Đề bài: Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối
Bài thơ “Chiều tối”, tên chữ Hán là “Mộ”, được trích từ “Nhật kí trong tù” – tập thơ ra đời vào tháng 8 năm 1942. Lúc này, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để tranh thủ viện trợ quốc tế. Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong vòng 13 tháng. “Chiều tối” là một bài thơ số 31 của tập thơ “Nhật kí trong tù”. Cảm hứng của tác phẩm được gợi lên trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối mùa thu năm 1942. Dàn ý và bài văn Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối dưới đây sẽ giúp các em học sinh cảm nhận sâu sắc về giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Bạn đang xem: Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối
Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối
I. Dàn ý Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối (Chuẩn)
1. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và dẫn dắt vào vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh.
2. Thân bài:
* Tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết
– Bức tranh cảnh vật thiên nhiên ẩn chứa nhiều tâm trạng
+ Cánh chim mỏi mệt bay về rừng tìm chỗ ngủ => sự mỏi mệt sau một ngày dài chuyển lao.
+ Đám mây cô đơn trôi nhẹ giữa bầu trời => sự cô đơn lạc lõng của người chiến sĩ nơi đất khách quê người.
– Không gian rộng lớn nhưng cô quạnh, vắng lặng…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối tại đây.
II. Bài văn mẫu Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối
1. Phân tích Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối, mẫu số 1 (Chuẩn)
Bài thơ Chiều tối là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình của Hồ Chí Minh, thông qua những cảm nhận hình ảnh, sự vật trên đường chuyển lao, Bác đã rất tinh tế bộc lộ những cảm nghĩ nội tâm, tâm trạng của mình. Chính vì vậy, qua bức tranh thiên nhiên và đời sống con người miền sơn cước, ta thấy được những nét đẹp ẩn giấu trong tâm hồn lớn của một nghệ sĩ, chiến sĩ- Hồ Chí Minh. Đó là tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống, con người và phong thái lạc quan, nghị lực phi thường luôn khao khát tự do cho dân tộc.
Chiều tối là khoảng thời gian cuối cùng của một ngày, đối với Bác thời khắc này đánh dấu chặng cuối cùng của một ngày đày ải nơi biên cương xa xứ. Xét trong hoàn cảnh tù đày trên miền sơn cước giữa thời khắc bóng đêm đang dần bao phủ, đáng lẽ ra phải là thời điểm con người thấy mệt mỏi và chán chường nhất. Thế nhưng đối với Bác, cảm hứng thơ lại đến thật tự nhiên và giản dị.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây lơ lửng giữa tầng không”
Ngước mắt lên bầu trời, người chiến sĩ bắt gặp chú chim đang mỏi cánh cố bay về rừng để tìm chốn ngủ “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”. Cánh “chim mỏi” cho thấy trạng thái mỏi mệt của sự vật và cách cảm nhận của con người trước ngoại cảnh. Nhà thơ cảm nhận được sự gần gũi và tương đồng giữa mình và cánh chim, sau một ngày dài cánh chim đi kiếm ăn đã mỏi và người tù cũng mệt mỏi sau ngày dài lê bước trên rừng núi. Lời thơ ấy cho ta thấy một tâm hồn rộng mở, dung hòa với thiên nhiên, cảm thông với cánh chim, tất cả được bắt nguồn từ tình yêu thương mà Hồ Chí Minh dành cho mọi sự sống có mặt trên đời.
“Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” gợi nên không gian bao la rộng lớn, cao rộng và êm ả của một chiều thu nơi núi rừng Quảng Tây biên cương. Không phải là áng mây, tầng mây mà là “chòm mây”, trạng thái của mây còn đang “lơ lửng” trôi nhẹ giữa bầu trời gợi nên sự khắc khoải, mơ hồ của con người trước cõi hư không. Bác Hồ của chúng ta khi ấy với tâm hồn ung dung, thư thái, hướng sự theo dõi đến một chòm mây như gửi gắm tâm trạng, chim thì bay về tổ sum vầy nhưng mây lại đơn độc trôi một mình. Hình ảnh đó gợi lên tình cảnh lênh đênh, trôi dạt nơi đất khách quê người của Bác, biết bao giờ mới được tự do như cánh chim trời, được thong dong thư thả như chòm mây trôi. Tuy hai câu thơ mang đậm nỗi buồn nhưng lại thể hiện bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ, một tâm hồn phóng khoáng, ung dung tự tại, tự do tinh thần mới có thể cảm nhận thiên nhiên sâu sắc đến như vậy.
“Cô em xóm núi xay ngô tối” hình ảnh cô gái xay ngô tối đại diện cho người lao động, giúp bác quên đi nỗi gian khổ của mình mà cảm nhận cuộc sống lao động của nhân dân. Cách quan sát và để ý của Bác cho thấy sự quan tâm, tình thương đối với người lao động nghèo, phải làm việc nặng nhọc, giữa núi rừng hoang vu, quạnh hiu, hình ảnh con người hiện lên trẻ trung, khỏe mạnh tràn đầy sức sống thật đáng quý và đáng trân trọng, như một nguồn động lực tiếp sức cho ý chí người chiến sĩ – tuy vất vả nhưng được tự do. Khoảnh khắc chiều tối đã được nhen nhóm hơi ấm bằng ánh sáng của lò than “Xay hết, lò than đã rực hồng”, đánh dấu thời khắc buổi chiều kết thúc và bước vào đêm tối. Ánh sáng “rực hồng” của lò than xua tan đi cái lạnh lẽo, hoang vu nơi miền sơn cước, sưởi ấm lòng người, là ánh sáng của niềm tin và hy vọng của người chiến sĩ trong cảnh tù đày. Với hình ảnh này ta có thể cảm nhận được tâm hồn của nhà cách mạng đã vượt lên trên nghịch cảnh khắc nghiệt để vui với đời thường bình dị, bên cạnh đó còn là tâm hồn lớn tràn đầy tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường và niềm tin tất thắng, hướng về quê nhà và sự tự do, ấm no của dân tộc.
Với nghệ thuật tả cảnh vừa cổ điển lại có nét hiện đại cùng với ngôn từ linh hoạt, sáng tạo, bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh là tiêu biểu cho đỉnh cao bút pháp tả cảnh ngụ tình của Bác. Qua bài thơ này, người đọc hiểu được những gian khổ Bác từng trải qua trong hành trình cứu nước, thấy được vẻ đẹp của một tâm hồn lớn dù có phải đối mặt với nghịch cảnh đến đâu vẫn luôn hướng về sự sống và ánh sáng tự do.
2. Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối, mẫu số 2 (Chuẩn)
Nhật ký trong tù là tập thơ gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán được Hồ Chí Minh viết trong mười ba tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Trong đó, bài thơ thứ 31 có tên Chiều tối (Mộ) được viết vào cuối thu năm 1942, lấy cảm hứng từ cuộc chuyển lao của Người từ Tĩnh Tây tới Thiên Bảo. Chiều tối là tác phẩm chứa đựng vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh.
Ở Hồ Chí Minh, người ta luôn thấy có một nguồn sức mạnh to lớn, một nguồn cảm hứng thơ ca vô tận. Trong hơn một năm ròng bị bắt giam, Người bị xiềng xích, bị đày ải khắp các nhà lao, thế nhưng tâm hồn của Người vẫn luôn tràn trề một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, con người, một tâm hồn tràn đầy lạc quan, ý chí vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt. Tình yêu ấy, ý chí ấy, tất cả được thể hiện qua bốn câu thơ trong bài thơ Chiều tối:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”
Mở đầu bài thơ, người đọc có thể thấy mở ra ngay trước mắt là một khung cảnh thiên nhiên của một vùng sơn cước rộng lớn. Hình ảnh thiên nhiên với bầu trời, cánh chim, đám mây đã hòa quyện, phản chiếu tâm hồn người nghệ sĩ:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Trong hai câu thơ đầu, Bác đã sử dụng những thi liệu cổ điển như chim, mây để tái hiện lên khung cảnh thiên nhiên vùng sơn cước rất đỗi thơ mộng, rất đỗi gần gũi. Buổi chiều tà trong thơ Người đẹp đến nao lòng dù rằng Người đang phải trải qua cuộc chuyển lao cực khổ vô cùng với gông cùm xiềng xích dưới chân. Tình yêu thiên nhiên say đắm đã khiến Người không thể nào ngó lơ trước một khung cảnh quá đỗi thơ mộng, quá đỗi bình yên như thế! Và hơn thế, khung cảnh ấy lại chứa một phần hương vị quen thuộc của quê hương Việt Nam! Nó càng khiến trái tim của người tù Cách mạng thêm nôn nao, thêm day dứt!
Khung cảnh của một buổi chiều tà rực rỡ, đắm say lòng người được Bác tái hiện qua hai câu thơ ngắn gọn mà đầy ý vị. Khoảnh khắc khi ánh chiều tà buông xuống cũng là khi cánh chim mỏi mệt bay về rừng tìm“chốn ngủ”. Cánh chim mỏi mệt gợi liên tưởng đến bước chân mệt mỏi, thể trạng suy kiệt của người tù khi phải chuyển lao liên tục. Chòm mây lãng đãng, lơ lửng giữa nền trời chiều đang dần đỏ rực “giữa tầng không” không chỉ gợi ra không gian rộng lớn, thoáng đãng của bầu trời mà còn gợi ra nỗi cô đơn, lạc lõng của người chiến sĩ nơi đất khách quê người.
Khung cảnh thiên nhiên vùng sơn cước rộng lớn, đẹp đẽ nhưng cũng thật buồn bởi nó thấm đượm tâm trạng con người, ấy là cảm giác cô đơn, lạc lõng, là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, khát vọng tự do mãnh liệt của người chiến sĩ.
Không chỉ yêu thiên nhiên, Người còn có một tình yêu tha thiết với cuộc sống, với những con người lao động cần cù, chất phác. Và điều đó hiện lên thật rõ ràng qua hai câu thơ cuối của bài thơ Chiều tối:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Hai câu thơ như ánh lên một niềm vui, niềm hân hoan khi bắt gặp hình ảnh của một người lao động giữa chốn rừng núi hoang vu. Một cô “sơn nữ” đang ngồi xay ngô bên bếp than hồng. Cô sơn nữ ấy vừa có nét trẻ trung “thiếu nữ” lại có nét khoẻ khoắn của một người lao động chất phác. Cuộc sống ở đó hiện lên một sự bình yên, mộc mạc đến thân thương.
Hơi ấm của cuộc sống và hình ảnh của người thôn nữ trong công việc lao động thường ngày không chỉ làm cho bức tranh chiều tối trở nên sinh động hơn mà còn xua đi cảm giác lạnh lẽo, u tối được gợi ra trong hai câu thơ đầu
Hình ảnh ấn tượng nhất trong bài thơ có lẽ là hình ảnh của “lô dĩ hồng – lò than đã rực hồng”. “Lò than” ấy ánh lên khi bóng tối chuẩn bị bao phủ toàn bộ không gian. Nó hiện lên để xua đi bóng tối đó, hiện lên để lòng người ấm áp hơn và trên hết là hiện lên để cho người tù một niềm hi vọng, một thứ ánh sáng dù là le lói, nhỏ bé.
Hồ Chí Minh có một tình yêu tha thiết, mãnh liệt đối với thiên nhiên, cuộc sống, con người. Vì vậy mà dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt, Người vẫn tinh tế cảm nhận được vẻ đẹp, đường nét mà cả trạng thái của sự vật, con người. Có thể thấy trong bất cứ hoàn cảnh nào, dẫu gian lao, thử thách thì Người vẫn vẫn luôn lạc quan, luôn một lòng hướng đến ánh sáng của hi vọng.
Tóm lại, Chiều tối đã giúp người đọc hiểu về một tâm hồn lớn của người thi sĩ, chiến sĩ Hồ Chí Minh. Tâm hồn ấy chứa chan một tình yêu thiên nhiên tha thiết, yêu con người, yêu cuộc sống, chứa chan một ý chí vươn lên, lạc quan, không bao giờ khuất phục số phận. Những điều đó đã làm lên một Hồ Chí Minh rất khác biệt với những vị lãnh tụ khác, làm nên một Người cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
3. Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối, mẫu số 3 (Chuẩn)
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người Cha muôn vàn kính yêu của dân tộc không chỉ là vị lãnh tụ kiệt xuất tìm ra con đường giải phóng dân tộc mà còn là người nghệ sĩ lớn trong nền văn học Việt Nam. Người đã để lại cho đời một di sản văn học vô cùng quý giá. Trong số những sáng tác của Người, “Chiều tối” là một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện bức chân dung tự họa về tinh thần lạc quan cách mạng. Qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc
sắc, độc giả có thể thấy được vẻ đẹp tâm hồn của con người Hồ Chí Minh, dù hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu vẫn hướng về sự sống và ánh sáng.
“Chiều tối” là một bài thơ giản dị mà sâu sắc. Qua hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã tái hiện bức chân dung tinh thần của người tù cách mạng về bản lĩnh, nghị lực kiên cường, tinh thần lạc quan cùng tình yêu thiên nhiên:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Thông qua bút pháp chấm phá, lấy điểm gợi diện, tác giả đã tái hiện đầy sinh động khung cảnh thiên nhiên lúc chiều tối. Kế thừa những vẻ đẹp của thơ ca cổ điển, Bác đã vận dụng những thi liệu quen thuộc như “cánh chim”, “chòm mây” để gợi tả không gian thiên nhiên trong thời khắc cuối cùng của một ngày tàn. Hình ảnh “cánh chim” bay về tổ, về rừng thường mang ý nghĩa biểu tượng cho buổi chiều tà:
“Chim bay về núi tối rồi”
(Ca dao)
“Chim hôm thoi thót về rừng”
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”
(“Chiều hôm nhớ nhà”, Bà Huyện Thanh Quan)
“Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”
(“Tràng giang”, Huy Cận)
Trong thơ Hồ Chí Minh, cánh chim mỏi mệt tìm chốn ngủ đã gợi hình ảnh người tù mệt mỏi sau một ngày bị tù đày. Câu thơ đã thể hiện sự gắn bó, đồng điệu giữa con người và thiên nhiên. Hình ảnh “chòm mây” trong trạng thái “cô vân” – lẻ loi và sự vận động lững lờ chầm chậm trôi – “mạn mạn” giữa bầu trời “độ thiên không” đã gợi cảm xúc cô đơn, đượm buồn. Chòm mây vốn vô tri, vô giác bỗng trở nên có hồn, có tâm trạng đã nhấn mạnh sự lẻ loi đơn độc của người tù nơi đất khách. Chúng ta cũng từng bắt gặp hình ảnh cánh chim và đám mây trong thơ Lí Bạch:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”
(“Độc tọa Kinh Đình sơn”, Lí Bạch)
Nếu như cánh chim trong thơ Lí Bạch bay vào cõi vô tận, siêu thoát, và áng mây trong thơ của ông nhàn nhã, thoát tục, lánh đời thì trong thơ của Bác, cánh chim lại bay về rừng tìm chốn ngủ, là cánh chim của hiện thực và hướng về cuộc sống, còn chòm mây lại làm toát lên không khí yên ả, thanh bình của cuộc sống. Ẩn sau những chi tiết hướng về hiện thực đó là nỗi niềm khao khát tự do mãnh liệt.
Như vậy, hai câu thơ đầu là một bức tranh tả cảnh ngụ tình, thấm đượm nỗi buồn của người tù nơi đất khách, qua đó thể hiện bản lĩnh kiên cường “chất thép” trong ý chí nghị lực và tình yêu thiên nhiên của nhà thơ Hồ Chí Minh.
Ở hai câu thơ tiếp theo, điểm nhìn của tác giả đã có sự thay đổi và hướng xuống mặt đất từ xa đến gần. Trung tâm của bức tranh không còn là thiên mà là hình ảnh về con người qua chi tiết về “cô gái xay ngô” bên cạnh chiếc lò than rực hồng, gợi sự khỏe khoắn, tràn đầy sức sống.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Dịch thơ:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Trong hai câu thơ cuối, con người lao động là chủ thể, là trung tâm của bức tranh. Bàn về vấn đề này, Hoài Thanh từng nhận xét: “Đó là hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời lao động vất vả mà vẫn ấm cúng, vẫn đáng yêu”. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tình yêu thương bao la của Bác dành cho cuộc sống người lao động. Với nghệ thuật láy âm, vắt dòng “ma bao túc” – “bao túc ma hoàn”, tác giả đã tái hiện thành công vòng quay nhịp nhàng của động tác xay ngô, đồng thời gợi tả dòng lưu chuyển của thời gian cùng vẻ đẹp khỏe khoắn của người lao động. Hai câu thơ với giọng điệu tươi vui đã thể hiện niềm hứng khởi của nhà thơ trước vẻ đẹp cuộc sống, đồng cảm và sẻ chia với người lao động. Hình ảnh lò than rực hồng làm bừng sáng lên khuôn mặt người thiếu nữ, làm sáng lên tâm hồn nhà thơ, đồng thời làm ấm lên không gian núi rừng âm u, heo hút, ấm lòng người tù cách mạng. Mặt khác chữ “hồng” chính là nhãn tự của bài thơ, giúp người đọc hình dung bóng tối đang buông xuống xóm núi, đồng thời nhấn mạnh đó là ngọn lửa của sinh hoạt gia đình ấm cúng, là ngọn lửa của lao động, của sự sống tạo nên âm hưởng lạc quan của toàn bài. Đặc biệt, chữ “hồng” ấy chính là niềm lạc quan, là ý chí, là bản lĩnh kiên cường của người tù cách mạng Hồ Chí Minh. Như vậy, thông qua sự chuyển biến về mạch cảm xúc giữa hai câu thơ đầu và hai câu thơ cuối, chúng ta có thể thấy được hình tượng thơ vận động hướng về ánh sáng, tương lai, thể hiện niềm lạc quan yêu đời, chất thép kiên cường của nhà thơ.
“Chiều tối” là bài thơ đậm sắc thái cổ điển mà hiện đại, có sự kết hợp hài hòa giữa chất thép và chất trữ tình. Bài thơ đã bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người thi sĩ, chiến sĩ Hồ Chí Minh, đó là tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết, là tinh thần lạc quan, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt.
4. Bài văn Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối, mẫu số 4 (Chuẩn)
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kiệt xuất, nhà quân sự, chính trị tài ba và lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó Người cũng được biết đến với vai trò là một danh nhân văn hóa thế giới, với nhiều những đóng góp trong lĩnh vực tư tưởng, văn học. Sự nghiệp thơ ca của Người gắn bó và song hành cùng con đường cách mạng, các sáng tác của Người có khả năng chiến đấu mạnh mẽ, ngòi bút của Người trở thành một vũ khí sắc bén mang nhiều trọng trách, lúc thì đả kích, châm biếm kẻ thù, lúc củng cố tính đúng đắn của lý tưởng cách mạng, lúc lại là những áng văn chương cổ vũ tinh thần chiến đấu của dân tộc,… Tựu chung lại dù là nội dung hay thể loại nào, văn chương của Hồ Chủ tịch cũng luôn mang một sức chiến đấu rõ rệt, đặc biệt là trong đó còn thể hiện rất rõ nét vẻ đẹp tâm hồn lớn của một người nghệ sĩ, người chiến sĩ hết lòng vì Tổ quốc – Hồ Chí Minh. Mà Chiều tối (Mộ) là một trong số các tác phẩm tiêu biểu thể hiện rất rõ quan điểm này.
Chiều tối được ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Cuối thu năm 1942, sau hơn 13 tháng giam cầm, và luân chuyển qua hơn 30 nhà tù lớn nhỏ khác nhau, Bác lại tiếp tục bị chính quyền Tưởng Giới Thạch áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo (Trung Quốc). Suốt dọc đường đi dù gặp nhiều gian lao vất vả, phải đi bộ cả ngày trời, vượt qua nhiều đèo núi, dù sức lực đã cạn kiệt, thế nhưng người chiến sĩ cách mạng cũng không vì thế mà nản lòng, thoái chí, trái lại chính lúc này đây, Người đã viết nên bài thơ Chiều tối, bộc lộ nỗi lòng, cũng như những vẻ đẹp tâm hồn lớn, chỉ thông qua bốn câu thơ ngắn ngủi.
Trước tiên vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh thể hiện ở tinh thần lạc quan, yêu đời, sống hòa quyện và cảm nhận được vẻ đẹp cũng như sự vận động của thế giới tự nhiên, dù đang trong khốn cảnh tù đày.
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Dịch nghĩa:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Dù rằng đi bộ một ngày dài cả thể xác và tinh thần đều đã thấm mệt, thế nhưng Hồ Chí Minh vẫn nhận thức được vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng bằng đôi mắt thi sĩ đầy tinh tế. Hình ảnh cánh chim vốn dĩ là một chất liệu rất được ưa chuộng trong thi ca cổ điển, dùng để gợi lên cái sự yên tĩnh đìu hiu của không gian và thời gian, mang đến lòng người những cảm xúc miên man, buồn bã. Thế nhưng Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở cái sự cổ điển quen thuộc và nhàm chán ấy, Người mang vào thơ mình một cũng một cánh chim trời, nhưng là một cánh chim trời hiện đại, nó không cô quạnh, im lìm mà thay vào đó Người tinh tế nhận ra sự vận động liên và cả trạng thái của cánh chim. Cánh chim mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn vất vả, cuối cùng cũng bay về lại rừng tìm chốn nghỉ ngơi, tìm cách sum họp với gia đình.
Bên cạnh đó thông qua hình ảnh cánh chim vội vã về tổ, Hồ Chí Minh cũng nhận thấy sự tương quan sâu sắc giữa mình và cánh chim ấy. Bởi Người cũng đang trong tình cảnh mệt mỏi, rệu rã sau quãng đường dài, bị gông xiềng quấn thân. Chính từ thực cảnh của bản thân Hồ Chí Minh lại càng có cái nhìn bao dung và thấu hiểu hơn, khi mà cánh chim giờ đây không còn bị bó buộc trong sự cô đơn, lẻ loi, lạc lõng mà thay vào đó là trạng thái tự do tìm về tổ. Điều đó cũng thể hiện những khao khát trong thâm tâm người chiến sĩ, mong ước được tự do như cánh chim trời, sớm ngày có thể trở về với Tổ quốc thân thương, hoàn thành sứ mệnh cách mạng, dù điều ấy còn nhiều khó khăn.
Ở câu thơ thứ hai “chòm mây” cũng là một chất liệu cổ điển quen thuộc trong thi ca, vốn cổ nhân thường dùng để bộc lộ ước muốn phiêu du, tự tại, thoát ly khỏi cuộc sống trần thế, tìm về với chốn bồng lai tiên cảnh. Đám mây “cô vân” trong thơ Hồ Chí Minh không chỉ gợi ra cái đơn độc, lạc lõng của con người nơi đất khách mà còn gợi liên tưởng đến sự tự do. Trong đôi mắt người thi sĩ “chòm mây” chính là biểu tượng của sự tự do, bộc lộ tinh thần lạc quan, yêu đời, phong thái ung dung tự tại của Hồ Chí Minh. Dù rằng đang đứng trước nghịch cảnh tù đày đầy gian khổ, thế nhưng điều đó vẫn không ngăn được người thi sĩ cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên. Dù đã đi bộ cả ngày dài, nhưng khi ngước nhìn trời cao Người vẫn tinh tế phát hiện ra một chòm mây lơ lửng trên nền trời lúc chiều tối, điều đó đã làm sáng cả bức tranh thiên nhiên, mở ra một không gian rộng rãi khoáng đạt hơn, làm vơi đi cảm giác tù túng, bó buộc của gông xiềng, trở thành một làn gió mát thổi vào tinh thần người tù cách mạng. Có thể thấy rằng, Hồ Chí Minh dù trong những hoàn cảnh hết sức gian khó, nhưng vẫn luôn giữ được tinh thần lạc quan, yêu đời, sự ung dung, tĩnh tại trong tâm hồn, cùng với tấm lòng yêu thiên nhiên sâu sắc, luôn có cái nhìn rất tinh tế tích cực với tất cả những sự vật ngoài vũ trụ bao la. Đồng thời người chiến sĩ cách mạng cũng luôn biết cách tự tạo cho bản thân mình một động lực, niềm vui để chiến thắng những nghịch cảnh đang diễn ra.
Đối với người khác có lẽ một cánh chim trời, một chòm mây chẳng qua chỉ là những thứ hết sức tầm thường, không có gì đáng nhắc tới, tuy nhiên khi vào thơ Bác, chúng cũng có những trạng thái, những xúc cảm cho riêng mình, mang đến những màu sắc riêng biệt, hấp dẫn và hiện đại. Ngoài ra, ở hai câu thơ đầu, thông qua cách Bác cảm nhận “cánh chim” và “chòm mây”, chúng ta cũng phần nào thấy được nỗi lòng người thi sĩ. Sâu trong sự lạc quan, ung dung ấy vẫn ẩn chứa những nỗi cô đơn, buồn tủi khi phiêu bạt nơi đất khách quê người nhưng cũng bộc lộ những khao khát sớm ngày được trở về với Tổ quốc thân yêu. Tuy nhiên những cảm xúc này không phải là sự bất lực, chán chường mà nó lại chính là những động lực, là sự cổ vũ Hồ Chí Minh thêm kiên cường, mạnh mẽ vượt qua tất cả gian khó, quay trở về tiếp tục hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Nếu ở hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên sinh động, thì đến hai câu thơ tiếp Hồ Chí Minh đã thu tầm mắt của mình lại hướng vào bức tranh con người tràn đầy sức sống trong lao động, mang đến cho cảnh thiên nhiên rừng già vốn bao la, rộng lớn thêm ánh sáng và sự ấm áp của tình người. Từ đó vẻ đẹp tâm hồn lớn của người chiến sĩ cách mạng lại càng thêm sáng rõ và được bộc lộ ở nhiều khía cạnh khác chứ không chỉ dừng lại ở tinh thần lạc quan, lối sống ung dung tự tại, chan hòa với thiên nhiên.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Dịch thơ:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Xay ngô vốn dĩ là một công việc lao động rất bình thường, thế nhưng vào thơ của Hồ Chí Minh nó lại trở thành một vẻ đẹp, một biểu tượng có chiều sâu, mang tính nghệ thuật. Bởi lẽ rằng xay ngô là một công việc rất đỗi nặng nhọc, cần nhiều công sức, chính điều đó đã bộc lộ ra vẻ đẹp của người lao động trong bài ấy là sự khỏe khoắn, đức tính kiên nhẫn, sự cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất.
Hình ảnh người con gái trẻ xay ngô không chỉ mang vẻ đẹp lãng mạn mà còn bộc lộ những quan điểm thẩm mỹ mới mẻ của Hồ Chí Minh, khi con người trong lao động sản xuất trở thành trung tâm, là chủ thể chính giữa một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, dùng sự sung sức, mạnh mẽ trong lao động để đem đến cho núi rừng sự ấm áp, xua tan đi cảm giác lạnh lẽo hoang vắng. Khác hẳn với hình ảnh con người trong thi ca cổ điển trước đây, luôn bị thiên nhiên làm che lấp, trở nên mờ nhạt và yếu đuối trước vũ trụ rộng lớn. Thông qua nét sáng tạo đầy hiện đại và quan niệm thẩm mỹ mới mẻ này, Hồ Chí Minh đã gián tiếp bộc lộ được tấm lòng yêu thương, gần gũi và gắn bó với đời sống nhân dân lao động, thể hiện rõ sự tinh tế, thấu hiểu sâu sắc và khả năng khai thác những vẻ đẹp tiềm tàng ẩn giấu trong những con người lao động bình thường nhất. Không chỉ vậy thông qua bức tranh con người trong lao động, chúng ta con cảm nhận được sự lạc quan trong nghịch cảnh của tác giả, rõ ràng bản thân phải chịu cảnh gông xiềng quấn thân, thế nhưng khi bắt gặp những dấu hiệu của sự sống, tác giả vẫn có thể bỏ qua sự mệt nhọc, tù túng để tĩnh tâm cảm nhận thật rõ vẻ đẹp của con người giữa thiên nhiên rộng lớn bằng một đôi mắt tinh tế, nhạy cảm.
Ở câu thơ cuối “Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”, từ “hồng” chính là nhãn tự của cả bài thơ, đánh dấu sự chuyển mình của thiên nhiên từ nhá nhem tối sang tối hẳn, đồng thời chính cái ánh sáng hồng của hòn than ấy cũng mang đến cho bức tranh thiên nhiên sự ấm áp, xua tan đi cái lạnh lẽo, tối tăm nơi thâm sâu cùng cốc, phần nào làm vơi đi sự trống trải mệt nhọc trong lòng người. Đặc biệt là đối với tác giả một người tù bị đày ải khắp chốn núi rừng, thì hình ảnh con người lao động cùng với bếp than hồng đã nghiễm nhiên trở thành niềm an ủi động viên to lớn, sưởi ấm trái tim người chiến sĩ, mang lại chút cảm giác được đoàn viên, sum họp, dù rằng trước mắt kia chỉ là những con người xa lạ. Điều đó càng khẳng định sự vận động tích cực, lối sống lạc quan yêu đời của Hồ Chí Minh, bởi trước nghịch cảnh lao tù, dù chân tay bị xiềng xích thế nhưng chưa một giờ phút nào Người chấp nhận số phận, chán nản với thực tại mà thay vào đó Người luôn dõi mắt ra xa quan sát và tìm kiếm những niềm vui, những vẻ đẹp từ thiên nhiên từ con người, tự cổ vũ bản thân phải cố gắng, hướng về sự tự do, về ước mơ được sum họp với đồng đội, Tổ quốc.
Ở Chiều tối chúng ta thấy được rất rõ hai vẻ đẹp lớn trong tâm hồn của Hồ Chí Minh, thứ nhất ấy chính là vẻ đẹp của một tinh thần lạc quan, yêu đời, lối sống chan hòa với thiên nhiên, thứ hai ấy chính là vẻ đẹp của tấm lòng đồng cảm, gắn bó yêu thương con người trong lao động, luôn dùng ánh mắt tinh tế để khai thác những vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bình thường nhất. Và cuối cùng bao trùm cả tác phẩm chính là tấm lòng yêu nước, yêu quê hương tha thiết của Hồ Chủ tịch, có thể nói rằng mỗi một phút giây Người đều luôn cố gắng, nỗ lực vượt qua mọi gian khó, khổ ải với một niềm khao khát duy nhất ấy là được tự do trở về phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, hoàn thành sứ nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
5. Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối, mẫu số 5 (Chuẩn)
Bác Hồ không chỉ là một nhà quân sự lỗi lạc tài ba mà còn là một nhà thơ nhà văn lớn của dân tộc. Mỗi tác phẩm của Người được viết nên bởi ngòi bút tài hoa và một trái tim đầy tình yêu thương. Tập thơ “Nhật kí trong tù” tiêu biểu cho hồn thơ Bác, trong đó, bài thơ “Chiều tối” là tác phẩm vô cùng tuyệt mỹ, cho thấy được vẻ đẹp của một tâm hồn lớn trong con người của Bác.
” Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Tầng mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Vẻ đẹp tâm hồn ấy trước hết thể hiện bởi tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước thiết tha của Người. Bức tranh thiên nhiên được Bác phác hoạ đầy đẹp đẽ, ấm áp, tuy có gợi buồn nhưng là cái buồn đẹp, buồn của sự yên ả, thanh bình. Cánh chim đang bay về rừng tìm chốn ngủ sâu ngày dài mệt mỏi kiếm ăn, trong sự cảm nhận đầy tinh tế của Người, cánh chim cũng mệt mỏi, yếu đuối , uể oải sau bao vất vả của ngày dài như con người vậy, đó là cái nhìn đầy thương cảm của Người đối với cảnh vật. Cánh chim ấy đang hiểu chính mình, dù có mệt mỏi vẫn không dừng lại, vẫn miệt mài bay về chốn xa tìm nơi trú ngụ qua đêm, để rồi ngày mai lại tiếp tục công việc của mình. Trong câu thơ ấy chứa chan cả niềm tin hy vọng vào sự sống, vào tương lại. Chòm mây nhẹ đang trôi lơ lửng giữa khoảng không mênh mông, rộng lớn của bầu trời. Giữa khung cảnh núi rừng rộng lớn là bầu trời xanh êm ả cùng áng mây chiều trôi chầm chậm, cảnh buồn nhưng không gợi sầu, không thê lương, ủy mị. Hơn thế nữa, trong thơ Bác, cảnh không chỉ đơn thuần là vẻ đẹp thiên nhiên mà nó còn chứa đựng một nỗi lòng, một tâm trạng. Không chỉ là sự đồng cảm trước những mệt mỏi của cảnh vật mà nó còn là sự sẻ chia của tâm hồn Bác, cảnh chứa đựng dòng tâm trạng của người chiến sĩ đang trong cảnh tù đày, lấy thiên nhiên san sẽ nỗi lòng. Nỗi xa quê, người cũng buồn cũng cô đơn, cũng mong ngày trở về quê nhà với nhân dân, đất nước. Chỉ với hai câu thơ đầu thôi mà ta thấy một tâm hồn giao cảm, hài hoà với thiên nhiên của Bác. Thiên nhiên với Bác nhiều một người bạn tri âm , Bác cảm nhận ,thưởng thức vẻ đẹp của mây trời cảnh vật bằng cái nhìn trân trọng và đầy yêu thương. Trong thiên nhiên ấy có một thứ ánh sáng diệu kỳ và cao đẹp soi rọi tâm hồn con người, nâng đỡ tâm hồn vươn tới sự chân mỹ và hy vọng, mang dáng dấp của niềm vui và sự tươi mới.
Thứ hai, tâm hồn lớn của Bác còn được thể hiện ở một người có nghị lực sống phi thường, ý chí kiên cường và niềm tin vào ngày mai tất thắng. ” Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Với thiên nhiên là yêu thương, trân trọng, với con người Bác dành trọn niềm thương quý, gửi gắm niềm mong ước lớn lao đến nhân dân, dân tộc. Hình ảnh cô gái thiếu nữ bình lặng, thong thả xay ngô trong một tối thanh bình gợi lên vẻ đẹp lao động của con người trong tự do, không phải chịu cảnh áp bức, nô lệ. Vẻ đẹp ấy là vẻ đẹp của tự do, của độc lập, vẻ đẹp của những người dân lao động chân chất, bình dị. Bác với nhân dân như hai mà một, sự gần gũi với đời sống của nhân dân đã giúp Bác viết nên những vần thơ với cảm quan đẹp đẽ và sâu sắc như vậy. Bức tranh đời sống càng ấm hơn khi có sự xuất hiện của ánh than hồng cuối bài, ánh than mang bao hy vọng, ánh than hồng sưởi ấm màn đêm lạnh giá, xua tan đi những mệt mỏi cô đơn. Ánh thân ấy thắp lên ngọn lửa của tương lai, sự sống và của niềm vui lao động. Ánh thân hồng ấy cũng là niềm tin tất thắng vào ánh sáng của cách mạng, vào nghị lực chiến đấu của những người chiến sĩ xung phong, tin vào hòa bình một ngày không xa. Ở Bác, dường như ta thấy được một bầu nhiệt huyết một tinh thần lạc quan vô bờ dẫu trong lúc khó khăn, mệt mỏi nhất. Đang trong cảnh tù đày , gông cùm , vất vả, đơn đau khi phải chuyển từ nhà lao này sang nhà lao khác, nhưng Bác vẫn vui vầy làm thơ. Có ai được như Bác, làm thơ trong cảnh tù đày, mà những áng thơ đầy giá trị nhân sinh, áng thơ không chỉ đẹp bởi nghệ thuật mà còn đẹp bởi một tấm lòng, một nhân cách lớn. Dường như, trước mọi hoàn cảnh, mọi thách thức của cuộc sống không làm Bác chùn chân, lùi bước, có chăng chỉ là nỗi buồn thoáng qua, sau tất thảy vẫn là một ý chí kiên cường, một tinh thần thép không xoay chuyển, luôn nghĩ về đất nước, nhân dân.
“Chiều tối” viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà cô động vô cùng, mỗi lời, mỗi chữ viết ra đều mang dáng dấp của bóng hình Người: một thi sĩ yêu thiên nhiên dạt dào, thương nhân dân thiết tha và khát vọng sống phi thường.
—————-HẾT—————–
Bài văn mẫu Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối trên đây phần nào đã giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh ngay trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Để thấy được chân dung con người, tình yêu thiên nhiên, cuộc sống của nhà cách mạng vĩ đại, các em có thể tìm đọc thêm: Bình giảng bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh, Phân tích bức tranh đời sống con người trong tác phẩm Chiều tối, Chỉ ra nét cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối, Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối được Thạch Lam miêu tả trong truyện ngắn Hai đứa trẻ và phát biểu cảm nhận của mình.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp