Bình giảng khổ thơ cuối bài Tràng giang: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc / Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa / Lòng quê dợn dợn vời con nước / Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Tràng giang không chỉ mở ra trước mắt người đọc khung cảnh sông nước mênh mông, rợn ngợp mà còn bộc lộ những nỗi niềm tâm sự thầm kín của người thi sĩ, để cảm nhận chân thực hơn về những nỗi niềm này, mời các em cùng Bình giảng khổ thơ cuối bài Tràng giang
Đề bài: Bình giảng khổ thơ cuối bài Tràng giang: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc / Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa / Lòng quê dợn dợn vời con nước / Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Xem thêm:
- 25 Bài mẫu Phân tích bài thơ Tràng giang
- Dàn ý Phân tích Tràng Giang
- Bình giảng bài thơ Tràng giang để làm nổi bật những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Yêu cầu cần đạt khi bình giảng khổ kết bài thơ
Bình giảng khổ thơ cuối bài Tràng Giang để làm nổi rỗ vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của cảnh hoàng hôn trên sông đang dâng đầy nỗi nhớ quê hương trong lòng tác giả. Cảnh hoàng hôn đẹp nhưng buồn, và lòng thi nhân cũng buồn da diết, lắng sâu. Hình ảnh, âm điệu, giọng điệu thơ trang trọng cổ kính như Đường thi, nhưng cái tứ trong câu cuối thì thật mới mẻ, độc đáo và đầy sáng tạo.
Bình giảng khổ thơ cuối bài Tràng giang – Mẫu 1
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại được nhắc đến như là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. Trước không gian ấy, ông thường bày tỏ cảm xúc buồn sầu đến mức ảo não, tuy nhiên ẩn sau nỗi sầu đó là khát khao tình đời, tình người. “Tràng giang” là một bài thơ như thế. Qua chặng đường ba khổ thơ đầu thể hiện tâm trạng buồn sầu của nhà thơ trước không gian bao la rợn ngợp, đến với khổ thơ cuối cùng, người đọc thấy được tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tràng giang được sáng tác vào năm 1939, cảm hứng được gợi từ cảnh thiên nhiên bao la của sông Hồng. Bài thơ là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất được in trong tập “Lửa thiêng” (1940). Xuyên suốt ba khổ thơ đầu là nỗi buồn của Huy Cận: từ nỗi sầu khi đối diện trước không gian mênh mông đến tâm trạng cô đơn trước bức tranh thiên nhiên được mở rộng về nhiều phía và sau đó là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời. Vậy nhưng, đến với khổ thơ cuối cùng, người đọc lại thấy được niềm khao khát gắn kết, tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả.
Ở đây, cái nhìn của Huy Cận như hướng lên trời cao để cảm nhận bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Đám mây – cánh chim vốn là motip quen thuộc trong thơ ca khi nói về trời chiều như “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan) hay “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” (Chiều tối – Hồ Chí Minh) để gợi nỗi buồn xa vắng.Huy Cận cũng đã đưa những hình ảnh quen thuộc đó vào “Tràng giang” càng nhấn mạnh hơn bức tranh thiên nhiên mang màu sắc cổ điển.Thiên nhiên hiện lên với Mây cao đùn núi bạc, với cảnh huy hoàng, tráng lệ biết bao. Thế nhưng, hình ảnh đó dường như cũng khắc họa tâm trạng buồn bã, cô đơn của con người trước không gian bao la rộng lớn bởi chim thì “mỏi” còn mây thì “trôi nhẹ” lững lờ. Không chỉ vậy, hình ảnh Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa đã khéo léo vẽ ra sự đối lập giữa cái nhỏ bé – cái bao la. Lời thơ giải thích phải chăng nhấn mạnh chỉ một cánh chim nhỏ nghiêng cánh cũng khiến cho bóng chiều “sa xuống” . Câu thơ đã khắc họa cảnh thiên nhiên rộng hơn, tráng lệ và hùng vĩ hơn nhưng cũng buồn hơn.
Không chỉ thể hiện cảm xúc buồn sầu một cách gián tiếp qua bức tranh thiên nhiên, mà ở đây nỗi khát khao tình đời, tình người của Huy Cận như bật ra một cách trực tiếp:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Từ láy dợn dợn đã miêu tả cảm xúc dâng trào mãnh liệt giống như như sóng nước, động từ “vời” dường như nhấn mạnh nỗi cồn cào, hụt hẫng, chới với trong cảm xúc đồng nhất với ngoại cảnh. Bởi vậy lúc này, hồn thơ Huy Cận tha thiết nỗi “Nhớ nhà”. Đó là nỗi nhớ về nơi chôn rau cắt rốn hay là đang nhớ về đất nước, tổ quốc mình? Đây là nỗi nhớ kín đáo, thể hiện nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên dưới thời thuộc Pháp, sống trên đất nước mình mà luôn có cảm giác bơ vơ, lạc lõng. Câu thơ cuối “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ ý thơ quen thuộc trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà – tức là nỗi nhớ nhà được gợi lên từ ngoại cảnh, thì Huy Cận nhớ nhà mà không cần đên hoàng hôn – nỗi nhớ nhà không phụ thuộc vào ngoại cảnh, do đó nó càng mãnh liệt, thấm thía hơn bao giờ hết.
Có thể nói, khổ thơ kết bài “Tràng Giang” đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ dành cho quê hương đất nước. Càng thấm thía nỗi cô đơn, hiu quạnh, con người càng khát khao tình đời, tình người. Bởi vậy, đúng như Xuân Diệu từng cho rằng: “đây là bài thơ dọn đường cho tình yêu quê hương đất nước của Huy Cận”.
Bình giảng khổ thơ cuối bài Tràng giang – Mẫu 2
Nền thơ 1930 – 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học Việt Nam nhiều phong cách độc đáo. Nếu ta theo Thế Lữ vào giấc mơ tiên của Lưu Trọng Lư vào cuộc đời bất tận theo các sôi nổi cuống quýt của Xuân Diệu “muốn cắn trái xuân hồng” thì ta cũng có thể theo Huy Cận đi vào bể sầu nhân thế. Chẳng cần đi tới tập thơ Lửa thiêng chỉ riêng bài Tràng giang cũng đủ làm nên hồn thơ “ảo não” – Huy Cận. Và đây là khổ thơ sâu lắng Huy Cận thê thiết nhất trong trường buồn Tràng giang.
Nếu như trong ba khổ thơ đầu chúng ta thấy tâm trạng buồn của một “nỗi buồn” thế hệ một nỗi buồn không tìm ra lối thoát nó như kéo dài triền miên, dàn trải theo mênh mông vô định của sông nước, thì tới khổ thơ cuối tâm trạng ấy được nâng lên chiều cao, lan tỏa trong khói hoàng hôn của buổi chiều tàn.
Lóp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Ở dòng thơ này ta thấy đôi mắt của nhà thơ dường như đang nhìn thấy rất xa nơi cuối chân trời “Tràng giang”. Thật vậy không gì vui bằng lúc rạo rực bình minh, nhưng cũng không gì buồn tan tác bằng cái buổi ngày tàn “bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy trong thơ Huy Cận với “Tràng giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây hợp thành “núi mây” khổng lồ, được vạt nắng chiếu rọi thành “núi bạc”. Những đám mây trắng xốp ấy cứ to dần lên như hình quả núi và đằng sau hình quả núi ấy là một mật trời chói lọi sắp tắt khiến cho núi mây trở thành núi bạc một cảnh rực rỡ hiếm có khi hoàng hôn đang lụi dần, không gian dường như có một sự vận động lặng lẽ: mây cứ đùn lên mãi chiếm lĩnh cả bầu trời cao, khiến cho ở đấy mây cung đầy nỗi buồn rợn ngợp. Tác giả đã dùng cái có của thiên nhiên để nói về cái không của tình người trong cái bể trời bao la ấy. Câu thơ gợi nhớ nôi buồn của Đỗ Phủ khi ông không chốn nương thân da diết nhớ quê hương:
Mặt đất mày đùn cửa ải xa.
Ta thấy trong suốt hành trình “Tràng giang” hình ảnh thi nhân cô đơn trong tùng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ “trôi nổi mông lung lạc loài vô định” một cành củi khô bập bênh trôi trên sóng (củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông (bèo dạt về đâu hàng nối hàng) Với khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn lạc loài nữa một hình ảnh rất tội nghiệp. Đó là một cánh chim, chim nhỏ nhoi đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh nhỏ cố bay về chân trời xa vắng.
Cánh chim bay lượn tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá, nỗi buồn ở đây cùng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa. Hai câu thơ đầu của đoạn thơ cuối rất hay. Nếu như câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì cẩu thơ tiếp theo lại trĩu xuống theo hình ảnh, “bóng chiều sa” có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng một tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ (sa) chứ không phải là “xa”. Phải chăng cái nỗi buồn cô đơn cùng nỗi buồn “sầu nhân thế” đó càng gợi lên trong nỗi buồn của thi nhân. Nó thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng cái vô tận của không gian đối lập với kiếp người.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hòn cũng nhớ nhà
Chuyển sang câu thứ ba đột ngột xuất hiện hai tiếng “lòng quê” không phải là ánh mắt nhìn theo đến hun hút vào “tràng giang” mà chính là cõi lòng nhìn xa về phía chân trời.
“Lòng quê” đó là nỗi lòng nhớ về quê hương và cũng có nghĩa là: cái lòng này vốn đã bị thị thành hóa giờ đây nó đang biến thành nỗi lòng giàu tình làng nghĩa xóm vốn là nơi ngày nào mình đã ra đi. Hai nghĩa nó sẽ định cho sự giải thoát cô đơn. Phải biến cái chính mình thứ hai nữa phải trở về chính quê hương mình.
Kết thúc bằng một nhạc là “dợn dợn” nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảng khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê cố hương:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Dòng thơ cuối cùng gợi ngay đến hai câu thơ của Thôi Hiệu nhà Đường cũng là tấm tình quê của Huy Cận. Nó đây là một tình quê tha thiết hơn sâu nặng hơn và cũng mãnh liệt hơn. Với Huy Cận lòng quê đã nhớ quê sẵn, chính xác hơn là nhớ nhà, nhớ những người ruột thịt, những gốc chuối bờ tre… Vì thế không có một sự gợi ý ngoại cảnh thì tấm lòng ấy vẫn đăm đắm hướng về quê nhà để hi vọng kiếm một chút niềm thân mật ở làng quê sông nước, nơi chôn nhau cắt rốn…
Mới đọc bài thơ Tràng giang ta có cảm tưởng tất cả bài thơ là thiên nhiên. Nó rất hoang vắng, nó độc thoại với chính nó thế nhưng bốn dòng thơ cuối thể hiện bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị quân giặc đô hộ càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu thi nhân lại càng “ảo não” bấy nhiêu. Phải chăng ai đó đã nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất, tiềm ẩn nhất với đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng giang đã khơi dậy tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng cao cả, nó mở đường cho tình yêu Tổ quốc, tình yêu giang san.
Bình giảng khổ thơ cuối bài Tràng giang – Mẫu 3
Thơ mới xuất hiện như một dàn đồng ca đa sầu, đa cảm nhưng “ảo não” nhất là hồn thơ Huy Cận. Bình về thơ của con người này, Xuân Diệu viết:
“Trong thơ Việt Nam nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo thièn thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái “tôi”, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc, bồng lau; có phải niềm than vãn của bờ sông, bãi cát; có phải mặt trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao?… Thơ Huy Cận đó u? Ai nhắc làm chi những nỗi thô thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế, những lời muôn năm than thầm trong lòng vạn vật, ai thuật lại mà não nuột lắm sao?”
Chẳng cần tới tập Lứa thiêng, chí riêng bài thơ Tràng Giang cũng đủ làm nên hồn thơ “ảo não” – Huy Cận. Và đây là khổ thơ sâu lắng, thê thiết nhất trong trường buồn Tràng Giang:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Nếu như trong ba khổ thơ đầu, tâm trạng buồn – “nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên” (Huy Cận) của thi nhân dàn trải theo cái mênh mông, vô định của sông nước, thì tới khổ thơ cuối, tâm trạng ấy đã được mở lên chiều cao, lan tỏa trong không gian hoàng hôn của buổi chiều tàn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cảnh nhỏ bóng chiều sa
“Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng”, đó là lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này. Thật vậy, không gì vui và rạo rực bằng lúc bình minh, nhưng cũng không gì buồn tan tác bằng buổi ngày tàn, khi “bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy, trong thơ Huy Cận, nơi “Tràng Giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây hợp thành “núi mây” khổng lồ được những vạt nắng chiếu rọi thành “núi bạc”. Đó là cảnh thực, song cung là một hình ảnh nghệ thuật đẹp tuyệt diệu. Viết được hình tượng “núi bạc”, thi nhân phải có một sự cảm nhận vẻ đẹp rất tinh tế, và đó phải là một hồn thơ yêu quê hương, đất nước đằm thắm. Hình ảnh “núi bạc” ấy sinh động hơn, hùng vĩ hơn qua động từ “đùn”: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao, ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp” (Huy Cận). Nhà thơ tâm sự: Ông học được chữ “đùn” trong bài dịch thơ của Đỗ Phủ:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Ta thấy trong suốt hành trình Tràng Giang, hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ: trôi nổi, mông lung, lạc loài, vô định: một cành củi khô bập bềnh trôi trên sóng (Củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông (Bèo dạt về đâu hàng nối hàng)… Và tới khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn, lạc loài nữa, một hình ảnh rất tội nghiệp. Đó là một cánh chim nhỏ nhoi, cánh chim đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh cố bay về nơi chân trời xa vắng.
Trong thơ ca cổ điển cùng như hiện đại, chỉ riêng việc khắc họa hình ảnh một cánh chim lẻ loi đã gợi lên một cái gì cô đơn, tội nghiộp, gợi lên cái buồn vắng, trống trải trong tâm hồn, huống chi trong thơ Huy Cận, đó lại là một cánh chim “nghiêng cánh nhỏ” và đang chở nặng “bóng chiều sa” cứ xa mờ dần đối lập với hình ảnh “núi bạc” hùng vĩ trong trời nước bao la. Sự tương phản ấy khiến cảnh “Tràng Giang” đã mênh mông, xa vắng lại càng mênh mông hơn, xa vắng hơn và “Tràng Giang” đã buồn lại càng buồn hơn. Hãy nghe thêm lời tự bình của tác giả:
“Cánh chim bay liệng tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung trong cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa”.
Hình ảnh cánh chim bay liệng trong buổi hoàng hôn là hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong thơ ca cổ điển. Không gian ấy, cánh chim ấy đã từng là nơi bao thi nhân xưa thả những tâm tình tha thiết, thấm thìa vào đó. Và có lẽ nó sẽ còn là nơi để thi nhân muôn đời gửi gắm những nỗi niềm sâu kín. Trong dòng suy nghĩ ấy, một lần nữa, cánh chim lẻ loi, cô đơn, lạc đàn “nghiêng cánh nhỏ” trong Tràng Giang lại gợi cho ta nhớ tới tâm tưởng, nỗi buồn bơ vơ, trống trải của một người lữ thứ xa quê đang cô đơn thả những mảnh hồn theo “cánh chim mỏi” cố bay về nơi chân trời xa vắng để tìm một điểm dừng chân:
“Ngàn mai gió cuốn chim hay mỏi”
(Bà Huyện Thanh Quan)
Đó là sự đồng điệu, giao cảm giữa cái hiện đại và cái cổ điển trong thơ Huy Cận. Cánh chim ấy, “bóng chiều sa” ấy ngoài Huy Cận thật khó tìm trong làng Thơ mới. Và đúng như Hoài Thanh nhận xét:
“Trong nền văn học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm về cảnh xưa, nơi bao người đã sa lầy – tôi muôn nói sa vào khuôn sáo. Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật, đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ…”.
Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuôì rất hay. Nếu như câu thơ “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuông theo hình ảnh “bóng chiều sa”. Chữ “sa” rất hay. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng những tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ “sa” ấy, chứ không phải là “xa”, bởi nếu đó là “bóng chiều xa” thì nỗi buồn của thi nhân chỉ giản đơn là một nỗi buồn man mác trước cảnh vật lúc giao thời, chứ đâu còn là “nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên” của thi nhân. Tâm trạng cô đơn cùng nỗi “sầu nhân thế” như ngưng đọng và không thể giải tỏa trong không gian của “bóng chiều sa” ấy, và nó còn thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô cùng, vô tận của không gian đối lập với kiếp người hữu hạn:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Trong suốt hành trình “Tràng Giang”, ta luôn gặp những từ láy: “điệp điệp”, “song song”, “đìu hiu”, “lớp lớp”… tựa như một bản nhạc buồn với những âm điệu thê thiết, và nốt nhạc kết thúc là “dợn dợn”, nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng. “Dợn dợn” diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê, cố hương:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng: ta với ta
(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
hay:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Hoàng Hạc Lâu – Tản Đà dịch)
Gợi lên từ tứ thơ ấy của Thôi Hiệu, hai câu thơ Đường:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Cũng là tấm “tình quê” của Huy Cận. Nhưng đây là một tình quê tha thiết hơn, sâu nặng hơn và cũng mãnh liệt hơn, bởi tấm “tình quê” ấy được toát lên trong một câu thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại: cổ điển ở cảnh xưa: khói sóng, ở kết cấu thơ Đường; hiện đại ở cách nói trái ngược với ý Thôi Hiệu – một sự cách tân mới mẻ, độc đáo của một hồn thơ đầy “lãng mạn”. Xưa kia, đứng trên lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên sông mà tình quê thổn thức. Nhưng nay Huy Cận không cần cái mờ ảo của khói sóng tác động vào thị giác, tri giác, cũng không cần cái se lạnh thấm vào da thịt – không cần những thứ vốn đã gợi buồn (khói sóng) tác động, nhưng “tình quê” Huy Cận vẫn trào dâng:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Rõ ràng tâm tình của Huy Cận sâu lắng hơn, mãnh liệt hơn, nó luôn thường trực trong tâm hồn và luôn sẵn sàng tỏa ra, thấm vào vạn vật. Huy Cận có lần tâm sự: cái “nhớ” ở đây không đơn thuần chỉ là nhớ quê hương Hà Tĩnh – nơi chôn nhau cắt rốn, mà “nhớ nhà” nên hiểu theo nghĩa rộng là nhớ quê hương, đất nước Việt Nam. ông còn kể: Khi phát xít Đức xâm lược nước Pháp, chiếm đóng Paris, nhà thơ Aragon cảm thấy lạc loài ngay chính trên quê hương của mình. Tới nay, trước cảnh nhân dân cơ cực, lầm than, sống cuộc đời nô lệ dưới ách thông trị của thực dân Pháp, thi sĩ Huy Cận lại có tâm sự lạc loài ấy. Chính vì thế, Huy Cận đã nói: “Lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường”. Ân tình thi sĩ Huy Cận dành cho quê hương, đất nước thật là sâu nặng.
Khổ thơ đã khép lại về tứ thơ, nhưng cái tình quê buồn tha thiết, sâu lắng thì như kéo dài, vang vọng mãi theo cái âm điệu “dập dềnh như sóng nước Tràng Giang” của hai câu thơ cuối.
Đây là khổ thơ rất hay: hay ở sự kết hợp nhuần nhuyễn thơ ca truyền thống – những nét cổ điển của thơ Đường với những nét hiện đại; hay ở cảm xúc vũ trụ thể hiện ở cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng nhưng thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của thi nhân – “nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước” (Huy Cận). Nỗi buồn khơi nguồn từ tâm ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim – lặng lẽ thế nhưng sâu nặng và mãnh liệt vô cùng:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu
Bâng khuâng trời rộng nhở sông dài. Cảm hứng của lời đề tựa ấy dàn trải trong ba khổ thơ đầu, để rồi hội tụ và kết tinh trong khổ thơ cuối – khổ thơ có thể xem như một bài thơ tứ tuyệt hay, bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị quân giặc giày xéo, càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu, thi nhân lại càng “ảo não”, càng “buồn” bấy nhiêu.
Ai đó đã nói: Thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng Giang, đặc biệt là khổ thơ cuối đã thực sự khơi dậy trong tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng, cao quí – tình yêu đất nước.
**********
Tràng Giang là tác phẩm nổi bật trong chương trình ngữ văn lớp 9, ngoài bài làm văn Bình giảng khổ thơ kết thúc bài Tràng giang: “Lớp lớp mây cao… hoàng hôn cũng nhớ nhà.”, thầy cô và các bạn học sinh có thể tham khảo thêm nhiều hơn nữa những bài làm văn mẫu khác như Cảm nhận về bài thơ Tràng giang của Huy Cận, Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang, Phân tích Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của Tràng Giang, Chỉ ra chất cổ điển và hiện đại của bài thơ Tràng Giang hay cả những tài liệu Giáo án Tràng giang, Soạn văn lớp 11 – Tràng giang. Chắc chắn những tài liệu này sẽ hỗ trợ cho quá trình học tập dễ dàng và hiệu quả nhất.
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp