Liên trước cảnh chiều muộn nơi phố huyện.
Đoạn hai: Tâm trạng Liên trước cảnh đêm tối nơi phố huyện.
Đoạn ba: Tâm trạng chị em Liên khao khát được thấy chuyến tàu đi qua phố huyện. Chính ở đoạn ba này, chủ đề của tác phẩm đã được phát biểu một cách sâu sắc và thấm thía. Chủ đề đấy chính là lời giải đáp cho câu hỏi: “Tại sao chị em Liên đêm nào cũng cố thức để được nhìn chuyến tàu qua?”.
Nhưng tác phẩm văn học là một chỉnh thể. Vậy muốn giải đáp câu hỏi trên, nhất thiết phải gắn đoạn ba với đoạn một, đoạn hai của thiên truyện.
Ba đoạn gắn bó với nhau theo logic tâm trạng của nhân vật Liên để cuối cùng tô đậm tư tưởng của truyện ở đoạn kết thúc.
Đoạn một thể hiện tâm trạng buồn của Liên trước quan cảnh tàn lụi của cảnh thiên nhiên và những cảnh đời nơi phố huyện lúc chiều muộn.
Tâm trạng này tác giả đà ghi rõ trong đoạn văn: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
Ngày tàn trước hết báo hiệu bằng tiếng trống thu không như gọi buổi chiều về. Phương tây tuy đỏ rực như lửa cháy nhưng cũng chỉ là ánh hồng của “hòn than sắp tán”. Bóng tối lấn dần, lấn dần… Nhìn xuống mặt đất là cảnh chợ tàn, không có gi vui bằng lúc chợ đông, nhưng cũng không có gì buồn hơn cảnh chợ tàn.
Đâu tiếng làng xa vắng chợ chiểu.
Câu thơ trong bài Tràng giang của Huy Cận thật buồn.
Buồn vì người ta về hết cả, tiếng ồn náo nhiệt cũng tắt. Sự sống như tàn lụi Cái nghèo phô bày không che đậy ở những rác rưởi bỏ lại, ò mấy đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những cái vặt vãnh còn có thể dùng được cửa những người bán hàng để lại…
Những con người quen thuộc với chị em Liên nơi phố huyện cũng vậy, đều là những cuộc đời tàn lụi: cái hàng nước lèo tèo của chị Tí thì ế khách (“Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì”), cửa hàng của chị em Liên cũng vậy (“Hôm nay ngày phiên mà bán ĩung chẳng ăn thua gì”). Hình ảnh cụ Thi điên lảo đảo bước đi càng tô đậm một cảnh ngộ bế tắc: “Cụ đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dẩn vè phía làng”.
Đoạn hai thể hiện tâm trạng buồn và chán nản của Liên trước những cuộc đời tối tăm quẩn quanh đơn điệu của những cư dân nơi phố huyện.
Tất cả đều diễn ra như đúng đêm trước, như hàng trăm đêm trước. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng cửa im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, chi hé một khe ánh sáng. Sau cửa hàng nước chị Tí là gánh hàng bác phở Siêu mà chị em Liên đã biết chắc chắn ngay khi còn ở xa như một chấm lừa nhỏ và vàng “lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện rõ. Rồi đến gia đình bác Xẩm với cái thau sắt trắng chỏng trơ và thằng con bò ra đất nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát. Đúng là những kiếp người không bao giờ biết đến hạnh phúc. Hiện tại thì cực khổ, tương lai thì mù mịt. Sự tồn tại của họ dường như chỉ là để chờ đợi vu vơ một cái gì may mắn không bao giờ xảy đến: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày.
Được tô đậm nhất ở đoạn này là hình ảnh những kiếp sống tối tăm. Điều đáng chú ý ở đây là cái tối tăm lại được diễn tả bằng ánh sáng, thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn con nơi chõng hàng nước của chị Tí, đối chọi một cách yếu ớt đến thảm hại trước “vũ trụ thăm thẳm bao la” trùm lên cái phố huyện nghèo; không phải ngầu nhiên mà thiên truyện ngắn vẻn vẹn chỉ có mấy trang mà hình ảnh ngọn đèn hàng nước chị Tý được nhắc đi nhắc lại tới bảy lần. Nó trở thành một biểu tượng về những kiếp sống mù tối, lắt lay của những cư dân nghèo khổ tường chừng bị chôn vùi đến cùng đời màn kiếp trong bóng tối của phố huyện tiêu điều bị cuộc sống bỏ quên này.
Hai đoạn trên chuẩn bị cho đoạn ba. Buồn chán trước cảnh đời phố huyện, chị em Liên cuối cùng cũng tìm ra được một lối thoát: trông đợi để thấy được một chuyến tàu đi qua phố huyện.
Một lối thoát không phải trong thực tế mà trong tưởng tượng. Bởi vì con tàu đi qua đem theo nó một thế giới khác hẳn với cái thế giới của cái phố huyện: “Một thể giới sáng rực, huyên náo, vui vẻ và sang trọng. Đó là thế giới họ hằng mơ tường” Bỗng chốc họ sống với thế giới ấy nghĩa là được thoát ra khỏi cuộc sống tối tăm, vắng lặng xơ xác, nhàm chán và bế tắc của cái phố huyện nghèo. Nhưng cuộc thoát li, dù chỉ bằng tưởng tượng cũng chỉ diễn ra trong chốc lát. Đêm tối và sự im lặng mênh mông lại bao bọc lấy tất cả. Nỗi buồn chán lại trở về cùng với ngọn đèn con của chị Tí leo lét giữa đêm đen. “Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhăm mắt lại (…) Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xối không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”
Qua diễn biến tâm trạng của Liên, tác giả muốn nói gì với người đọc? Lời phát biểu của Thạch Lam, như đã nói, bao giờ cùng thầm kín, dịu dàng nhưng cứ thấm thía mãi trong lòng người mà ám ảnh mãi tâm trí người đọc: ấy là tiếng nói đầy xót thương với những kiếp người nhỏ bé, cơ cực, sống quẩn quanh bế tắc, không hạnh phúc, không tương lai, những con người như bị chốn vùi trong kiếp sống vô danh, vô nghĩa trong xã hội cũ. Trong xã hội ý có biết bao người đã phải sống như thế: không bao giờ biết ánh sáng và hạnh phúc. Đến trong giấc mơ cũng không biết ước mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt đi qua một phố huyện tiêu điều xơ xác của cuộc đời mình.
Đây là một khía cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ khoảng 1930 – 1945, khi xuất hiện những nhà văn thức tỉnh về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm đối với thân phận những con người, không biết sống là vui, những kiếp sống tù mù, dật dờ trong bóng tối.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 11
Thạch Lam đã nhập thân vào nhân vật Liên để khám phá, cảm nhận phố huyện. Liên mới 8 tuổi nhưng đã sớm có những quan sát, nhạy cảm trước sự thay đổi của cuộc sống. Thạch Lam đã rất tinh tế khi miêu tả được những diễn biến tâm lý phức tạp trong Liên trong một khoảnh khắc ngắn của thời gian từ chiều tà đến đêm tối. Mọi diễn biến của cuộc sống xung quanh, từng sự thay đổi dù là sự nhỏ nhất của mảnh đất Liên đang sống cũng được nắm bắt qua đôi mắt và cảm nhận của Liên.
Liên là cô bé nhạy cảm, hay động lòng trắc ẩn trước những biến thiên của cuộc đời, đặc biệt là những lay lắt, mòn mỏi của xã hội cũ. “CHIỀU! Chiều rồi, một buổi chiều êm ả như ru”. Truyện mở đầu bằng âm thanh của tiếng trống thu không vang xa để gọi buổi chiều như báo hiệu một ngày dài đã kết thúc. Chuẩn bị là đêm xuống với bao ám ảnh. Qua đôi mắt của Liên “Chiều. Chiều rồi” như một lời thảng thốt, bàng hoàng, như một tiếng thở dài. Không gian phố huyện được mở ra như đượm một nỗi buồn hiu hắt. Khoảnh khắc cuối ngày là sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối nhưng dường như “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.
Nỗi buồn trong Liên càng thấm thía hơn khi chứng kiến khung cảnh chợ tàn cùng những kiếp người tàn trong thời khắc ngày tàn đó. Ngày mà phiên chợ xơ xác, trên mặt đất chỉ còn lại vỏ bưởi, bã mía, rác rưởi… Những phế phẩm của một vùng quê nghèo. Đặc biệt là cái dáng lom dom của “những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại lang thang trên mặt đất nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay những gì còn xót lại của mấy người bán hàng”.
Nỗi buồn trong Liên càng được dấy lên khi màn đêm buông xuống, cả phố huyện chìm trong bóng tối, con người cũng bước ra, sinh hoạt trong bóng tối rồi lại lầm lũi đi vào màn đêm đen đặc. Trong cảm nhận của Liên, buổi đêm với bóng tối thật ghê gớm “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Đêm tối đối với Liên “quen lắm, chị không sợ nó nữa”. “Không sợ nó nữa” nghĩa là đã từng sợ, nhưng giờ đã quen rồi hay Liên đã nhẫn nhục, cam chịu bởi không thể thoát được? Nhưng tâm hồn ấy vẫn khao khát ánh sáng qua việc kiếm tìm vòm trời vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông, qua việc tìm kiếm những “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng” nơi phố huyện.
Ngòi bút nhân hậu của Thạch Lam không muốn dìm mãi người đọc trong cái tăm tối, mòn mỏi, nghèo khổ mà còn tha thiết hướng con người về phía ánh sáng của sự sống để khơi lên niềm khao khát hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhà văn đã phát hiện thêm nhiều cung bậc khác nhau nơi tâm hồn Liên qua việc Liên khao khát đợi chuyến tàu đêm. Liên mong ngóng con tàu từ phương xa, hồi hộp vui sướng khi con tàu đến gần và buồn bã thất vọng khi còn tàu biến mất.
Cuộc sống càng mòn mỏi càng bế tắc thì hình ảnh chuyến tàu đêm càng đem lại cho con người hi vọng. Liên cùng những người dân phố huyện chờ đợi trong tâm trạng khắc khoải để sống trọn vẹn được một ngày. Liên dõi theo con tàu từ phía xa khi trông thấy “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma chơi”. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Đoàn tàu xuất hiện làm cho khung cảnh phố huyện khuấy động lên chút ít, làm không gian mới thực sự là phố huyện chứ không phải miền đời bị quên lãng. Liên thoáng trông thấy toa hạng trên sang trọng, kền và đồng lấp lánh, tiếng hành khách ồn ào khe khẽ…Đó mới là thế giới của những con người nghèo khổ này ao ước được sống, dù là trong giây lát. Hình ảnh đoàn tàu làm nảy sinh tâm trạng đợi tàu trong chị em Liên, An và nó đã trở thành thói quen, nếu không được trông thấy chuyến tàu đêm đi qua chắc hai chị em không còn nhớ những giây phút sống trong mơ ước, khát khao nữa.
Nếu những người dân nơi đây đợi chuyến tàu để bán thêm ít hàng, để được trông thấy hoạt động cuối cùng của đêm khuya thì với chị em Liên, nhìn chuyến tàu qua là một cách để nhớ về quá khứ tươi đẹp. Con tàu từ Hà Nội về là tia hồi quang nhắc chị em Liên nhớ về một thời “lúc thầy Liên chưa mất việc…được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Sống trong hiện tại nhưng chưa bao giờ hai chị em thôi khao khát về quá khứ và dường như con tàu là động lực sống mạnh mẽ nhất cho Liên. Liên chìm trong những hồi tưởng đẹp đẽ đó cho đến khi con tàu chuyển bánh, lại lao vào màn đêm không cùng mang theo ánh mắt tiếng nuối của hai chị em.
Miêu tả nhân vật Liên, Thạch Lam đã nhập thân vào nhân vật, sống cùng nhân vật nên hiểu rõ nỗi niềm sâu kín bên trong của Liên. Nhà văn đã bộc lộ một biệt tài xây dựng nhân vật khi tập trung thể hiện thế giới nội tâm của con người ở những cung bậc cảm xúc tinh tế nhất. Truyện không có cốt truyện cùng thủ pháp đối lập tương phản, sử dụng những đối thoại có xu hướng chuyển thành độc thoại….đã góp phần thể hiện sâu sắc thế giới nội tâm của Liên.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 12
Thạch Lam nổi tiếng với lối viết truyện không cần cốt truyện, những truyện ngắn của ông dường như không theo một sự kiện nào cả mà cứ bình bình đạm đạm kể về cuộc sống sinh hoạt của những con người, những kiếp người với giọng văn tinh tế, giản dị và sâu sắc. Thạch Lam rất giỏi trong việc miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật, ông không tả một cái gì trực tiếp mà thường qua những chi tiết, những hành động và lời nói của nhân vật và phác họa nên một tâm hồn phong phú, độc đáo. Nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ là một điển hình của nghệ thuật ấy, từ những cảnh chiều tàn phố thị, những kiếp người tàn nơi tỉnh lẻ, bức tranh tâm hồn và tâm trạng của Liên đã được bộc lộ một cách tinh tế và sâu sắc.
Tâm trạng của Liên trước hết được bộ lộ thông qua sự tinh tế, nhạy cảm của cô trước biến chuyển của thiên nhiên lúc chiều tàn. Cái khung cảnh chiều nhá nhem tối, mọi thứ cứ mịt mù dường như thấm dần vào tâm hồn Liên, tựa như bóng tối ngoài kia đang ngập dần trong mắt cô và Liên “thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Một cô bé mới lớn có lẽ buồn vì nhiều thứ, trước hết là cảnh sắc dẫn tâm trạng, sự hiu quạnh, yên ả của làng quê khiến tâm hồn tươi trẻ của Liên cũng dường như chùng xuống. Ngày tàn, thế là lại qua một ngày ở nơi phố huyện nghèo khó, khi màn đêm buông xuống, nơi đây lại càng trở nên lặng lẽ và hiu hắt, với những thứ ánh sáng chập chờn, với những âm thanh rời rạc, thưa thớt. Liên cảm nhận được “một thứ mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương”. Cái mùi âm ẩm ấy rõ ràng không phải là một mùi thơm tho, thoải mái mà là một thứ mùi hỗn độn, khó ngửi của rác rưởi, của hơi đất, thế nhưng đối với Liên thì nó lại rất đỗi thân thuộc, Liên thấy gắn bó, thấy yêu thương cái mùi ngai ngái ấy. Như vậy chính cái tình yêu, sự gắn bó với mảnh đất phố huyện này một thời gian dài đã xua đi hết những cái mùi khó chịu và thay vào đó trong tâm hồn Liên thì đó lại chính là mùi của quên hương, ấm áp, thân thuộc vô cùng.
Ở Liên người ta còn nhận thấy được một tâm hồn với vẻ đẹp nhân hậu, thương yêu con người, tâm trạng của cô đối với từng nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện rất rõ nét điều ấy. Với mấy đứa trẻ không quen biết đang lần mò, nhặt nhạnh rác rưởi “Liên động lòng thương, nhưng chị cũng không có tiền để cho chúng nó”, từ câu văn ấy ta thấy được sự thương cảm với những đứa trẻ tội nghiệp, cái nghèo khổ đã hành hạ, khiến chúng phải vất vả lần mò trong cảnh chiều tàn, dẫu chúng chỉ mới bắt đầu cuộc đời thôi, nhưng đó cũng có thể là một trong những kiếp người tàn chôn vùi cuộc đời nơi phố huyện. Chị vừa thương lũ trẻ con, nhưng chính bản thân chị cũng bất lực, cũng buồn bã vì không thể giúp đỡ chúng, bởi chị cũng nghèo, chị cũng không có tiền để cho. Với mẹ con chị Tí, Liên vừa thể hiện tấm lòng yêu thương qua lời thăm hỏi, vừa bộc lộ tâm trạng xót xa, ái ngại khi kể về gia cảnh của hai mẹ con. Với bà cụ Thi, một người đàn bà già cả, hơi điên điên, ta lại thấy ở Liên sự thấu hiểu, thông cảm cho một kiếp người tàn tạ vì nghèo đói, dẫu rằng Liên có phần sợ cụ.
Liên dường như già dặn và sâu sắc hơn so với tuổi thật của mình, nhưng ở chị người ta vẫn thấy được những niềm vui thích trẻ con, cũng như An, Liên ưa thích được đi chơi như những đứa trẻ con khác, việc trông hàng quán khiến cô thấy chán nản. Nhưng ở khía cạnh khác Liên cũng lại thấy tự hào vì cảm thấy mình là người con gái lớn và đảm đang, có thể quán xuyến việc ở cửa hàng, cái xà tích và chiếc khóa rương tiền mà chị hằng yêu mến chính là minh chứng cho điều ấy.
Trong cái tối bao trùm phố huyện của trời đất, Liên ngồi đợi chuyến tàu khuya, dẫu đã quen lắm rồi cảnh tối tăm của phố huyện, nhưng trong lòng Liên vẫn mãi không quên về một thời ký ức tuyệt vời ở thủ đô. Ngoài những tháng ngày sống khá giả được đi chơi hồ Tây, được ăn những thứ quà vặt ngon lành thì trong trong ký ức của Liên rõ nét nhất là ánh đèn điện của Hà Nội “một vùng sáng rực và lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá!”, khác hẳn với những ánh đèn chập chờn leo lét nơi tỉnh lẻ. Chính vì vậy đối với Liên, một đoàn tàu sáng rực từ Hà Nội về giữa đêm khuya chính là sự sống là hy vọng là niềm vui, là động lực của cuộc sống bế tắc và chật hẹp này. Trong tâm hồn Liên luôn phảng phất một nỗi buồn không tên đó là “những cảm giác mơ hồ khó hiểu”, trước khi đoàn tàu đến. Trông mong bao nhiêu thì khi đoàn tàu vụt qua cũng để lại trong lòng Liên nhiều cảm giác nuối tiếc và hụt hẫng, ánh mắt cô cứ cố dõi theo chuyến tàu đã khuất trong màn đêm mịt mờ như để cố níu giữ điều gì đó, có thể là một chút Hà Nội chăng? Liên luôn có một đôi mắt và một tâm hồn tinh tế, đoàn tàu chỉ lướt qua trong giây lát nhưng chỉ cũng nhận thấy những khác thường “chuyến tàu hôm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sang hơn”, lời nhận xét ấy, đôi khi người ta cũng nhận ra chút gì đó gọi là hụt hẫng, buồn buồn trong lòng của cô gái. “Con tàu đã đem một chút thế giới khác đi qua” thế nhưng khi nó đi qua rồi, cũng chẳng để lại gì, ngoài để lại cho Liên một lòng hoài niệm về quá khứ tươi đẹp biết bao, để lại cho cô một nỗi buồn man mác, kéo Liên về với thực tại tối tăm và lẩn quẩn.
Và rốt cuộc, ánh sáng con tàu đã khơi gợi những hy vọng, những ước mơ, nhưng chúng sẽ mãi chẳng trở thành hiện thực nếu con người ta không có những hành động thực tế. Như vậy bức tranh tâm trạng của Liên ngoài việc bộc lộ nghệ thuật xây dựng nhân vật tinh tế và tài tình của Thạch Lam, nó còn khiến độc giả phải nhận ra một thông điệp thật ý nghĩa về cuộc sống mà Thạch Lam muốn truyền đạt trong tác phẩm Hai đứa trẻ.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 13
Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam được viết vào năm 1938, nhân vật Liên là một nhân vật mà tác giả đã khai thác rõ nhất về tâm trạng cũng như nội tâm. Dù đó chỉ là một cô bé mới lớn nhưng trong cô đã ôm ấp những cái rất mới trong sự khao khát và ước muốn của con người ở phố huyện nghèo này.
Nhân vật Liên được tác giả khai thác qua rất nhiều chi tiết cũng như khía cạnh. Mới đầu tác giả đã giới thiệu, Liên là một cô bé mới i tám tuổi, nhưng trong tiềm thức của Liên và dưới ngòi bút của tác giả thì Liên như một người đã trường thành, một người tháo vát công việc gia đình rất đảm đang. Với em thì Liên đóng vai trò là một người chị cũng là một người mẹ, với gia đình thì Liên là một người con ngoan hiếu thảo, biết giúp đỡ mẹ, dù ở độ tuổi này là ăn học chơi những với Liên thì khống, dường như tác giả đã khắc họa Liên là một người già trước tuổi.
Với không gian nhỏ trong chiếc nhà cùng với những món hàng của gia đình Liên. Cũng những tiếng trong báo hiệu hết một ngày tàn cho Liên cảm thấy buồn tủi hơn. Với nỗi buồn man mắc đó, và bóng tối đã trùm lên phố nhỏ, trùm lên đồng ruộng, trùm lên cả nỗi buồn của Liên đang thoi thóp thở.
Tiêp theo là hình ảnh những đứa trẻ lang thang trên khu phố, dường như Liên đã thức tĩnh được cuộc sống, cảm nhận được mình là người may mắn hơn. Và càng về khuya, tâm trạng Liên ngày càng thức tĩnh và buồn hơn.
Từ nhỏ, Liên là cô bé có tuổi thơ chìm trong nỗi buồn của sự tàn tạ, héo úa của một cuộc sống đầy bóng tối, bế tắc không lối thoát. Đối với tâm hồn thơ bé ấy, khi cảnh càng về khuya, cảnh đoàn tàu đêm từ Hà nội về chạy ngang qua phố huyện chính là niềm an ủi cuối cùng cho một niềm đau. Làm cho Liên hồi tưởng về quá khứ về những ngày sống vui vẻ bên gia đình. Với Liên đó là một kỉ niệm không bao giờ phai. Và cảnh đoàn tàu dường như trong tâm hồn của Liên là một cuộc sống với bao nhiêu là khao khát, khát vọng nhỏ nhoi về với mình.
Khi đoàn tàu đi qua, đó cũng là lúc mà hai chị em nhìn ngắm những tia sáng mong manh đi qua. Cảnh hai chị em chờ đoàn tàu đi qua không phải là để bán hàng nhưng đó là cái để Liên hồi tưởng về quá khứ, khao khát về cuộc sống tốt đẹp hơn. Cũng như là những con người ở khu phố huyện nghèo này mong mỏi.
Qua nhân vật Liên nhà văn đã làm toát lên những giá trị nhân văn cao đẹp, giúp chúng ta thấu hiểu nỗi buồn đau của nhân vật cũng như của những con người ở phố huyện này. Giá trị nhân văn của tác phẩm đã được tác giả khắc họa thông qua nhân vật Liên. Làm cho người đọc hiểu rõ hơn về số phận cũng như cuộc sống của con người trong thời kỳ này.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 14
Những trang văn Thạch Lam như những dòng suối ngọt lành nồng nàn tình yêu thương. Sáng tác của Thạch Lam mang màu sắc hiện thực song lại không để cho người đọc thấy được những mảnh vá trên vai áo của những con người nghèo khổ. “Hai đứa trẻ”, một truyện ngắn thấm thía niềm xót thương, một trái tim giàu lòng trắc ẩn của Thạch Lam đã gợi ra tính nhân văn cao cả. Cả truyện ngắn bao trùm là cuộc sống quẩn quanh, cơ cực, tối tăm ở phố huyện nghèo, nhưng dường như ở đó ta vẫn thấy những điểm sáng đó là hình ảnh hai chị em Liên và An. Hai đứa trẻ là hai nhân vật chính của câu chuyện, mọi biến chuyển tinh vi của vạn vật đều hiện lên qua ánh nhìn nhạy cảm của cô bé Liên. Không gian phố huyện được xuất hiện qua tâm trạng Liên và đến với người đọc qua tâm trạng Liên.
Thạch Lam xuất thân từ một gia đình công chức gốc quan lại. Ông là một cây bút đắc lực của báo Phong hóa và Ngày nay. Ông sáng tác không nhiều nhưng đủ để tạo nên phong cách riêng trong sáng, giản dị, đậm chất trữ tình. Thạch Lam có đóng góp đáng quý cho sự nghiệp văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám, đặc biệt trong thể loại truyện ngắn. “Hai đứa trẻ” một “tác phẩm thơ mang y phục văn xuôi” đã để lại một niềm cảm thương sâu sắc trong lòng người đọc về hai đứa trẻ: Liên và An.
Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình sa cơ thất thế nên trở về quê, một phố huyện nghèo hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Một gian hàng thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng phên nứa dán giấy nhật trình. Liên chừng khoảng chín tuổi còn An khoảng bảy, tám tuổi. Tuy còn nhỏ nhưng Liên đã có những toan tính cho cuộc sống. Có lẽ vì thế mà trong sâu thẳm tâm hồn cô bé này đã có những xúc cảm hết sức tinh vi về mọi vật, mọi việc ở phố huyện này.
Bức tranh thiên nhiên trong phố huyện khi ngày tàn được hiện lên qua điểm nhìn nhạy cảm, tinh tế của Liên. Đó là “Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve.” Trong bức tranh ấy có sự hòa trộn giữa hai loại hình ảnh : hình ảnh êm đềm, lãng mạn và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Phải chăng do cảnh chiều tàn mà gợi cho Liên nỗi buồn: “ Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.” Thật khó để phân định rạch ròi nỗi buồn ngoại cảnh thấm vào tâm cảnh hay nỗi buồn tâm cảnh lan tỏa ra, nhuốm vào ngoại cảnh. Ta chỉ thấy ở đây là một nỗi buồn sâu sắc trong tâm trạng. Chỉ có sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm như Liên mới thấu hiểu nó.
Không gian phố huyện còn được hiện lên qua hình ảnh : “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”, “đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mông và yên lặng”. Đó chính là mùi riêng của quê hương. Vậy là đủ thấy tình yêu quê hương trong Liên như một mạch nguồn len lỏi trong tâm hồn. Có lẽ bắt nguồn từ đó mà trong Liên luôn có sự xót thương những kiếp người nghèo khổ trong phố huyện.
Liên thực sự có một tấm lòng thương cảm vô hạn đối với những con người nghèo khổ, lam lũ, tù túng của phố huyện. Liên thương những đứa trẻ con nhà nghèo nhưng chính chị cũng chẳng có tiền cho chúng. Hình ảnh những đứa trẻ đã gợi sự xót thương của Liên đối với cảnh sống nghèo khó của chúng. Liên thương cho chị Tí, bởi vì cuộc sống của chị cũng khó khăn: “sớm với muộn mà có ăn thua gì? “. Dường như trong lời hỏi thăm ân cần của Liên có một tiếng nấc khe khẽ. Liên thương cho cụ thi hơi điên, “chị lẳng lặng rót đầy cút rượu ti” và “hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”. Nhịp sống ở phố huyện cứ lặp đi, lặp lại, quanh quẩn, đơn điệu, tẻ nhạt. Những cảnh đời bế tắc, cuộc sống của những con người tàn. Họ đang gồng mình lên để sống nói cách khác họ đang sống leo lắt hay chỉ đang tồn tại. Dường như tất cả cảnh phố huyện đều được cô bé thu vào tầm mắt. Với trái tim đa cảm giàu lòng thương xót, Liên đã có những cảm nhận tinh tế về cuộc đời mờ nhạt, quanh quẩn, cái ao đời phẳng lặng trong phố huyện nghèo. Chính sự quan tâm, niềm cảm thương ấy của Liên đã làm nên tình người bàng bạc khắp thiên truyện. Tình người trong Liên không ồn ào mà dịu nhẹ, sáng trong lắng dần trên trang sách. Cái nhìn nhân hậu cùng niềm xót thương đã tạo nên giá trị nhân văn cho “Hai đứa trẻ”. Những kiếp người xuất hiện trong đêm tối, từ bóng tối đi ra rồi lại đi lần vào bóng tối chỉ được gợi lên qua cái nhìn của Liên hay chính Thạch Lam? Bởi theo Thế Lữ nhận xét : “Thạch Lam là người sống hết cả từng ý văn, từng câu văn anh đã viết ra trên trang giấy. Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong văn chương phức tạp, nhiều hình vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương.”
Hai đứa trẻ dù cho già dặn trong suy nghĩ thì vẫn chỉ là hai đứa trẻ, là hai mầm cây mới nhú trên mảnh đất cằn cỗi, khắc nghiệt của không gian nơi phố huyện. Chúng vẫn thèm hòa nhập vào những cuộc chơi của bao đứa trẻ khác ở “thềm hè” nhưng cả hai đều sợ “trái lời mẹ dặn” và “đành ngồi trên chõng”. Hai chị em Liên lũ trẻ đang chơi ở thềm hè với con mắt thèm muốn và một chút nuối tiếc. Đó là điều hết sức tự nhiên trong tâm hồn trẻ thơ. Tuổi thơ của chúng sớm phải chia tay với những buổi dạo chơi trên phố, sớm quên đi bao niềm vui để phải già dặn, toan tính. Rồi liên và An ngồi ở chõng mà ngước mắt lên bầu trời để khám phá, “vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ”. Chính sự khám phá tự nhiên ấy đã “làm mỏi trí nghĩ” của cả hai đứa trẻ. Thạch Lam hơn ai hết thấu cái bi kịch lớn của tình thương, muốn được san sẻ cùng mà chỉ có thể nâng đỡ về tinh thần. Hai đứa trẻ cũng như ấp ủ bao hi vọng mơ ước của nhà văn được thay đổi thực tại tù túng kia, để những đứa trẻ như liên và An được hưởng trọn vẹn trong vòng tay yêu thương, đùm bọc của cuộc đời.
Hai đứa trẻ – hai niềm hi vọng được nhen nhóm lên như ánh sáng của đoàn tàu làm bừng sáng cả không gian phố huyện, ánh lên nỗi khao khát về sự thay đổi. Sự khao khát, hi vọng mãnh liệt của Liên về sự thay đổi được thể hiện trong cảnh Liên và An cố thức để đợi chuyến tàu đêm. Đoàn tàu hiện ra trong bóng tối với “ngọn lửa xanh biếc”, với tiếng còi kéo dài, với “làn khói bừng sáng”. Con tàu hiện lên bằng một thứ ánh sáng khác hẳn với ngọn đèn leo lắt của chị Tí, của bác phở Siêu. Âm thanh “rầm rộ” làm xáo động cả không gian phố huyện. Trong sâu thẳm tâm hồn những con người nơi đây, đoàn tàu còn mang lại ánh sáng giàu sang, no ấm, hạnh phúc, ánh sáng mà “chừng ấy người trong bóng tối “ đang chờ đợi chăng? Đoàn tàu xuất hiện chỉ làm thay đổi không gian phố huyện trong khoảnh khắc nhưng cũng để mọi người thèm khát. Đặc biệt là Liên, Liên đã càng hiểu thấu sự khao khát đó do chính cô bé cũng từng là người Hà Nội, từng có cuộc sống ấm no như thế. Khi tàu tới “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực rỡ vui vẻ và huyên náo”. Con tàu như đã đem đến một chút thế giới khác, một thế giới khác hẳn đối với Liên, một thế giới hạnh phúc, giàu sang khác xa với cuộc sống nghèo khổ, tù túng hiện giờ nơi phố huyện. Đoàn tàu đi từ kí ức tới hiện tại, mang đến ước mơ và khát vọng và đem chúng đi trong sự nuối tiếc của Liên. Phố huyện lại trở về với sự yên tĩnh, tịch mịch và sự bủa vây của bóng tối, nguyên vẹn một cuộc sống tù túng, nghèo khó của bao kiếp người. Dù có khó khăn nhưng họ vẫn khao khát, vẫn mơ ước về một tương lai tươi sáng. Đó chính là niềm tin sâu sắc của Thạch Lam, là giá trị nhân đạo của tác phẩm. Nhưng đó chỉ là ý niệm mà không thể thay đổi được thực tế. Đoàn tàu đến, đi qua nhưng chỉ làm Liên thanh thản, yên tĩnh chứ không thể thay đổi được thực tại về cuộc sống “tịch mịch và đầy bóng tối” của Liên. Không thấm được một tấm lòng nhân ái sâu xa, không hiểu lòng con trẻ, không có một tâm hồn nhạy cảm thì thạch Lam không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người trong bóng tối mà đặc biệt là hai đứa trẻ. Quả thực thạch Lam là một hệ thống dây tơ nhạy bén đến mức có thể cảm nhận được sự biến chuyển tinh vi trong tâm trạng mỗi nhân vật.
Dòng suối mát lành ấy cứ thấm dần rồi thẩm thấu vào trái tim mỗi người đọc về sự xót thương, về tình yêu nồng nàn đối với những con người nghèo khổ. Thạch Lam rất đỗi tinh tế trong việc miêu tả sự biến đổi của cảnh vật và nhân vật mà cụ thể ở đây là cô bé Liên. Một cô bé mới 9 tuổi nhưng đã phải già dặn trong cuộc sống khó khăn, vất vả, tù túng, biết cảm thương cho những mảnh đời khốn khổ khiến người đọc xúc động. Với truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã làm được giá trị đích thực của văn chương, giá trị thanh lọc tâm hồn con người, cho nó sức sống ngàn đời bất diệt.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 15
Dù chỉ xuất hiện trên văn đàn vẻn vẹn có 5 năm nhưng Thạch Lam sớm khẳng định là một cây bút truyện ngắn độc đáo. Sinh thời, ông từng quan niệm “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, lẩn khuất khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc trông nhìn và thưởng thức”. Rút ra từ tập truyện ngắn ” Nắng trong vườn”, ” Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách độc đáo không trộn lẫn của Thạch Lam. Đến với “Hai đứa trẻ” độc giả ai ai cũng thấy cảnh đợi tàu là sự kiện tiêu biểu nơi ngòi bút của Thạch Lam thăng hoa.
Tuy là thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và là em ruột của Nhất Linh, Hoàng Đạo nhưng sáng tác của Thạch Lam đi theo hướng riêng khá mới mẻ. Ông dành tình cảm, tấm lòng xót thương cho những lớp người nghèo trong xã hội thời bấy giờ. Ngòi bút của Thạch Lam thường đi vào những trạng thái cảm xúc mơ hồ, tinh tế của con người. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn không có truyện. Toàn bộ câu chuyện diễn ra như một thước phim chậm rãi về một phố huyện nghèo xung quanh chị em Liên vào một buổi chiều tối mùa hè. Không có thắt nút, không có mở nút nhưng truyện ngắn dễ dàng đi vào tâm trí người đọc bởi một nỗi buồn sâu lắng mà rất đẹp – vẻ đẹp của một cuộc sống bình thường được Thạch Lam khám phá ra. Đặc biệt nhất là cảnh đợi tàu trong truyện ngắn.
Dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng đêm nào, Liên và An cũng cố thức đợi chuyến tàu khuya từ Hà Nội về. Tại sao vậy? Để bán hàng theo lời mẹ dặn? Hoàn toàn không phải vậy. Hai chị em Liên cố thức không phải để mở hàng đón khách như bao người buôn bán khác trên sân ga, trái lại hai chị em đóng cửa hàng, chờ tàu là vì cớ khác. Vậy thì là gì? Phải chăng vì hai chị em học muốn được nhìn thấy chuyến tàu – là sự hoạt động của cuối cùng của đêm khuya. Có lẽ vậy, và cũng bởi vì con tàu như đem một thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn với vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của Bác Siêu. Phố huyện chìm trong màn đêm tối tăm, lụi tàn, nghèo nàn, mòn mỏi thì con tàu như đem một thế giới sáng rực, giàu sang, vui vẻ và huyên náo
Vì con tàu như đem một thế giới khác đi qua, chị em Liên lặng lẽ đón đợi tàu với bao xúc cảm vừa bâng khuâng, mơ hồ, vừa hồi hộp, háo hức. Chị em Liên đón đợi chuyến tàu như đón đợi phút giây giao thừa thiêng liêng mỗi khi Tết đến, xuân về. Cậu bé An buồn ngủ, mí mắt sắp sửa rơi mà vẫn còn dặn chị: ” Tàu đến, chị gọi em thức dậy nhé!”. Còn Liên ngồi yên không động đậy ngắm sao trời lấp lánh và hoa bàng khẽ rơi, tâm hồn Liên tính hẳn, có những cảm giác mơ hồ, không hiểu. Dường như cô bé đã hoàn toàn bứt mình ra khỏi cuộc sống mưu sinh cơ cực để đắm vào thế giới thần tiên, mộng mơ.
Nhìn thấy ánh đèn ghi từ xa, nghe tiếng còi vọng lại, Liên đã vội đánh thức em dậy: ” Dậy đi, An. Tàu đến rồi!” Lời gọi đầy hối thúc, giục dã vang lên như tiếng reo vui hồ hởi. Rồi tiếng còi rít lên, tàu rầm rộ đi tới, cả phố huyện bừng lên, sáng rực rỡ, sôi động, sang trọng, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua. Hai chị em háo hức muốn hòa mình vào thế giới đông vui náo nhiệt ấy. Càng háo hức bao nhiêu, hai đứa trẻ càng ngẩn ngơ khi thấy tàu vượt qua bấy nhiêu. Chuyến tàu đi vào đêm tối, hai chị em vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng rồi ra xa mãi, khuất sau rặng tre. Con tàu từ Hà Nội về thực sự đã hút hồn chị em Liên. Tàu qua, An băn khoăn nghĩ ngợi; “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?”. Còn Liên thì mơ hồ lặng theo mơ tưởng. Dẫu chuyến tàu không vui như mọi khi, thưa vắng người qua lại và hình như kém sáng hơn bình thường nhưng cô bé vẫn hân hoan vui sướng bởi con tàu ở Hà Nội về. Con tàu đã đưa Liên trở về tuổi thơ êm đềm, thời quá khứ ngọt ngào của tuổi thần tiên, đồng thời thức dậy trong cô bé, niềm tin vào một tương lai tươi sáng.
Đêm nào, Liên và An cũng thao thức, hồi hộp đợi tàu. Trong con mắt của không ít người, đó là việc bâng khuâng, không đâu thậm chí lẩn thẩn, vô nghĩa. Thế nhưng với trái tim giàu lòng trắc ẩn, Thạch Lam đã phát hiện ra những tâm sự sâu kín, những khát khao lãng mạn của hai chị em. Đợi tàu trở thành một nếp sống, một nhu cầu tinh thần không thể thiếu. Đợi tàu để được trở về thời quá khứ dịu êm, ngọt ngào của tuổi hồn nhiên, ngây thơ. Đợi tàu để được cháy lên khát vọng mãnh liệt, mạnh mẽ, táo bạo: khát vọng đổi đời. Khát vọng ấy như mầm cây tươi non mọc lên trên vùng đất cằn cỗi, như ánh sao nhỏ nhoi lấp lánh mãi trên bầu trời đen thẳm không cùng. Qua việc tả cảnh đợi tàu, Thạch Lam thể hiện thái độ vừa cảm thương xót xa trước cuộc sống lay lắt, bế tắc của những kiếp người nhỏ bé, nhất là những đứa trẻ, vừa nâng niu vừa trân trọng, khát vọng vươn ra ánh sáng, khát vọng đổi đời của những con người ấy. Từ cuộc sống của con người nơi phố huyện, trang văn của Thạch Lam còn rung lên tiếng nói tha thiết có sức lay tỉnh xâu xa trong tâm hồn người đọc: Hãy cứu lấy những đứa trẻ! Hãy thay đổi cuộc sống bế tắc này đi!. Làm thế nào để cho trẻ thơ được sống trong hi vọng giống như những chồi non xanh biếc căng nhựa sống trên cành mà không phải chỉ tồn tại rồi tài lụi đi trong miền đất chết.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chân thực, sinh động,, giàu giá trị hiện thực mà thấm đẫm cảm xúc nhân văn cao quý, dào dạt chất thơ lãng mạn. Đọc “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam ta bất giác nhớ đến ” Cô bé bán diêm của An-đéc-xen. Họ là hai nhà văn thuộc về hai đất nước, hai thời đại khác nhau nhưng cùng đồng điệu trong tiếng nói yêu thương nhân văn vì trẻ thơ.
Cảnh đợi tàu cũng là cảnh khép lại thiên truyện vừa nhẹ nhàng, lắng đọng của Thạch Lam. Đó là một cảnh tượng sẽ ám ảnh mãi trong tâm chí người đọc. Khép lại tác phẩm, ta vẫn thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương ấm áp mà sâu kín, về những tình cảm trắc ẩn bình dị mà sâu xa. “Hai đứa trẻ” thực sự đã hoàn thành sứ mệnh của văn chương chân chính khi khơi gợi của người đọc tình cảm trong sáng và giàu ý nghĩa nhân văn.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 16
Thạch Lam quan niệm: Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, lòng người trong sạch và phong phú hơn.” Và với “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã khiến người đọc không thể quên hay thoát li về hiện thực nơi phố huyện nghèo của những ngày tàn, kiếp người tàn. Đặc biệt, nhân vật Liên là nhân vật chính của truyện, đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả, bởi một cô bé dù sống nghèo khó, tù túng nhưng luôn khát khao mãnh liệt, tin tưởng vào sự sống.
Trước hết, Liên cũng không ngoại lệ trong những số phận mà Thạch Lam khắc họa, cũng phải chịu đựng cuộc sống tù túng, mòn mỏi và nhàm chán. Do gia đình sa sút nên gia đình Liên phải chuyển về quê sinh sống. đang ở chốn thành thị, với những cốc nước xanh đỏ, với những chuyến đi chơi công viên đầy lí thú và thành phố ngập tràn ánh sáng, sôi động náo nhiệt thì việc về phố huyện nghèo là một thử thách với cô bé. Nhà Liên có một cửa hàng nhỏ, không đủ kiếm ăn và mưu sinh, chỉ bán những vật vặt vãnh qua ngày. Do vậy mà cuộc sống cũng không khấm khá là bao.Nhưng đối lập với hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống mưu sinh, cô bé Liên vẫn giữ cho tâm hồn mình vẻ đẹp trong trẻo, hồn nhiên, tinh tế, nhạy cảm.Trước cảnh tượng của buổi chiều tối, một chiều êm ả như ru thì tâm hồn Liên cảm thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn, đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Cũng trong phiên chợ tàn, chỉ có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của Liên mới cảm nhận mùi đất thân thuộc của quê hương “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Và về đêm, một lần nữa tâm hồn mơ mộng trong sáng của trẻ thơ lại bắt đầu bộc lộ, chính vẻ trong sáng, mơ mộng và hồn nhiên của trẻ thơ trong Liên đã làm dịu đi vẻ gay gắt của mảnh đất nghèo khó, tù túng, mòn mỏi nơi đây. Ngồi cùng An cùng ngước lên ngắm nhìn con vịt theo sau ông Thần Nông và các vì sao lấp lánh trên bầu trời. Chỉ có thể là một tâm hồn mơ mộng của trẻ thơ mới cảm nhận và ngắm nhìn một cách thú vị ấy. Nếu mặt đất đầy rẫy những bất hạnh và khó khăn thì tâm hồn Liên dường như chính là sự đối lập với hiện thực phũ phàng ấy.Không chỉ có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm mà Liên còn có tấm lòng yêu thương, biết đồng cảm chia sẻ với những số phận nghèo khổ. Dù mới chuyển về từ thành phố nhưng Liên đã nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống nơi đây. Trong mắt Liên, cô cũng thương xót và đồng cảm trước cuộc sống khó khăn của chị Tí, bác Siêu, gia đình bác Sẩm hay bà cụ Thi hơi điên. Tâm hồn trong sáng ấy, sẵn sàng đồng cảm và thấu hiểu cho những số phận tội nghiệp ấy, của những tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng ấy.Cuối cùng, điều làm nên dấu ấn của Liên trong tâm hồn độc giả chính là khát khao mãnh liệt của cô bé muốn hướng đến một cuộc sống tốt đẹp, ý nghĩa hơn chứ không nhàm chán, nhạt nhẽo như những cô hồn vật vờ bóng ảnh này nữa. Điều ấy đặc biệt được khắc họa qua cảnh chờ tàu.
Chuyến tàu như mang một thế giới khác, một thế giới của ánh sáng, của những sôi động náo nhiệt. chuyến tàu trở đi những khát khao, mơ mộng của Liên. Cô quan sát đoàn tàu từ xa khi mới chỉ là ngọn lửa xanh biếc như ma chơi đến khi một làn khói trắng bừng ra, chỉ khi quan sát kĩ cô bé mới nhận ra đoàn tài hôm nay thưa vắng người và kém sáng hơn. Nhưng đoàn tàu ấy có những toa hạng sang với những đồng và kền lấp lánh, và quan trọng nhất là đoàn tàu ấy từ Hà Nội về-nơi có những kí ức tươi đẹp và trong sáng của ấu thơ với những li nước xanh đỏ, những lần đi chơi công viên, một Hà Nội sáng rực, vui vẻ, huyên náo. Đó chính là cuộc sống mà em mơ ước, khát khao được thay đổi, được sống một cuộc sống ý nghĩa chứ không chìm nghỉm trong cái ao đời bằng phẳng dễ dãi ấy nữa. Nhưng nó cũng là minh chứng rõ ràng nhất cho thấy ước mơ và khát khao mãnh liệt của cô bé Liên, gửi gắm khát khao của những mầm dương khác.
Bằng cách miêu tả tâm lí nhân vật Liên một cách tâm lí, tinh tế, nhà văn Thạch Lam thật sự là một cây bút xuất sắc khi viết về trẻ thơ, về những số phận nhỏ bé vô danh đã không ngừng khát khao một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đồng thời gửi gắm thông điệp của tác giả, hãy cứu lấy những mầm dương mới nhú đừng để chúng tàn lụi trong bóng tối.
Phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ – Mẫu 17
Bước vào những trang viết của Thạch Lam là ta bước vào một thế giới nghệ thuật riêng, một thế giới hiện thực đẫm chất thơ. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn bộc lộ rất rõ thế giới nghệ thuật riêng đó của Thạch Lam. Nhà văn đã bày tỏ tấm lòng sâu kín đầy trắc ẩn yêu thương của mình qua việc miêu tả bức tranh phố huyện và diễn biến tâm trạng nhân vật Liên.
Là một trong bảy thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn (Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ) nhưng Thạch Lam đã chọn cho mình một hướng đi riêng với một quan điểm nghệ thuật riêng. Theo ông: “Thiên chức của nhà văn là nâng đỡ cái tốt, cái đẹp để cho cuộc đời có nhiều công bằng và yêu thương hơn” và “văn chương không thể thoát ly, lãng quên mà phải là một thứ vũ khí thanh cao góp phần cải tạo xã hội”.
Lúc bấy giờ, trên văn đàn, người ta đua nhau viết nhiều loại tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, tình tiết ly kì hoặc nhiều chuyện tình ái mùi mẫn của giới thượng lưu. Lối đi của Thạch Lam tưởng sẽ dẫn tới ngõ cụt, dẫn tới “mảnh đất chết” của nghệ thuật. Đó là một loại truyện không có cốt truyện. “Thạch Lam đến với văn chương như mang một sứ mệnh hòa giải, hòa giải giữa thơ và văn xuôi, giữa hiện thực và lãng mạn” (Chu Văn Sơn). Truyện của Thạch Lam chú trọng nhiều đến những biến thái tinh vi, mơ hồ trong đời sống tâm hồn (chứ không phải phân tích tâm lí sắc lạnh như Nam Cao), và cứ thế trôi theo dòng cảm xúc, tâm trạng khiến cho khi đọc người ta luôn có cảm giác xao xuyến rất lạ. Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam chính là một bài thơ trữ tình xót thương mà cũng vô cùng ấm áp và thấm thía. Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan gọi truyện của Thạch Lam là truyện “tình cảm” và cho rằng Thạch Lam “rất tin ở chủ nghĩa duy cảm”. Ông đứng vào một phái riêng của tiểu thuyết.
Chính vì không chú trọng đến cốt truyện nên Thạch Lam cũng không đi vào những đề tài to tát; quy mô cuộc sống xã hội được phản ánh không rộng lớn, những vấn đề đặt ra không mang tính bức xúc như trong nhiều sáng tác của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng… Chất liệu tạo nên cuộc sống trong tác phẩm được Thạch Lam chắt chiu từ những gì hết sức nhỏ bé thậm chí vụn vặt mà nếu vô tình sẽ rất dễ bỏ qua.
Cái tài của Thạch Lam là ở chỗ nhà văn đã vượt lên đề tài, chế ngự chất liệu, chiếm lĩnh phạm vi phản ánh bằng lăng kính chủ quan và phong cách nghệ thuật tài hoa tinh tế. Và cứ tự nhiên như không, Thạch Lam đã gieo vào lòng độc giả một thứ tình yêu ngọt ngào đối với nhiều trang viết của mình bởi người ta luôn tìm thấy ở văn xuôi Thạch Lam một thứ mê hương kì lạ: dìu dịu mà lan tỏa, thoang thoảng mà ngây ngất, mơ hồ mà đầy ám ảnh. Thạch Lam “vừa sống vừa lắng nghe chung quanh cũng là lắng nghe mình phản ứng trước mọi diễn biến cả bên ngoài và bên trong mình rồi trang trọng đề nghị với mọi người cùng bàn về điều hơn lẽ thiệt, mặc dù cái điều hơn lẽ thiệt đưa ra có khi nhỏ như một sợi tóc” (Nguyễn Tuân).
Nếu nhìn bề ngoài, ta sẽ nhận thấy cách lựa chọn chất liệu của Thạch Lam gần với những nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo như Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài… Còn nếu đi sâu khám phá nhiều trang văn của Thạch Lam ta lại cảm thấy ông rất gần với các nhà văn lãng mạn như: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng bởi ông luôn kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Thạch Lam đã tạo ra một thứ chủ nghĩa tình cảm riêng không giống như Vích-to Huy-gô, người đứng đầu tao đàn lãng mạn Pháp, cũng không giống như Nhất Linh và Hoàng Đạo, hai người anh của mình – hai cây bút có thể coi là đứng đầu tao đàn lãng mạn Việt Nam. Thạch Lam đã lặng lẽ mang đến cho văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa” (Nguyễn Đức Quyền). “Một thứ hương Hoàng Lan thanh tao được chưng cất từ những nỗi đời” (Chu Văn Sơn).
Hai đứa trẻ là một trong số nhiều truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Câu chuyện kể về hai chị em (Liên và An), hai đứa trẻ được mẹ giao cho trông coi một gian hàng tạp hóa nơi phố huyện. Đêm chuyển dần về khuya, nhiều bóng người lù mù đi qua như những chấm sáng mờ nhạt: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, cụ Thi điên, gia đình bác Xẩm. Họ cùng với đêm tối phố huyện gieo vào lòng trẻ thơ những nỗi niềm thương xót. Hai chị em dù buồn ngủ “ríu cả mắt” vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua. Đoàn tàu như một vệt sao băng lao lên chốc lát rồi tất cả chìm vào bóng tối mênh mang..
Truyện chỉ có vậy nhưng cho đến hôm nay, sức hấp dẫn của nó vẫn còn vẹn nguyên. Có một cái gì đó vừa quen thuộc gần gũi lại vừa lạ lùng khiến ta ngạc nhiên và xao xuyến mãi.
Sức hấp dẫn của Hai đứa trẻ trước hết ở không khí truyện. Bước vào thế giới nghệ thuật của Hai đứa trẻ, người đọc lại bị xâm chiếm hấp dẫn bởi bầu không khí rất đặc trưng của một miền quê nghèo trước một buổi chiều tà chuyển dần vào đêm tối và tối dần tới đêm khuya. Và một điều tưởng như thật nghịch lý là cái sinh khí của câu chuyện lại được dệt nên bởi bức tranh của một phố huyện đang mất dần sinh khí. Cuộc sống ở đó đang đuổi dần, lụi tàn dần gợi lên cảm giác mòn mỏi. Nó toát lên từ không gian đến thời gian, từ cảnh vật, đồ vật đến con người… Tất cả như âm thầm nói cùng ta rằng cái phố huyện này là một miền đời đang chìm dần vào quên lãng, một miền quê heo hút bị cuộc đời bỏ quên. Nhưng thật lạ qua tất cả những gì Thạch Lam miêu tả, có một cái gì ấm áp cứ thấm vào hồn ta bởi không khí buồn Thạch Lam tạo ra là không khí “buồn mà rất đẹp” (Vũ Ngọc Phan). “Hai đứa trẻ” có một hương vị thật là man mác […]. Đọc Hai đứa trẻ thấy một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín” (Nguyễn Tuân). Thạch Lam đã thổi hồn mình vào bức tranh phố huyện. Đây là thành công đầu tiên, thành công cuối cùng cũng là thành công đặc sắc nhất của truyện ngắn Thạch Lam.
Như nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan tổng kết: “Mỗi một nhân vật của Thạch Lam đều phảng phất tâm hồn Thạch Lam”. Hai đứa trẻ thực chất là những trạng thái tâm hồn của nhân vật Liên được tắm trong một bầu không khí trầm buồn man mác mà nhà văn đã thổi hồn mình vào đó. Những biến thái tinh vi của một tâm trạng buồn vừa mơ hồ, vừa khắc khoải vừa hiện hữu vừa mong manh đã trở thành ám ảnh. Mở đầu mới chỉ là những xao động được gợi lên từ một buổi chiều tàn trước cảnh chợ tàn. Rồi theo màn đêm buông xuống, tâm hồn trẻ thơ có gì xao xác, u uất đến tội nghiệp để cuối cùng xốn sang lên đôi chút lúc đoàn tàu chạy qua. Dòng cuối của tác phẩm là giấc ngủ yên tĩnh “tịch mịch và đầy bóng tối” của nhân vật Liên, song đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm bâng khuâng. Chất thơ của Hai đứa trẻ đã được khơi lên từ những rung động tâm hồn như thế.
Bức tranh phố huyện trong Hai đứa trẻ (và cả Nhà mẹ Lê và Gió lạnh đầu mùa) gắn với những kỉ niệm thời thơ ấu của Thạch Lam. Theo hồi kí về gia đình Nguyễn Trường, bà Nguyễn Thị Thế, chị ruột của Thạch Lam kể lại: “Tôi không ngờ em Sáu có trí nhớ dài đến thế, như chuyện em tôi tả hai chị em thức đợi chuyến tàu đêm qua rồi mới ngủ. Năm đó tôi mới lên chín, em tôi lên tám mà mẹ đã giao cho hai chị em tôi coi hàng”. Cả một thời thơ ấu của Thạch Lam đã gắn với phố huyện Cẩm Giàng, bên cạnh đường xe lửa Hà Nội – Hải Phòng lúc đó cha vừa mất ở sầm Nưa — Lào, mẹ con bồng bế nhau về quê ngoại). Cái không gian buồn tẻ, quạnh hiu của phố huyện như một ám ảnh để rồi sau này thường xuất hiện trong nhiều trang viết của Nhất Linh, Hoàng Đạo và nhất là Thạch Lam. Thời gian như một chiếc bình lộc kì diệu, nó giữ lại trong tâm hồn đa cảm và tinh tế của Thạch Lam nhiều dấu ấn không thể phai mờ. Dựng lên nhân vật Liên, thực chất Thạch Lam đã đánh thức trong tâm khảm của cậu bé An hồi nào để trở về phố huyện, nơi “bóng tối u uất nhẫn nại của đời thôn quê lưới mái lá nát hay những đêm sâu trong huyện” (Thế Lữ).
Bức tranh phố huyện trong con mắt của hai đứa trẻ cũng đầy đủ màu, âm thanh, đường nét và sự phối hợp giữa cảnh và người. Tất cả đều đượm vẻ u buồn: một con đường vào làng, ra sông, một phố chợ, một ga xép, một lũy tre… Những đường nét đơn sơ, giản dị, mộc mạc. Gam màu chủ đạo của bức tranh phố huyện là màu xám đen của bóng tối hòa lẫn với những quầng sáng mờ nhạt nhỏ nhoi. Đúng hơn là có cả “màu đỏ rực như lửa cháy” của mặt trời sắp tàn và màu “hồng nhạt” của những đám mây nhưng cái màu sắc tưởng như rực rỡ kia chỉ tồn tại trong tích tắc để rồi “đen lại”, lụi tàn đi nhường chỗ cho bóng tối bao trùm, xâm chiếm.
Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” rồi “muỗi bắt đầu vo ve” nhưng có lẽ ấn tượng nhất vẫn là “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”. Nhà văn Nguyễn Tuân cảm thấy khó nhất là việc tạo không khí truyện, khi tạo được không khí rồi thì mạch truyện cứ như thế mà tuôn chảy. Với tiếng trống thu không thủng thẳng từng tiếng một “vang ra đê gọi buổi chiều”, Thạch Lam đã tạo được không khí truyện một cách tự nhiên và có lẽ cái tiếng trống từ thời thơ ấu ấy đã đánh thức, gọi dậy ở Thạch Lam tất cả những bâng khuâng, mơ hồ, man mác về một phố huyện ngày nào. Tiếng trống thu không là âm thanh quen thuộc xuất hiện thường nhật, trở thành một mảnh linh hồn của buổi chiều phố huyện, tạo cho phố huyện cái vẻ bình lặng đến nao nao buồn. Đúng là “một chiều êm ả như ru”. Tiếng trống thu không đã kéo cả buổi chiều trong ánh tà dương lặng trầm và u uất thấm thìa vào tận tâm hồn. Đây là hoàn toàn không phải là tiếng trống thúc sưu thuế bức bách khiến cho không gian trở nên ngột ngạt đầy sợ hãi trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, càng không phải là tiếng trống hộ đê giục giã hồi đầu thế kỉ của Phạm Duy Tốn trong sống chết mặc bay. Thật buồn nhưng thật êm, thật đẹp. Chính cái vẻ đẹp êm dịu, đượm buồn của buổi chiều quê ấy đã tạo nên chất thơ trong truyện của Thạch Lam. Thạch Lam đã khẽ đưa những nét vẽ thiên nhiên đầy lãng mạn.
Trong bức tranh phố huyện, đêm tối xuất hiện như một nhân vật mang dụng ý nghệ thuật của nhà văn chứ không đơn thuần là cái nhìn không gian mang tính vật lý của sự chảy trôi từ ngày sang đêm. Có lẽ Thạch Lam luôn nhìn cuộc sống trong những góc khuất của nó nên trong truyện của ông ta thường thấy có hình ảnh bóng tối. Bóng tối đã tạo thành một bầu khí quyển riêng. Trong truyện có không dưới 30 lần tác giả trở đi trở lại với hình ảnh đêm tối, bóng tối. Mở đầu truyện là cái thế lụi tắt của ngày tàn và sự xâm chiếm của bóng tối khi “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Khi “các nhà đã lên đèn” cũng là lúc bóng tối được cảm nhận rõ rệt nhất bởi những hòn đá nhỏ cùng “một bên sáng, một bên tối”. Bóng tối không ập đến bất ngờ mà cứ lặng lẽ, âm thầm từng khoảnh khắc một vây bọc lấy tất cả mọi cảnh vật. Bà cụ Thi sau khi ngửa cổ dốc tọt cút rượu to đã “đi lẫn vào bóng tối” và bóng tối đả nuốt dần tiếng cười khanh khách nửa điên nửa dại của cụ. Sau tiếng cười của cụ Thi, đêm mới thực sự là đêm “một đêm mùa hạ êm như nhung” với những con người “từ từ đi trong đêm”. Cái chấm lửa vàng lơ lửng như ma trơi của gánh phở bác Siêu “đi trong đêm tối” càng tô đậm thâm cái tối của đêm phố huyện. Cảnh đêm tối ở phố huyện được Thạch Lam nói đến đây không phải là một đêm do mất điện hoặc không trăng mà “đêm tối đối với Liên đã quen lắm” quen đến nỗi trong cái tối của đêm Liên nhìn xuyên qua nó để thấy được “con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà” mặc dù cứ mỗi lúc “càng sẫm đen hơn trước”. Ngay cả tiếng trống cầm canh cũng bị cái tối của đêm làm cho quánh lại “khô khan không vang động ra xa” mà “chìm ngay vào bóng tối”. Đoàn tàu đêm đi qua, cả phố huyện bừng sáng lên chốc lát rồi lại bị bóng tối vây bọc. Kết thúc tác phẩm, ngọn đèn hạt đỗ trong gian hàng tồi tàn của chị em Liên được vặn nhỏ hơn nữa và Liên sau khi “nhìn quanh đêm tối” đã chìm trong giấc ngủ “tịch mịch và đầy bóng tối”.
Có thể nói, hình tượng đêm tối không chỉ tạo nên một bầu không khí riêng cho câu chuyện mà hình tượng ấy đã tạo nên một sức ám ảnh mạnh mẽ, gây nên cảm giác phập phồng, lo âu, hồi hộp, mong đợi, hi vọng để rồi thở dài ở người đọc. Bóng tối trở thành một thế lực thống trị phố huyện, nó len lỏi, thâm nhập vào mọi sự vật. Nó như một con quái vật khổng lồ nuốt chửng cả cảnh và người phố huyện. Bóng tối không chỉ là cái nền của bức tranh phố huyện mà còn là không gian xã hội, không gian nghệ thuật của tác phẩm. Bóng tối chính là biểu tượng cho cuộc sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc không lối thoát của những kiếp người nơi phố huyện. Bóng tối cứ đè nặng lên số phận khiến cho họ đã nhỏ bé lại càng nhỏ bé, đã tội nghiệp, hầm hiu càng hẩm hiu tội nghiệp.
Đối lập với bóng tối là ánh sáng. Thực chất nhà văn đã sử dụng thành công một cách xuất, sắc nghệ thuật tương phản. Sự tồn tại của những chấm sáng sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có bóng tối, ngược lại, tả bóng tối cũng là đã chứng minh sự tồn tại của những chấm sáng, những chấm sáng lắt lay mà bóng tối có thể nuốt chửng bất cứ lúc nào. Nhưng như một quy luật của sự sinh tồn, ánh sáng dù lắt lay vẫn cứ tồn tại. Dường như suốt thiên truyện là sự giao tranh gay gắt. mà lặng lẽ giữa bóng tối và ánh sáng.
Ánh sáng tự nhiên không chỉ có ánh mặt trời “đỏ rực” mà còn có ánh sáng lấp lánh” của vòm trời bởi những vì sao đêm. Dưới mặt đất còn có ánh sáng của “những con đom đóm bay là là”.
Ánh sáng nhân tạo gồm ngọn đèn chị Tí; ngọn đèn dầu vặn nhỏ của chị em Liên mà “từng hột ánh sáng lọt qua phên nứa”; bếp lửa của bác phở Siêu chỉ chiếu sáng một vùng đất cát: ánh sáng của “cái thau sắt trắng” mà gia đình bác Xẩm mù để trước mặt được ánh sáng của xung quanh hắt vào; ánh sáng của tàn nhang rụng xuống đường ray; ánh sáng của “hai ba người cầm đèn lồng lung lay cái bóng dài”. Ngoại trừ ánh sáng mà đoàn tàu mang đến và ánh sáng hiện lên trong tâm tướng của Liên về Hà Nội còn lại tất cả đều ở thế lụi tàn, leo lét, rơi rụng, mờ dần.
Ánh sáng ngọn đèn của ngọn đèn chị Tí và cả cái bếp lửa của bác Siêu chỉ đù chiếu sáng một vùng đất cát” và dường như đêm càng về khuya càng yếu ớt. Ngọn đèn của chị em Liên thì vặn nhỏ tối đa chỉ vừa đù cho “từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Những ngọn đèn lồng di động lung lay có thể tát bất cứ lúc nào. Những vì sao trên trời và những con đom đóm dưới đất chỉ “nhấp nháy” lúc sáng lúc tắt. Thảm hại nhất và cũng là chi tiết tuy bâng quơ mà giàu ý nghĩa nhất là chiếc thau sắt trắng của gia đình bác xẩm. Mỗi gia đình đều có một chút ánh sáng dù leo lét, gia đình bác xẩm với công việc “đặc trưng” của mình nên không dùng đèn nhưng vẫn còn có một chút ánh sáng – đó là sự chia sẻ của những người xung quanh dù vô cùng ít ỏi. Chiếc thau sắt trắng đã hắt lên thứ ánh sáng dược “hứng” từ ánh sáng của mọi người xung quanh.
Ánh sáng của phố huyện là thứ ánh sáng yếu ớt và trong phạm vi rất hẹp. Nó chỉ như những viên sỏi ném vào “cái ao lớn” của bóng tối. Ánh sáng không làm cho phố huyện sáng lên mà thậm chí còn gợi cho người ta cảm nhận rõ hơn về bóng tối. Ánh sáng phải chăng chỉ là một sự cầm cự kéo dài, một sự vật lộn với bóng tối để tồn tại. Cũng như những cư dân phố huyện, ánh sáng của phố huyện là biểu tượng cho kiếp sống lắt lay, mòn mỏi, thảm hại, những kiếp người cũng như những kiếp đèn bé nhỏ kia, có thể vụt tắt bất cứ lúc nào. Dường như Thạch Lam, bằng cách này, đã âm thầm chứng minh cho một câu ngạn ngữ của phương Tây: “Đời người như ngọn nến”. Đời người nói chung đã vô cùng mong manh. Đời người của những cư dân phố huyện nơi đây lại càng mong manh gấp vạn lần. Họ chỉ là những đốm sáng yếu ớt bị bỏ quên giữa hoang mạc tăm tối của cuộc đời. Điều đáng nói hơn cả là Thạch Lam đã tạo nên sự đối chọi gay gắt giữa hai mảng tối – sáng, đặc biệt là ngọn đèn dầu leo lét chị Tí.
Bức tranh đời sống phố huyện được mở đầu bằng cảnh chợ tàn. Cảnh chợ tàn của bức tranh phố huyện được Thạch Lam miêu tả bằng những nét vẽ hiện thực khiến cho phố huyện lộ rõ thực chất nghèo đói, thảm hại của nó. Đó là những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, và lá mía” – chợ nghèo nên “rác thải” của chợ cũng chẳng có gì. Ấy thế mà vẫn có “mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom đi lại tìm tòi” rồi thì “nhặt thanh nứa, thanh tre”. Có gì đây mà nhặt. Chi tiết này thường xuất hiện trong truyện của Thạch Lam như một nỗi ám ảnh từ thời thơ ấu hằn vào tâm hồn nhà văn “duy cảm” để trở thành một tình thương mến day dứt, ngậm ngùi.
Khi bóng tối xuất hiện, những cư dân kiếm sống ban ngày vừa nhập vào bóng tối thì những cư dân kiếm sống ban đêm quanh ga xép lại từ bóng tối kéo ra. Bằng một chút ánh sáng yếu ớt, những con người này bị vây hãm bởi bóng tối. Họ là những cuộc đời tàn, bên cạnh những đồ vật tàn trong một khung cảnh tàn lụi héo úa.
Bắt đầu cho sự chuyển giao giữa chiều và tối là cảnh mấy đứa trẻ lom khom… đi lại… nhặt nhanh., tìm tòi.. Và để tô thêm những bóng dáng xiêu vẹo đó, tác giả tả tỉ mỉ những thứ “rác thải” của một phiên chợ nghèo và cái mùi ẩm mốc bốc lên cùng vài người về muộn còn nói rốn với nhau thêm vài câu chuyện rời rạc.
Mẹ con chị Tí có lẽ là nhân vật điển hình nhất cho cuộc sống lay lắt, ngoi ngóp của hố huyện này. Gánh hàng của mẹ con chị là tâm điểm trong bức tranh sinh hoạt nơi phố huyện khi đêm xuống. Ngày thì mò cua bắt tép, cứ đêm đến lại đội cái chõng tre ra ga bày bán hàng nước. Đã biết, là không bán được gì mà vẫn cứ đi, đi vì biết đâu kiếm thêm được vài xu ít ỏi. Đó đâu phải là sống, đó chẳng qua là sự cầm cự, cầm chừng trong vô vọng, không phải ngẫu nhiên mà tác giả trở đi trở lại với ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Ngọn đèn lắt lay cố chống chọi với bóng tối cũng giống như cuộc đời của chị lay lắt chống chọi với đói nghèo, ảm đạm và buồn tẻ. Đây là hình ảnh không chỉ có sức ám ảnh đôi với Liên mà đôi với cả tác giả và người đọc. Thạch Lam đã dồn không biết bao nhiêu thương mến xót xa vào đấy để rồi đọc những trang viết của ông, hình ảnh ngọn đèn cùng số phận chị Tí cứ len lỏi cả vào giấc ngủ.
Bác phở Siêu có vẻ khá hơn bởi ở cái đất nghèo này phở là một thứ xa xỉ. Tiếng đòn gánh kĩu kịt cùng với mùi thơm ngầy ngậy và chấm lửa vàng lơ lửng vừa đem lại cho phố huyện một chút sinh khí chưa đủ ấm đã lại rơi vào một tiếng thở dài cho sự ế ẩm.
Gia đình bác xẩm ngồi đấy tự lúc nào bởi đối với bác ta ngày và đêm đều có nghĩa gì đâu. Cả nhà sinh sống, chơi đùa, “làm ăn” trên một manh chiếu rách với một chiếc thau sắt dùng để đựng của bố thí. Bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bần bật trong yên lặng và thằng con phụ họa bằng cách bò ra đất nhặt những rác bẩn để nghịch.
Tưởng như thế đã là thê thảm và đáng sợ nhưng có một con người còn đáng sợ hơn, đấy là bà cụ Thi điên. Bà xuất hiện như một cái bóng nhưng ám ảnh mãi bởi tiếng cười nửa điên nửa dại và hình ảnh người đàn bà cầm một cút rượu to dốc một hơi cạn sạch khiến người ta cảm thấy đắng chát cho kiếp người tím tạ, héo mòn, lay lắt. Ai? Cái gì khiến bà cụ Thi ra nông nổi ấy? Thạch Lam không luận bàn mà lặng lẽ đặt vào lòng trắc ẩn của người đời cái câu hỏi ấy. Cuộc sống cứ tiếp diễn theo cái đà này thì có lẽ tất cả cũng sẽ nửa điên nửa dại mất thôi. Thật thê thảm khi một người đàn bà uống rượu để tìm quên trong men đắng, càng thê thảm khi người đàn bà ấy không đủ tiền mua hẳn một chai rượu để uống cho đủ say mà quên. Một cút rượu to dốc tọt vào họng là một chi tiết rất Thạch Lam – vừa tinh tế, vừa sâu sắc mà tưởng như vụn vặt, vu vơ.
Gian hàng của chị em Liên có vẻ bình yên đứng giữa phố huyện. Mặc dù được coi là khá giả hơn nhưng cũng thật buồn tẻ, ảm đạm. Một gian hàng nhỏ xíu, xiêu vẹo, với tấm phên nứa dán giấy nhật trình, vài phong thuốc lào, cái chõng sắp gãy… Và hai đứa trẻ vừa ngây thơ vừa già nua đêu tội nghiệp. Nếu đi sâu tìm hiểu gia cảnh và hoàn cảnh hiện tại của hai đứa trẻ, ta sẽ thấy cả một sự “xuống cấp”, sa sút ghê gớm: thầy mất việc… từ Hà Nội chuyển về… thuê quán bán hàng…
Những câu chuyện tẻ nhạt, đơn điệu dường như hôm nào cũng lặp lại một cách bâng quơ, chậm rãi. Những con người hôm nào cũng hiện ra rồi khuất đi như những cái bóng lặng lẽ, âm thầm.
Bao quanh họ là những đồ vật tồi tàn: ngồi quán ọp ẹp, chõng gãy, chiếu rách, đàn còm, bát sứt… Những con người, những đồ vật, cảnh vật đó tạo nên gương mặt âm u, ảm đạm, buồn thiu của phố huyện. Cuộc sống cứ diễn ra theo hướng tàn tạ mòn mỏi với những con người không nguồn gốc xuất thân, không số phận thậm chí tác giả cũng không miêu tả chi tiết dáng vẻ, nét mặt… Nhưng có lẽ vì thế mà số phận họ hiện lên càng bé nhỏ, côi cút, tội nghiệp. Ai cùng nhẫn nhục, âm thầm với cái kiếp của mình như nó vốn sinh ra đã thế, lặp lại nhiều thành quen. Thật đáng sợ khi những hình ảnh lay lắt ấy cứ diễn ra trước mất hai đứa trẻ như một vòng đời quẩn quanh không lối thoát của phố huyện. Nếu cuộc sống không có kì đổi thay thì đó sẽ là những hình ảnh chờ đợi hai đứa trẻ ở phía trước. Hiện tại của cư dân phố thì đó sẽ là những hình ảnh chờ đợi hai đứa trẻ ở phía trước. Hiện tại của cư dân phố huyện sẽ là tương lai của những thế hệ như Liên, An, con chị Tí… Liên sợ không dám nhìn bà Thi điên một phần bởi vì bà ta điên nhưng một phần vì Liên sợ cho cái tương lai của chính mình. Rồi đây Liên sẽ thành chị Tí? Bác phở Siêu? Cụ Thi điên?… Vẽ ra sự tương quan giữa hai đứa trẻ với phố huyện này, Thạch Lam đã đặt ra sự tương quan giữa những mầm cây với một thế giới già nua tàn tạ, héo mòn. Những mầm cây ấy đã mọc lên trên một mảnh đất khô cằn, bạc phếch. Chúng sẽ lên thế nào đây? Hãy cứu lấy chúng, những đứa trẻ vô tội! Đó là điều Thạch
Thạch Lam âm thầm gửi gắm vào những trang viết của mình khi miêu tả bức tranh phố huyện. Và có lẽ cũng vì thế mà truyện cứ gợi lên những xót thương day dứt mãi không thôi.
Không phải những con người phố huyện không có những mong ước, hi vọng. Không có hi vọng thì loài người chắc đã bị hủy diệt lâu rồi. Nhưng hi vọng điều gì? “Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Sự mong đợi cũng thật tội nghiệp – “Một cái gì tươi sáng” – thật mong manh, thật mơ hồ. Cái nghèo đói, lam lũ, cơ cực đã mài mòn đến cả ước mơ và hi vọng khiến cho những con người nơi đây không ngẩng đầu lên được. Ngay cả cái khả năng tự lừa dối mình để bám trụ cuộc sống dường như họ cũng không còn được là bao. Có thể nói, tấm lòng yêu thương của Thạch Lam đã nghiêng xuống những kiếp người nhỏ bé ấy đã mà lắng nghe, để mà chia sẻ, để mà an ủi. Cứ như thế, nhà văn trân trọng từng hột ánh sáng bằng những lời lẽ tâm tình nhỏ nhẹ mà đầy sâu sắc thấm thìa. Phố huyện và những con người phố huyện đã được bao bọc bởi một trái tim dung dị mà ấm áp của một nhà văn suốt đời mong muốn cho cuộc đời “có nhiều công bằng và yêu thương hơn”.
Trên cái nền của bức tranh phố huyện hiện lên hình ảnh hai đứa trẻ, đặc biệt là Liên. Phố huyện luôn được đặt trong tầm mắt của Liên, cô bé ngây thơ mà vô cùng nhạy cảm. Thạch Lam đã mượn cái nhìn, diễn biến tâm trạng của Liên để thể hiện cảm nhận của mình trong kí ức cũng như hiện tại đối với thế giới xung quanh, từ đó tư tưởng của tác phẩm được phát biểu một cách nhẹ nhàng, kín đáo mà sâu sắc, thấm thía.
Bắt đầu là nỗi buồn của Liên trước một buổi chiều tàn. Liên đã “ngồi yên lặng” để cho tất cả buổi chiều lặng trầm và u uất thấm thía vào tận tâm hồn để rồi “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần. Liên không hiểu sao, nhưng chỉ thấy lòng buồn man mác”. Đoạn văn giống như một câu thơ trữ tình mang âm hưởng trầm buồn ngọt ngào thấm thía và man mác bâng khuâng. Trong tâm hồn Liên có một chút, ngày thơ của trẻ con và một chút già dặn của người lớn cộng với một chút cái tôi lãng mạn khó cắt nghĩa. Liên chính là hiện thân của tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của Thạch Lam.
Liên không chỉ buồn trước cảnh chiều tàn, Liên còn buồn trước những kiếp người tàn và cuộc sống cứ như một tiếng thở dài, nhẹ mà sâu. Nhìn những đứa trẻ nhà nghèo bới rác “Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền đế mà cho chúng nó”. Một niềm thương cảm với bùi ngùi, vừa xót xa cứ dâng lên trong hồn Liên giống như cái cậu bé Sơn hồi nào trong Gió lạnh đầu mùa lặng nhìn những đứa trẻ nghèo tím tái vì rét.
“Bóng tối cứ ngập đầy dần” trong đôi mắt Liên và cũng ở khang cửa sổ tâm hồn ấy, những chấm sáng cùng với những con người hiện ra trong tình thương mến. Tình thương mến ấy được thể hiện qua những câu chào hỏi ân cần với chị Tí, qua các cử chỉ “lẳng lặng rót rượu” cho cụ Thi rồi tuy có hơi run sợ vẫn “đứng sững nhìn theo cụ đi lẫn vào bóng tối”. Tình thương ấy không chỉ tụ lại nơi ngọn đèn chị Tí, chiếc thau sắt của gia đình bác xẩm, đốm lửa nhỏ của gánh phở bác Siêu, mà dường như trùm phủ lên toàn cảnh phố huyện, thậm chí đến cả những hòn đá nhỏ “một bên sáng, một bên tối” khi mà đêm buông xuống, trăng về khuya, tâm trạng của Liên càng u uất, xao xác đến tội nghiệp.
Cũng có lúc, Liên lặng ngắm “vũ trụ thăm thẳm bao la”. Những cái “bí mật” và xa lạ” của nó đã làm “mỏi trí nghĩ” của Liên và Liên lại “chúi nhìn về mặt đất, về vầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”. Như vậy, cũng như Thạch Lam, tâm hồn Liên dù có lãng mạn tới đâu cũng không thoát li”, không “lãng quên” mà luôn gắn với cuộc đời, với con người.
Cái nhạy cảm của Liên với cuộc đời còn thể hiện ở chi tiết: từ gánh phở của bác Siêu mà Liên sống lại với những kí ức tuổi ấu thơ khi gia đinh còn ờ Hà Nội. Tuy “những kỉ niệm còn nhớ lại không rõ rệt gì, chỉ là “một vùng sáng rực lấp lánh” nhưng đó chính là khởi nguồn sâu thẳm cho tâm trạng thấp thỏm đợi tàu của Liên ở cuối truyện. Đêm nào Liên cũng đợi, và đêm nào cũng háo hức như lần đầu để rồi sau đó lại chìm và cuộc đời đầy bóng tối. Tâm trạng đợi MU của Liên cùng là tâm trạng mòn mỏi đến xót xa, hi vọng đến tội nghiệp. Nếu tinh ý sẽ thấy một tiếng thở dài rất nhẹ của chị em Liên qua chi tiết: “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?” (câu hỏi của An). “Liên không đáp, chuyến tàu đêm nay thưa vắng người và hình như kém sáng hơn”. Niềm vui chưa trọn thì một chút lo âu mơ hồ xuất hiện. Rồi từ đêm mai… đêm mai nữa… rất có thể sẽ không còn chuyến tàu đêm ấy nữa. Cuộc sống sẽ ra sao khi con người ta không còn niềm tin và hi vọng?.
Kết thúc tác phẩm là tiếng vang động nhỏ dần “mất dần trong bóng tối, lắng tai nghe cũng không thấy nữa” chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác Siêu đi vào làng, “vợ chồng bác Xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ”. Và Liên, Liên “gối đầu lên tay nhắm mắt lại”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”, “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. Đúng là “một đêm mùa hè êm như nhung” giấu đi những tiếng thở dài cố nén của biết bao kiếp người. Giấc ngủ của Liên là giấc ngủ yên tĩnh mà thực ra đầy xao động và có gì nằng nặng, buồn buồn, thương thương, tồi tội khiến đọc xong những dòng cuối cùng, gấp trang sách lại mà bao nhiêu nỗi niềm day dứt, trăn trở khiến ta thao thức mãi không thôi.
Tác giả đã mượn tâm trạng nhân vật để tạo nên nỗi ám ảnh nơi người đọc rất nhiều lần Thạch Lam như muốn nhấn mạnh tới cái ngây thơ của chị em Liên: “Không hiểu sao”, Liên “tưởng là”, Liên “mơ hồ”, Liên “không hiểu”, Liên “thấy” mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”, … Có thể Liên không hiểu, không biết thật nhưng chính cái từ “không” ấy đã “bẫy” người đọc khiến người ta sa vào những bất định mông lung. Người đọc đã trôi theo dòng tâm trạng của nhà văn là “lây nhiễm” cái cảm giác chập chờn bất định của nhân vật. Người ta sống với nhân vật, buồn nỗi buồn mơ hồ của nhân vật tự lúc nào không hay biết. Đó chính là ma lực của truyện ngắn Thạch Lam.
Liên vừa giống những con người phố huyện vừa rất khác họ. Giống vì cùng với họ cô là một nét trong bức tranh u buồn đầy bóng tối: cũng dọn hàng, cũng góp vài lời đứt quãng, cũng có một ngọn đèn leo lét, với một gian hàng còm gồm: thuốc lào, xà phòng, diêm… Và cùng với những con người nơi đây, những con người trong bóng tối ảm đạm âm thầm mơ hồ “mong đợi một cái gì tươi sáng” …
Nhưng Liên lại rất khác với những cư dân phố huyện. Cô tách ra làm thành một điểm nhìn của “cái tôi chú thể” không chịu đánh mất mình trong cái tổng thể có nguy cơ biến mất vì đang ở quá trình nhạt nhòa, leo lét. Liên không phải là một cô gái quê nhưng cũng không hẳn là một cô gái thị thành. Trong Liên có cả nét giản dị, mộc mạc lẫn sự phức tạp, khó hiểu đầy lãng mạn. Cô không chỉ biết cúi đầu nhìn những quầng sáng trên mặt đất, cô còn biết thả hồn theo những vì sao lấp lánh đế tìm sông Ngân Hà. Cô không chỉ quen nhìn con đường tối từ làng ra bờ sông mà còn biết mơ tưởng về một thế giới đầy ánh sáng dù mơ tường ấy rất đỗi mong manh và có lúc vụt biến mất. Liên là một đứa trẻ, dù có lớn hơn An nhưng vẫn chỉ là một đứa trẻ với tất cả những gì ngây thơ của một đứa trẻ. Nhưng trong Liên lại có cả sự trưởng thành thậm chí có cả cái già nua của một người lớn. Chính sự nhập nhoạng giữa hai vùng sáng — tối ấy đã có sức tự khen lên những giai điệu buồn trong một tâm hồn buồn khiến người đọc bị xâm chiếm, bị ám ảnh và cứ rưng rưng một niềm thương cảm.
Mỗi điểm khác biệt nữa của Liên với những cư dân phố huyện là niềm khao khát hướng tới ánh sáng. Cái nghèo nàn đơn điệu nơi phố huyện tuy khiến Liên không giấu được một tiếng thở dài nhưng cũng không ngăn được ở cô những ước mơ, những khao khát về một sự đổi thay, một thế giới tươi sáng. Nhà văn đã lắng nghe, đã thấu hiểu và đã trân trọng những tia hi vọng nhỏ bé ấy của con người. Đó chính là giá trị nhân đạo nhẹ nhàng mà sâu sắc thấm thía của tác phẩm.
Nỗi xót thương của Liên, tâm trạng của Liên, cảm xúc của Liên thật ra là cảm xúc, tâm trạng, nỗi xót thương của Thạch Lam. Thạch Lam đã hóa thân vào nhân vật và bằng lối văn duy cảm, ông đã đưa người đọc nhập vào thế giới tâm hồn nhân vật, người đọc sẽ liên tưởng, hình dung tới điều tác giả muốn đặt ra.
Điều mà tác giả muốn đặt ra trong Hai đứa trẻ mặc dù giản dị và nhẹ nhàng nhưng luôn luôn có ý nghĩa đối với con người ở mọi thời đại. Hãy biết, lắng nghe cuộc sống xung quanh và chắt chiu những gì tốt đẹp nhất. Điều đó tưởng dễ nhưng chỉ cần một chút vô tình ta sẽ bỏ qua. Thạch Lam đã kéo con người xích lại gần nhau hơn từ những điều hết sức bình thường ấy.
**********
Bên cạnh bài văn mẫu phân tích tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam trên đây, khi tìm hiểu về truyện ngắn Hai đứa trẻ, các em không nên bỏ qua những bài văn mẫu cùng chủ đề khác như: Cảm nhận về truyện Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam, Cảm nhận về nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ, Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, Phân tích vẻ đẹp tính cách và tâm hồn nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp