Đề bài: So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng chí
Dàn ý, văn mẫu so sánh hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí
Bạn đang xem: So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng chí
I. Dàn ý So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng chí
1. Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
– Dẫn vào hình tượng người lính trong Tây Tiến và Đồng Chí.
2. Thân bài
a. Điểm chung:
– Sáng tác năm 1948.
– Bối cảnh chiến trường vùng Tây Bắc.
– Tác giả đều là những người lính thực thụ bước ra từ chiến trường máu lửa.
b. Hình tượng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng:
* Xuất thân:
– Những chàng trai đến từ thủ đô, hầu hết là học sinh sinh viên.
– Mang vẻ hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn.
* Hoàn cảnh chiến đấu:
– Chiến trường vùng biên giới Việt – Lào khắc nghiệt.
– Cung đường hành quân rộng lớn, khúc khuỷu.
– Điều kiện chiến đấu thiếu thốn, phải đối mặt với căn bệnh sốt rét kinh hoàng.
– Thường xuyên có người hy sinh vì bệnh tật và bom đạn.
* Vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình:
– “Không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, hậu quả của bệnh sốt rét, nhưng vào thơ Quang Dũng đã mang nét nghĩa chủ động, trở thành vẻ đẹp ngoại hình kỳ dị, trấn áp kẻ thù.
* Vẻ hào hùng, bất khuất trong lý tưởng chiến đấu:
– “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”: Một lòng hy sinh cho Tổ quốc, không tiếc thân mình.
– “Rải rác biên cương mồ viễn xứ…Áo bào thay chiếu anh về đất”: Cái chết hiên ngang, bất khuất, bi thương nhưng không hề bi lụy.
* Vẻ hào hoa, lãng mạn trong đời sống tâm hồn:
– Say sưa điệu nhạc, nụ cười ánh mắt của những cô gái trẻ, vui mừng nhảy múa trong những lúc tập kết về doanh trại.
– “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, khao khát tình yêu, hạnh phúc.
=> Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, bay bổng, là động lực để người lính trở nên mạnh mẽ kiên cường trong chiến đấu.
d. Hình tượng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu:
* Xuất thân:
– Người nông dân áo vải, đi từ làng quê nghèo khó.
* Điều kiện chiến đấu:
– Vùng chiến trường Việt Bắc hoang sơ, khắc nghiệt.
– Phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng.
– Thiếu thốn vật chất, cuộc chiến vô cùng gian khổ, khó khăn.
=> Miêu tả một cách chân thực, không mang màu sắc lãng mạn.
* Ngoại hình:
– Không mang vẻ dữ dội, thay vào đó là hình tượng người lính nghèo nàn, khổ cực “Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá/Miệng cười buốt giá chân không giày” => Vẻ đẹp đến từ sự chân chất giản dị.
* Vẻ đẹp tâm hồn:
– Thể hiện chủ yếu thông qua tình đồng chí gắn bó sâu sắc.
– Sự thông cảm lẫn nhau khi cùng có chung hoàn cảnh, gắn bó sâu sắc, đồng cam cộng khổ vượt qua những lúc ốm đau bệnh tật.
– Đặc biệt là cùng kề vai nhau bước vào chiến trường máu lửa, thấu hiểu nỗi mất mát, hy sinh trong chiến tranh.
– Tinh thần kiên cường bất khuất vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong chiến đấu.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận.
II. Bài văn mẫu So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng chí
Giai đoạn năm 1945-1975 sau khi cách mạng tháng tám thành công cũng là lúc nền văn học với đề tài “lực lượng vũ trang – chiến tranh cách mạng” nở rộ với nhiều các tác giả, tác phẩm đắt giá, phản ánh cả một thời đại hào hùng của dân tộc. Trong đó nổi bật nhất là hình tượng người lính chiến với đủ mọi sắc thái, cung bậc cảm xúc trong những hoàn cảnh chiến đấu vô cùng gian khổ và ác liệt. Ở họ luôn ánh lên những vẻ đẹp rực rỡ, hào hùng mang tính sử thi. Bên trong cái vỏ bọc xơ xác, mỏi mệt qua những chặng đường hành quân khúc khuỷu, những trận sốt rét rừng kinh hoàng là cả một tinh thần thép, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Những cây bút mang bước ra từ chiến trường luôn để lại cho đời những vần thơ về người lính và cuộc chiến đầy chân thực và sâu sắc. Bên cạnh những cái tên như Hoàng Trung Thông, Phạm Tiến Duật, Hữu Loan, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Tố Hữu, Huỳnh Văn Nghệ, Trần Mai Ninh, Hoàng Cầm, thì Chính Hữu và Quang Dũng là hai nhà thơ có những khắc họa rõ nét nhất về hình tượng người lính chiến. Nếu như Chính Hữu viết về một người lính xuất thân nông dân, ra đi từ làng quê nghèo với những nét vẽ chân thực trong Đồng Chí, thì trong Tây Tiến Quang Dũng lại viết về người lính đến từ thủ đô với những nét vẽ lãng mạn, bay bổng.
Về nét chung thì cả Đồng chí và Tây Tiến đều được sáng tác vào năm 1948, những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, với bối cảnh là khu chiến trường miền Tây Bắc khắc nghiệt và hoang sơ. Trước hoàn cảnh khó khăn của cuộc chiến cả Chính Hữu và Quang Dũng đều có những cảm xúc về hình tượng người lính anh hùng, kiên định vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, với vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi. Đặc biệt với xuất thân là người lính trực tiếp bước ra từ chiến trường đầy máu và lửa thì những vần thơ của hai tác giả khi nói về hình tượng người lính chiến lại càng trở nên chân thực và rõ nét hơn cả. Chính điều đó đã khiến người lính trong Đồng chí và cả Tây Tiến trở thành những tượng đài bất hủ trong nền văn học chiến tranh cách mạng với những nét chung như trên và những nét riêng đặc sắc khác.
Ngoài những điểm chung trên thì ở mỗi tác phẩm hình tượng người lính lại hiện lên với những vẻ đẹp riêng biệt đại diện cho tài năng và phong cách sáng tác của mỗi tác giả. Trước hết ta nói về Tây Tiến và Quang Dũng. Quang Dũng được mệnh danh là người nghệ sĩ đa tài với khả năng ở nhiều lĩnh vực như âm nhạc, hội họa và thi ca và với mỗi lĩnh vực như thế ông cũng lại tạo cho mình một dấu ấn riêng nhất định. Đặc biệt trong sáng tác thơ, Quang Dũng luôn đưa vào những vần thơ của mình chất nhạc chất họa một cách tinh tế để vừa tái hiện được hơi thở của một con người bước ra từ chiến trường nóng hổi, vừa để cho thơ mình có một vẻ lãng mạn, hào hoa rất riêng. Có thể nói rằng Tây Tiến là tiêu biểu cho những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi kết hợp chặt chẽ với cảm hứng lãng mạn – khuynh hướng thẩm mỹ chính của văn học nước nhà giai đoạn 1945-1975. Quang Dũng là một nhà thơ có tâm hồn lãng mạn và binh đoàn Tây Tiến cũng như thế, bởi hầu hết họ đều xuất thân từ thủ đô Hà Nội thân yêu, ra đi vì tiếng gọi của Tổ Quốc với hành trang còn thơm mùi giấy mực. Ở những người lính Tây Tiến, luôn có một vẻ đẹp hào hoa, nó xuất phát từ tinh thần của những con người có học, những người được tiếp xúc với nền giáo dục mới, và được sống ở nơi phồn hoa đô hội. Nói chính xác thì họ được xem là những phần tử tiểu tư sản trí thức, với tư tưởng phóng khoáng, đặc biệt họ lại là những thanh niên tuổi còn trẻ, đang còn phơi phới giấc mộng xuân, nên việc mơ về một “dáng kiều thơm” là chuyện rất đỗi thường tình. Đặc biệt trước cái hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, với những cơn sốt rét rừng kinh hoàng, với những cung đường hành quân khúc khuỷu, chập chùng thì những niềm vui nho nhỏ khi nghĩ về cố hương, khi nghĩ về những thứ lãng mạn lại chính là động lực to lớn để họ có thêm sức mạnh chiến đấu. Về bối cảnh chiến đấu, Tây Tiến có phần khác Đồng chí ở chỗ, đoàn quân Tây Tiến được thành lập năm 1947 để phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới vùng Tây Bắc và đánh tiêu hao lực lượng địch. Thế nên địa bàn hoạt động của binh đoàn vô cùng rộng trải dài khắp vùng Tây Bắc, sang cả Sầm Nứa của Lào, rồi vòng về miền tây Thanh Hóa. Chính bởi địa bàn hoạt động rộng lớn, nên hoàn cảnh những năm đầu của cuộc kháng chiến vô cùng khắc nghiệt, giữa một vùng rừng thiêng nước độc, người lính Tây Tiến luôn phải đối mặt với nhiều nguy hiểm và khó khăn cận kề. Nào là:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
rồi “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Có những lúc hành quân trong sương muối buốt lạnh, người sau chỉ thấy lưng người đằng trước cũng đôi lần khiến người lính mệt mỏi, ngao ngán nhưng dĩ nhiên không vì thế mà họ buông xuôi. Đặc biệt, không trận chiến nào mà không có sự hy sinh mất mát, những năm đầu kháng chiến, tất cả quân nhu yếu phẩm đặc biệt là thuốc men đều vô cùng khan hiếm. Thế nên những cơn sốt rét rừng đã trở thành ác mộng của người lính chiến, họ không chết vì bom đạn giặc thù mà chết vì bệnh tật hành hạ. Hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, đọc sơ cứ tưởng người lính nằm ngủ trên súng mũ, nhưng hóa ra đó là một cái chết, một cái chết nhẹ tựa lông hồng, chết bên lý tưởng mà họ vẫn theo đuổi, vẫn ôm trọn súng mũ vào lòng, chết không nuối tiếc.
Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp rất lạ và rất đặc trưng, nó là sự kết hợp của sự hào hùng, bất khuất kiên cường với lại sự lãng mạn và hào hoa đến từ sâu trong tâm hồn những con người trẻ tuổi. Chính sự giao hòa giữa hai yếu tố cương, nhu ấy đã đem đến một hình tượng người lính rất thật, rất độc đáo và sâu sắc là bức tường thành của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước tiên nói về sự hào hùng, dữ dội trong dáng vẻ, ngoại hình, người lính Tây Tiến không có một dáng vẻ sạch sẽ, cao to mà thay vào đó là những người lính với cái đầu “không mọc tóc”, với “quân xanh màu lá”. Một màu da xanh xám vì căn bệnh sốt rét hành hạ quá lâu, kèm theo đó là thiếu máu khiến tóc rụng bằng sạch. Vì điều kiện hành quân gian khổ, không được ăn ngủ đủ giấc, vì chiến trường căng thẳng và ác liệt nên người lính chiến mới có bộ dạng tiêu điều, xơ xác như vậy. Thế nhưng trong cái bộ dạng kỳ dị ấy lại là sự dữ dội và oai hùng mà theo như cách nói của Quang Dũng là họ cố tình “không mọc tóc” để bản thân càng thêm ghê gớm, làn da xanh tái kết hợp với màu quân trang lại là sự ngụy trang hoàn hảo nhất, kết hợp với cái đầu không tóc cho ra đời một đội quân “dữ oai hùm” giữa chốn rừng thiêng nước độc, để kẻ thù thấy mà thêm phần e ngại. Không chỉ vậy, thông qua ngoại hình kỳ dị của người lính Tây Tiến, ta lại càng thấu hiểu hơn những hy sinh, mất mát cùng với tinh thần chiến đấu kiên cường, vượt qua mọi gian khổ khó khăn, bởi cái mà họ đối mặt không chỉ đơn giản là bom đạn giặc thù, mà còn là điều kiện chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, lằn ranh sinh tử trở nên vô cùng mong manh và họ buộc phải trở nên cứng rắn mạnh mẽ để vượt qua, đề hoàn thành lý tưởng cách mạng.
Bên cạnh vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình, thì nổi bật nhất ở người lính Tây Tiến chính là ý chí chiến đấu, lý tưởng cách mạng mang đậm khuynh hướng sử thi.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Vẫn biết rằng ra đi là không hẹn ngày trở lại, thế nhưng người lính chiến vẫn chưa từng có ý nghĩa lùi bước. Họ sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất cuộc đời, tuổi hai mươi mấy là lứa tuổi mà con người ta có nhiều nỗi băn khoăn trăn trở nhất, còn đối với các anh thì chỉ có một nỗi buồn duy nhất ấy là Tổ quốc chưa yên. Thế nên chiến trường trở thành nơi các anh hướng đến, lòng các anh chỉ ngập tràn một lý tưởng cách mạng, cái chết dẫu là sợ hãi nhưng đứng trước Tổ quốc yêu thương đang vẫy gọi, thì nó dường như không còn quan trọng nữa. Mảnh đất này đã sinh ra và nuôi lớn các anh, thế nên các anh phải có nghĩa vụ phụng sự và bảo vệ nó bằng bất cứ giá nào, kể cả phải hy sinh tính mạng, các anh cũng chẳng hề nuối tiếc. Với phong cách thơ của Quang Dũng thì hình tượng người lính chiến với sự hy sinh, mất mát đau thương, nhưng không hề bi lụy, thay vào đó là cảm xúc bi tráng, hào hùng. Với những vần thơ rất hay, rất trang trọng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ..
Áo bào thay chiếu anh về đất”
Câu thơ tựa như cảnh xông pha trận mạc rồi hy sinh của các tráng sĩ thời cổ đại, với vẻ đẹp kiêu hùng, anh dũng vô cùng. Quang Dũng là một người lính xuất sắc, cũng là người may mắn sống sót sau những trận chiến ác liệt và những trận sốt rét rừng khủng khiếp. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc ông phải chứng kiến cảnh hàng loạt đồng đội ngã xuống trên đất mẹ và cả trên đất khách, điều kiện thiếu thốn đến mức manh chiếu bó thây cũng không có đủ. Đau xót là thế nhưng bước vào thơ Quang Dũng, với tinh thần lãng mạn và lạc quan, ông không để sự bi thương chi phối quá mức, thay vào đó cái chết của người lính chiến lại được tác giả đưa vào thơ với vẻ oanh liệt, anh hùng bất tử. Cái chết để cả núi sông phải gầm lên “khúc độc hành” tiễn đưa thay cho kèn, trống tầm thường.
Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng mà quên đi những nét hào hoa, lãng mạn thì quả là một thiếu sót lớn, và không hoàn chỉnh. Bên cạnh những lúc hành quân khắc khổ, những trận chiến ác liệt, những đợt rét buốt của sương muối, của bệt tật thì người lính cũng có những lúc được thả lỏng. Đó là những lúc:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Người lính thể hiện tinh thần yêu đời, yêu cuộc sống khi say mê nhảy múa quanh đống lửa, say mê ánh mắt nụ cười của những cô gái trẻ, say mê cả điệu nhạc rộn ràng, vui tươi. Đó chính là bản chất tâm hồn của người lính Tây Tiến, những con người đã từ bỏ áo trắng, mực xanh lên đường ra chiến tuyến nhưng chưa bao giờ từ bỏ cái tâm hồn bay bổng, đầy mơ mộng. Và nó cũng chính là tuổi trẻ, một tuổi trẻ có những khát khao về tình yêu, sự ham vui, ưa sôi động để làm giàu cho cuộc sống. Chính những điều ấy đã nuôi dưỡng một tâm hồn kiên cường và mạnh mẽ khi chiến đấu, tiếp sức cho người lính những lúc tưởng chừng quá mệt mỏi và gục ngã. Không chỉ trong những giây phút nghỉ ngơi, đặt doanh trại mà cả trong những lúc chiến đấu, hành quân, người lính chiến cũng trong mình tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Những đêm không ngủ chờ giặc trên đất khách, lòng người chiến sĩ trẻ tuổi lại hướng về quê hương yêu dấu, nơi thủ đô ấy có gia đình, có bạn bè, trường lớp và có cả những “dáng kiều thơm”. Cũng cần nhắc lại rằng, trước đây cũng chỉ vì hai câu thơ có phần quá lãng mạn và nghiêng về tình cảm cá nhân này mà một thời gian dài Tây Tiến bị xa lánh, bị cô lập. Nhưng từ sau năm 1986, với những đổi mới trong chủ trương chính sách của nhà nước về văn hóa nghệ thuật, thì Tây Tiến đã được trả về với đúng vị trí mà nó xứng đáng có được. Và hai câu thơ trên cũng trở thành điểm nhấn quan trọng của cả bài thơ, phản ánh rất chân thực đời sống tinh thần, tâm tư tình cảm của người lính trong chiến đấu. Họ còn trẻ, họ có quyền được mưu cầu hạnh phúc, và những cô gái mang áo dài, với dáng vẻ yêu kiều, nền nã chính là mơ ước của họ. Các anh hy sinh tuổi trẻ, hy sinh mạng sống để lên lên đường đi chiến đấu trước hết là vì lý tưởng cách mạng, vì Tổ quốc, nhưng bao hàm trong đó còn là vì lợi ích cá nhân, vì bảo vệ hạnh phúc của riêng họ nữa. Chung quy lại, sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài người lính chiến bất hủ, mang vẻ đẹp của thời đại và sống mãi trong trái tim người đọc.
Đó là Tây Tiến với Quang Dũng, còn với Đồng chí của Chính Hữu, có lẽ chúng ta sẽ có ít điểm để phân tích hơn, bởi hình tượng người lính ở thơ Chính Hữu nó mang vẻ chân thực đến khắc nghiệt, và nổi bật lên trên đó là tình đồng chí gắn kết sâu nặng trong chiến đấu. Chính Hữu không đề cập nhiều đến vẻ đẹp tâm hồn mà thay vào đó ông đi sâu và hoàn cảnh xuất thân và hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ của họ để làm nổi bật vẻ đẹp anh hùng. Trước hết nói về xuất thân, Chính Hữu và đồng đội đều là những người con của mảnh đất miền trung đầy nắng và gió:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Cuộc sống nghèo khó, kham khổ. Có thể nói nếu người lính trong Tây Tiến là phần tử tiểu tư sản trí thức thì trong thơ Chính Hữu, người lính lại là những người nông dân áo vải, bước vào chiến trường với bàn tay quen cuốc, quen cày, quen ruộng lúa, con trâu. Hoàn cảnh chiến đấu cũng có nhiều nét tương đồng với người lính Tây Tiến, đó là vùng rừng núi Việt Bắc nhiều khắc nghiệt “rừng hoang sương muối”, sự hiện diện kinh hoàng của những cơn sốt rét rừng với “từng cơn ớn lạnh/Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Có thể nói rằng khác với vẻ lãng mạn của Quang Dũng, thì Chính Hữu lại thích đi sâu vào miêu tả những cảm nhận thực tế của cơn sốt rét, những nỗi vất vả, mệt nhọc của người lính trước bệnh tật, thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn đến từ sự chân chất, giản dị của người lính nông dân trong chiến đấu. Tương tự, về ngoại hình người lính, Chính Hữu cũng rất thực tế khi viết:
“Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày”
Để phản ánh điều kiện chiến đấu đầy thiếu thốn và gian khổ, từ đó làm nổi bật lên sự kiên cường, mạnh mẽ của người lính trong chiến đấu. Về nét đẹp tâm hồn, có lẽ phản ánh rõ nhất thông qua tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn của người lính chiến. Họ cùng nhau chiến đấu, cùng nhau cảm nhận cái khốn khổ của cơn sốt rét rừng, cùng cảm nhận được sự thiếu thốn, gian nan trong chiến đấu, cũng biết từng trận rét cắt da cắt thịt của vùng núi rừng Tây Bắc. Và quan trọng hơn cả họ luôn kề vai sát cánh, sẵn sàng sống chết bên nhau. Tình đồng chí đến từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân, từ những lần hành quân chiến đấu, từ những lần sống chết bên nhau trên chiến trường, chiến tranh càng làm sâu đậm thêm tình đông đội. Từ sa trường ấy, đã hình thành nên một thứ tình cảm quý giá không thể phai mờ – tình đồng chí, đồng đội.
Đối với mỗi hình ảnh người lính trong hai bài thơ ta đều có thể nhận thấy được những vẻ đẹp riêng biệt, một bên là sự hào hùng lãng mạn, một bên là sự kiên cường, thực tế. Tất cả những vẻ đẹp riêng ấy đã tổng hòa lại, làm nên hình tượng người bộ đội cụ Hồ anh dũng, bất tử trong lòng độc giả và trong lòng của toàn dân tộc Việt Nam mãi về sau.
———HẾT————
Tây Tiến và Đồng chí là hai bài thơ kháng chiến tiêu biểu cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước. Bên cạnh bài So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng chí, để khám phá thêm các bài văn hay lớp 12 , các em có tìm đọc các bài mẫu Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến, Cảm nghĩ về bài Đồng chí, Phân tích bài thơ Đồng chí để làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân mặc áo lính.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp