Văn mẫu Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (Trần Đình Hượu) (dàn ý + 10 mẫu)

0
44
Rate this post

Phân tích bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (dàn ý + 3 mẫu)

Phân tích bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (dàn ý + 3 mẫu)

Cảm nhận bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (dàn ý + 2 mẫu)

Bạn đang xem: Văn mẫu Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (Trần Đình Hượu) (dàn ý + 10 mẫu)

2 bài văn mẫu Phân tích bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc của Trần Đình Hượu (2 mẫu)

Dàn ý Cảm nhận bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

1. Mở bài

– Trần Đình Hượu là nhà giáo ưu tú và có nhiều đóng góp đáng kể cho nền văn học Việt Nam, ông là một người có những đóng góp đáng kể trong nền văn học và trong đó góp phần tạo nên những tinh hoa văn hóa của nhân loại.

– Đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

+ Vị trí: thuộc phần II bài Về vấn đề đặc sắc văn hóa dân tộc.

+ Nội dung: những nhận định mang tính bao quát về bản sắc văn hóa Việt Nam.

+ Thể loại: văn nhật dụng.

2. Thân bài

a. Văn hóa và các phương diện chủ yếu của văn hóa Việt Nam

– Văn hóa là gì? Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử (không có trong tự nhiên) như: văn hóa lúa nước, văn hóa cồng chiêng, văn hóa chữ viết, văn hóa đọc, văn hóa ăn (ẩm thực), văn hóa mặc, văn hóa ứng xử…

– Các phương diện chủ yếu của văn hóa Việt Nam

+ Tôn giáo, nghệ thuật kiến trúc hội họa, văn học.

+ Ứng xử: giao tiếp cộng đồng, tập quán.

+ Sinh hoạt: ăn, ở, mặc.

b. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam

– Đặc điểm nổi bật: giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự hài hòa trên mọi phương diện với tinh thần chung “thiết thực, linh hoạt và dung hòa”.

– Mặt tích cực:

+ Về tôn giáo, nghệ thuật:

         Tôn giáo: Không say mê cuồng tín không cực đoan mà dung hòa giữa các tôn giáo; Coi trọng hiện thế trần tục hơn thế giới bên kia.

         Nghệ thuật: tuy có quy mô không lớn ,tráng lệ, phi thường nhưng sáng tạo được những tác phẩm tinh tế, chủ yếu là lĩnh vực thơ ca.

+ Về ứng xử:

         Thích sự yên ổn: mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp; yên phận thủ thường, không kỳ thị, cực đoan; quý sự hòa đồng hơn sự rạch ròi trắng đen.

         Trọng tình nghĩa: chuộng người hiền lành, tình nghĩa, khôn khéo; chuộng sự hợp tình, hợp lý.

+ Về sinh hoạt: ưa sự chừng mực, vừa phải

         Cái đẹp: thích cái xinh, cái khéo, cái thanh nhã; Chuộng cái dịu dàng, thanh nhã; Ghét cái sặc sỡ, quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, vừa khoảng”.

         Ăn mặc: Thích cái giản di, thanh đạm, kín đáo, thanh nhã, hòa hợp với thiên nhiên; Không chuộng sự cầu kì; Hướng vào cái dịu dàng thanh lịch… quý sự kín đáo hơn là sự phô trương.”

⇒ Tính ổn định, nét riêng của văn hóa truyền thống Việt Nam: cuộc sống thiết thực, bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch, con người sống có tình nghĩa, có văn hóa trên một cái nền nhân bản.

– Mặt hạn chế:

+ Không có một ngành khoa học, kỹ thuật nào phát triển đến thành truyền thống, âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ, chưa có một ngành văn hóa nào đó trở thành danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn hóa.

+ Đối với cái dị kỉ, cái mới, không dễ hòa hợp nhưng cũng không cự tuyệt đến cùng, chấp nhận những gì vừa phải, phù hợp nhưng cũng chần chừ, dè dặt, giữ mình.

+ Không có khát vọng để hướng đến những sáng tạo lớn, không đề cao trí tuệ.

⇒ Tạo sức ì, sự cản trở những bước phát triển mạnh mẽ làm nên tầm vóc lớn lao của các giá trị văn hóa lớn của dân tộc

– Bản chất và nguyên nhân:

+ Bản chất của nền văn hóa truyền thống là nền văn hóa của dân nông nghiệp định cư, không có nhu cầu lưu chuyển, trao đổi không có sự kích thích của đô thị.

+ Nguyên nhân: Phải chăng đó là kết quả của ý thức lâu đời về sự nhỏ yếu, về thực tế nhiều khó khăn, nhiều bất trắc.

⇒ Cái nhìn sắc sảo, thẳng thắn, phân tích thấu đáo những mặt tích cực và những hạn chế của văn hóa truyền thống, đồng thời rút ra bản chất, nguyên nhân tạo nên những đặc điểm của nền văn hóa truyền thống, giúp chúng ta có cái nhìn thấu đáo, bao quát về nền văn hóa dân tộc. Từ đó có ý thức phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế để tạo tầm vóc lớn cho văn hóa đân tộc.

c. Yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam

– Bản sắc văn hóa là gì? Là cái riêng, cái độc đáo mang tính bền vững và tích cực của một cộng đồng văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc được hình thành trong lịch sử tồn tại và phát triển lâu đời của một dân tộc.

– Yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam

+ Nội lực:

         Là cái vốn có của dân tộc, đó là thành quả sáng tạo riêng của cộng đồng văn    hóa, cộng đồng dân tộc Việt Nam

         Nếu không có thì nền văn hóa sẽ không có nội lực bền vững.

+ Ngoại lực:

         Quá trình chiếm lĩnh, đồng hóa các giá trị văn hóa từ bên ngoài, quá trình tích tụ, tiếp nhận có chọn lọc các giá trị văn hóa của nhân loại.

         Nếu cứ “bế quan tỏa cảng” thì không thừa hưởng đươc những giá trị tinh hoa và tiến bộ của văn hóa nhân loại, không thể phát triển, không thể tỏa rạng được giá trị văn hóa vốn có vào đời sống văn hóa rộng lớn của thế giới.

⇒ Sự kết hợp, dung hòa giữa cái vốn có của dân tộc với cái tiếp nhận có sàng lọc văn hóa nước ngoài tạo nên bản sắc riêng độc đáo của con người và dân tộc Việt Nam. Đây chính là nét riêng để phân biệt với các dân tộc, quốc gia khác và là điểm hấp dẫn đối vối khách du lịch quốc tế.

3. Kết bài

– Đánh giá vấn đề: Những điều mà tác giả đã thể hiện trong bài viết này thật sâu sắc nó góp phần tạo nên những điều rất tốt đẹp và thật tuyệt vời khi một nền văn hóa đã có những khởi sắc đáng kể niềm tự hào đó đã được đan xen trong tâm hồn của con người và nó đậm đà tính chất dân tộc sâu sắc.

Cảm nhận bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

     Nhìn về vốn văn hoá dân tộc là một đoạn trích của tiểu luận Vê vấn đề tìm đặc sắc văn hoá dân tộc (1996) của Trần Đình Hượu. Với tiểu luận này, mục đích chính mà tác giả đặt ra không phải là xác định rõ ràng từng điểm một vé cái gọi là bản sắc văn hoá dân tộc, mà gợi mở con đường nghiên cứu về nó trong tư cách một vấn để thời sự của chiến lược phát triển đất nước thời kì đổi mới. Như vậy, ở đày, “nhìn về” cũng chính là “hướng tới”, và hành động “nhìn về” truyền thống, “nhìn về” quá khứ trở thành một yếu tố then chốt của hành động “hướng tới” hiện đại, “hướng tới” tương lai.

     Trong tiểu luận, bên cạnh khái niệm vốn văn hoá dân tộc, Trần Đình Hượu cũng dùng một số khái niệm khác như : đặc sắc văn hoá dân tộc, thiên hướng văn hoá dân tộc, tinh thần chung của văn hoá dân tộc. Cách diễn đạt của tác giả không cố định, cứng nhắc. Có khi ông chí viết đơn giản : bản sắc dân tộc, hoặc nói hơi khác : bản sắc dân tộc của văn hoá. Nhìn chung, theo tinh thần toát lên từ toàn bộ tiểu luận, có thể hiểu vốn văn hoá dân tộc hay bản sắc văn hoá dân tộc là cái giúp khu biệt văn hoá của dân tộc này với văn hoá của dân tộc khác. Bản sắc văn hoá dân tộc là hiện tượng kết tinh, là thành quả tổng hợp cùa một quá trình sáng tạo, tiếp xúc văn hoá, nhào nặn cái vốn có, riêng có của dân tộc với những cái tiếp thu từ bên ngoài. Bản sắc văn hoá vừa có mặt ổn định vừa có mặt biến đổi. Ổn định không đối lập mà tạo tiền đề cho biến đổi và biến đổi cũng để di đến một dạng ổn định mới, cao hơn, phong phú hơn. Khái niệm vốn văn hoá dân tộc mà tác giả dùng vừa có mặt rộng hơn, vừa có mặt hẹp hơn khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc. Nói rộng là vì : bản sắc văn hoá làm nên cái vốn văn hoá. Còn nói hẹp là bởi : vốn văn hoá dường như chỉ nói được mặt ổn định, cố hữu mà chưa nói dược mặt biến đổi của bản sắc văn hoá. Với các khái niệm thiên hướng văn hoá, tinh thần chung của văn hoá có lẽ Trần Đình Hượu muốn nói chiều động, chiểu phát triển của bản sắc văn hoá.

     Ngoài phần mở đầu mang tính chất đặt vấn để, tiểu luận (phần dược trích học) tập trung nêu lên và nhận xét về một số điểm mà theo tác giả là có “liên quan gần gũi” với cái gọi là đặc sắc văn hoá dân tộc. Cách triển khai lập luận của Trần Đình Hượu khá đặc biệt. Bắt đầu, ông đã không nói về cái có, mà nói về cái không của vốn văn hoá dân tộc. Có thể dễ dàng đếm được trong bài có đến trên vài chục lần từ không được lập lại – từ không với hàm nghĩa chỉ ra những cái mà dân tộc ta không có (so với các dân tộc khác trên thế giới). Bên cạnh từ không, các cụm từ và từ như chưa bao giờ, ít cũng chở theo một nội dung tương tự. Khó nói rằng tác giả cố tình “độc đáo”, cố tình gây ấn tượng ở điểm này. Cái gây ấn tượng, nếu có, toát lên từ cách nhìn trực diện về vấn để hơn là cách tung hứng ngôn từ. Vào thời điểm tiểu luận của Trấn Đình Hượu ra đời, người ta vốn đã quen nghe những lời ca tụng về dân tộc mình (“Càng nhìn ta, lại càng say” – Tố Hữu), bởi vậy, khi giáp mặt với một cách đặt vấn đẽ khác, một cảm hứng nghiên cứu khác, nhiéu người dễ có cảm tưởng rằng tác giả đã “nói ngược” hay đã cực đoan trong các nhận định. Kì thực, nếu nắm được mạch nghiên cứu lịch sử tư tưởng của Trần Đình Hượu, đồng thời chấp nhận nét đặc thù của lối văn “phát biểu ý kiến”, ít có trích dẫn cũng như ít đưa dẫn chứng (ở cấp độ cụ thể, chi tiết), lại chú yếu hướng vào giới chuyên môn vốn am hiểu sâu sắc các vấn đề hữu quan, ta sẽ dễ dàng chia sẻ, tán đồng với tác giả về hầu hết những luận điểm then chốt mà ông nêu lên.

     Khi khẳng định : “Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hoá của ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những dặc sắc nổi bật”, tác giả đã dựa vào khá nhiều căn cứ : Ở Việt Nam, kho tàng thần thoại không phong phú (xét theo những gì còn được báo tồn đến bây giờ) ; tôn giáo, triết học đểu không phát triển ; không có một ngành khoa học, kĩ thuật nào phát triển đến thành có truyền thống ; âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc đều không phát triển den tuyệt kĩ ; thơ ca rất được yêu thích nhưng các nhà thơ không ai nghĩ sự nghiệp của mình là ở thơ ca ;… Dĩ nhiên, đây mới chỉ là những “căn cứ lớn” mà bản thân chúng có thể và cần phải được chứng minh bằng hàng loạt dữ kiện cụ thể. Do định hướng riêng của bài viết, tác giả đành lướt qua vấn đề này. Điều quan trọng hơn đối với ông là nói rõ tiền đề mà dựa trên đó các “căn cứ lớn” đà được nêu lên : “Ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết học, môt ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội hoạ,… phát triển rất cao, ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hoá, thành đặc sắc văn hoá của dân tộc đó, thành thiên hướng văn hoá của dân tộc đó”. Theo lô gích vấn đề, ở cuối phần 2, tác giả còn cắt nghĩa lí do của các “kiểu lựa chọn văn hoá” vừa được chính ông trình bày để ta thấy rõ tính quy luật của nó : “Thực tế dó cho ta biết khuynh hướng, hứng thú, sự ưa thích, nhưng hơn thế, còn cho ta biết sự hạn chế của trình độ sản xuất, của đời sống xã hội. Đó là văn hoá của cư dân nông nghiệp định cư, không có nhu cầu lưu chuyển, trao đổi, không có sự kích thích của đô thị”. Bằng cách lật đi lật lại vấn đề như thế, tác giả đã thực sự làm tăng sức thuyết phục cho luận điểm của mình.

     Dễ dàng nhận thấy rằng, với tiểu luân này, tác giả đã thoát khỏi thái độ hoặc ca ngợi, hoặc chê bai đơn giản thường thấy khi tiếp cận vấn đề. Tinh thần chung của bài viết là tiến hành một sự phân tích, đánh giá khoa học đối với những đặc điểm nổi bật của văn hoá Việt Nam. Thực ra, khen hay chê vốn là một phản ứng tình cảm bình thường, hoàn toàn có đủ lí do để có mật trong một bài nghiên cứu. Nhưng điều quan trọng là nếu người viết không vượt lên được vòng trói buộc của sự khen – chê chủ quan thì mọi kiến nghị, đẻ xuất sau đó sẽ ít tính thuyết phục. Trần Đình Hượu hẳn ý thức sâu sắc về điều đó nên đã sử dụng một giọng văn điềm tĩnh, khách quan để trình bày các luận điểm. Người đọc chỉ có thể nhận ra được nguồn cảm hứng thật sự của tác giả nếu hiểu cái đích xa mà ông hướng đến : góp phần xây dựng một chiến lược phát triển mới cho đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển hiện thời.

     Sau khi đã nêu một loạt điểm “không đặc sắc” của vãn hoá Việt Nam, tác giả lại khẳng định : “người Việt Nam có nền văn hoá của mình”. Nếu việc làm trước không đồng nghĩa với cái gọi là “chê” thì việc làm sau không phải là biểu hiện cụ thể của cái gọi là “khen”. Không có gì mâu thuẫn ở đây cả, bởi, thứ nhất, theo tác giả quan niệm, việc đi tìm cái riêng của văn hoá Việt Nam không nhất thiết phải gắn liền với việc cố chứng minh dân tộc Việt Nam không thua kém các dân tộc khác ở những điểm mà thế giới đã thừa nhận là rất nổi bật ở họ (ví dụ như sự phát triển của hệ thống thần thoại, tôn giáo, triết học, các ngành nghệ thuật, kiến trúc,…). Nỗ lực chứng minh như thế là một nỗ lực vô vọng. Tác giả chỉ ra những điểm “không đặc sắc” của văn hoá Việt Nam là trên tinh thần ấy. Việc làm của tác giá rõ ràng hàm chứa một gợi ý về phương pháp luận nghiên cứu vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc : đi tìm đặc sắc văn hoá Việt Nam phải có cái nhìn sát với thực tế Việt Nam, không thể vận dụng những mô hình cố định ; điều quan trọng khác là phải tìm ra cội nguồn của hiện tượng không có những điểm đặc sắc nổi bật như của các dân tộc khác để thấy được cái “đặc sắc” của văn hoá Việt Nam. Vấn đề “có” hay “không” nhiều khi chưa quan trọng bằng vấn đề “tại sao có ?”, “tại sao không ?”. Thứ hai, tác giả quan niệm văn hoá là sự tổng hoà của nhiều yếu tố, trong đó lối sống, quan niệm sống là yếu tố then chốt ; mà lối sống, quan niệm sống ấy cũng lại là một hệ thống, kết quả sự tổng hoà của muôn vàn yếu tố khác nhỏ hơn. Khi quan sát thấy người Viột Nam có lối sống, quan niộm sống riêng, biểu hiện qua việc ta đã tự tạo ra được cho mình một cái “màng lọc” nhằm gạt bỏ hoặc tiếp thu, lựa chọn những cái gì không cần thiết hoâc cần thiết cho mình, tác giả hoàn toàn có cơ sở để khẳng định : người Việt Nam có nền văn hoá riêng. Hoá ra, “không đặc sắc” ở một vài điểm thường hay được người ta nhắc tới không có nghĩa là không có gì ! Phải nói rằng, Trần Đình Hượu đã có một quan niệm toàn diện về văn hoá, và hơn thế, biết triển khai công việc nghiên cứu của mình dựa vào việc khảo sát thực tế khách quan chứ không phải vào các “tri thức tiên nghiệm”, các định đề.

     Trong phần 3, tác giả có nêu khái quát một đặc điểm của văn hoá Việt Nam : “Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuông cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng. Giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình, hợp lí, áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải”. Vào thời điểm tiểu luận ra đời, khái quát nêu trên có thể đã gây được những ngạc nhiên thú vị, bởi nó giống như kết quả của một cái nhìn đến từ phía bên ngoài hoặc của một nỗ lực phản tỉnh, cố gắng tách mình ra khỏi mình nhằm tự đánh giá. Thực tế cho thấy : thật khó nhận diện được nét đặc sắc văn hoá của dân tộc mình một khi ta đang hít thở trong bầu khí quyển của nó, quá quen với nó. Giờ đây, khái quát trong tiểu luận của Trần Đình Hượu gần như đã trở thành một nhận thức phổ biến, thường được nhắc lại với một ít biến thái trong nhiều tài liệu khác nhau. Điều này thực ra khá dễ hiểu vì có vô số dẫn chứng trong đời sống và trong văn học chứng tỏ sự xác đáng của nó, ví dụ : Việt Nam không có những công trình kiến trúc đồ sộ như Kim Tự Tháp, Vạn Lí Trường Thành, Ăng-ko Vát,… chùa Một Cột (chùa Diên Hựu) – một biểu tượng của văn hoá Việt Nam – có quy mô rất bé ; chiếc áo dài rất được phụ nữ Việt Nam ưa chuộng có vẻ đẹp nõn nã, dịu dàng, thướt tha ; nhiều câu tục ngữ, ca dao khi nói về kinh nghiệm sống, ứng xử rất đề cao sự hợp lí, hợp tình : “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” ; “Ở sao cho vừa lòng người – Ở rộng người cười, ở hẹp người chê” ; “Lời nói chẳng mất tiền mua – Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”,…

     Nhìn chung, theo Trần Đình Hượu, văn hoá Việt Nam xa lạ với sự cực đoan, không chấp nhộn sự cực đoan, và riêng việc không chấp nhận điều đó đã biểu hiện một bản lĩnh đáng trọng. Như vậy, khi khái quát bản sắc văn hoá Việt Nam qua các từ như “đồng hoá”, “dung hợp”, tác giả Trần Đình Hượu không hề rơi vào thái độ tự ti hay miệt thị dân tộc.

     Cũng cần nói thêm : trên con đường xác định cái gọi là bản sắc văn hoá dân tộc, Trần Đình Hượu đã có những điểm gặp gỡ với nhiều nhà nghiôn cứu tư tưởng, văn hoá, văn học khác. Nhà Đạo học Cao Xuân Huy từng hình dung triết lí Việt Nam là triết lí Nước hay Nhu đạo. Còn nhà sử học Trần Ọuốc Vượng thì viết : “Tôi gọi cái bản lĩnh – bản sắc biết nhu, biết cương, biết công, biết thủ, biết “trông trời trông đất trông mây…” rồi tuỳ thời mà làm ăn theo chuẩn mực “nhất thì nhì thục”… ấy, là khá năng ứng biến của người Việt Nam, của lối sống Việt Nam, của văn hoá Việt Nam !” , v.v.

     Trong bối cảnh thời đại ngày nay, việc tìm hiểu bản sắc văn hoá dân tộc trở thành một nhu cầu tự nhiên. Chưa bao giờ dân tộc ta có cơ hội thuận lợi như thế để xác định “chân diện mục” của mình qua hành động so sánh, đối chiếu với “khuôn mặt” của các dân tộc khác. Giữa hai vấn đề hiểu mình và hiểu người có mối quan hệ tương hỗ. Tìm hiểu bản sắc văn hoá dân tộc rất có ý nghĩa đối với việc xây dựng một chiến lược phát triển mới cho đất nước, trên tinh thần làm sao phát huy được tối đa mặt mạnh vốn có, khắc phục được những nhược điểm dần thành cố hữu để tự tin đi lên. Tìm hiểu bản sắc vãn hoá dân tộc dĩ nhiên cũng gắn liền với việc quảng bá cái hay, cái đẹp của dân tộc để “góp mặt” cùng năm châu, thúc đẩy một sự giao lưu lành mạnh, có lợi chung cho việc xây dựng một thế giới hoà bình, ổn định và phát triển. Đến với tiểu luận Vấn đề tìm đặc sắc văn hoá dân tộc, cụ thể là đến với đoạn trích Nhìn về vốn ván hoá dân tộc, chúng ta cảm nhận được những điều gợi mở quý báu đó từ một nhà nghiên cứu tâm huyết với tiền đồ phát triển của dân tộc.

Dàn ý Phân tích bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

I. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Trần Đình Hượu (những nét chính về cuộc đời, các công trình nghiên cứu,…).

– Giới thiệu về đoạn trích “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” (hoàn cảnh ra đời, vị trí đoạn trích, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật…).

II. Thân bài:

1. Một số nhận xét về nền văn hóa dân tộc

– Cách nêu vấn đề ngắn gọn, khiêm tốn, khách quan, khôn khéo của tác giả.

– Đưa ra nhận xét trên một số mặt của vấn đề nghị luận.

2. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam

a. Hạn chế:

– Văn hóa Việt Nam chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có ảnh hưởng tới các nền văn hóa khác.

– Hạn chế trên các phương diện:

+ Thần thoại không phong phú.

+ Tôn giáo, triết học không phát triển, ít quan tâm đến giáo lí.

+ Khoa học kí thuật không phát triển thành truyền thống.

+ Âm nhạc, hội họa, kiến trúc không phát triển đến tuyệt kĩ.

+ Thơ ca chưa tác giả nào có tầm vóc lớn lao.

b. Thế mạnh:

– Thế mạnh của văn hóa Việt Nam: thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch, con người hiền lành, tình nghĩa.

+ Việt Nam có nhiều tôn giáo nhưng không xảy ra xung đột.

+ Con người sống tình nghĩa: tốt gỗ hơn tốt nước sơn, cái nết đánh chết cái đẹp,….

+ Các công trình kiến trúc quy mô vừa và nhỏ, hài hào với thiên nhiên.

c. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam:

– Về tôn giáo: không cuồng tín, cực đoan mà dung hòa các tôn giáo khác nhau tạo nên sự hài hòa, không tìm sự siêu thoát tinh thần bằng tôn giáo, coi trọng cuộc sống trần tục hơn thế giới bên kia.

– Nghệ thuật: sáng tạo những tác phẩm tinh tế nhưng không có quy mô lớn, không mang vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ, phi thường.

– Ứng xử: trọng tình nghĩa nhưng không chú ý nhiều đến trí, dũng, chuộng sự khéo léo, không kì thị, cực đoan, thích sự yên ổn.

– Sinh hoạt: thích chừng mực vừa phải, mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn no đủ, sống thanh nhàn, thong thả, có đông con, nhiều cháu, không mong gì cao xa, khác thường,…

– Quan niệm về cái đẹp: cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo, hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng, quy mô vừa phải.

– Kiến trúc: tuy nhỏ nhưng điểm nhấn lại là sự hài hòa, tinh tế với thiên nhiên.

– Lối sống: ghét phô trương, thích kín đáo, trọng tình nghĩa,….

⇒ Văn hóa của người Việt Nam giàu tính nhân bản, luôn hướng đến sự tinh tế, hài hòa trên nhiều phương diện. Đó chính là bản sắc văn hóa Việt Nam.

3. Con đường hình thành bản sắc văn hóa dân tộc

– Sự tạo tác của chính dân tộc.

– Khả năng chiếm lĩnh, đồng hóa những giá trị văn hóa bên ngoài.

III. Kết bài:

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.

– Bài học cho bản thân: mỗi người cần ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, cần có những hành động đúng đắn, phù hợp,…

Phân tích bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

     Trần Đình Hượu là một chuyên gia về các vấn đề văn hóa tư tưởng Việt Nam. Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa tư tưởng có giá trị: “Đến hiện đại từ truyền thống”(1994), “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại”(1995). “Nhìn về vốn văn hóa của dân tộc” là trích đoạn của tiểu luận “Về vấn đề tìm đặc sắc của dân tộc” được Trần Đình Hượu viết từ năm 1986. Trong tác phẩm tác giả đã thoát khỏi thái độ hoặc ngợi ca hoặc chê bai thường thấy khi tiếp cận vấn đề, tinh thần chung của bài viết là tiến hành một sự phân tích đánh giá khoa học đối với những vấn đề nổi bật của văn hóa Việt Nam.

     Trước tiên tác giả đã đặt vấn đề về khái niệm của vốn văn hóa. Chúng ta thường nói đến văn hóa ẩm thực hay văn hóa đọc. Vậy văn hóa là gì? Theo đó văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Đây là một khái niệm cơ bản của văn hóa trong từ điển tiếng Việt.

     Đứng trên khái niệm về văn hóa Trần Đình Hượu đã nêu lên nhận xét khái quát về Văn hóa Việt Nam “chúng ta không thể tự hào nền văn hóa của chúng ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại hay có những đặc sắc nổi bật”. Tác giả đã phân tích những đặc điểm của vốn văn hóa Việt Nam thông qua những phương diện đời sống cụ thể hàng ngày cả về vật chất lẫn tinh thần. Tác giả đã phân tích đặc điểm vốn văn hóa của dân tộc trên những cơ sở phương diện như tôn giáo nghệ thuật, kiến trúc hội họa và văn học. Về tôn giáo tác giả chỉ rõ người Việt Nam không cuồng tín không cực đoan mà dung hòa tạo nên sự hài hòa nhưng không tìm sự siêu thoát siêu Việt về tinh thần bằng tôn giáo. Nước Việt là một nước có truyền thống văn hóa lâu đời, nhưng luôn có sự tiếp thu, có chọn lọc văn hóa từ các nước bạn để làm giàu cho vốn văn hóa của dân tộc. Chính điều này đã góp phần tạo nên một nước Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Về khoa học kỹ thuật không một ngành nào phát triển đến thành truyền thống đáng tự hào. Về âm nhạc hội họa đều không phát triển đến tuyệt kĩ. Chưa bao giờ một nền văn hóa nào của dân tộc trở thành đài danh dự thu hút quy tụ cả nền văn hóa. Về thơ ca Trần Đình Hượu chỉ rõ “trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất chính là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, có dịp làm dăm ba câu thơ ca”. Trong kho tàng văn học truyền thống của dân tộc ta thì thơ ca chiếm một phần không nhỏ bởi vì dễ thuộc dễ đi vào lòng người thế nhưng đồng thời tác giả cũng chỉ ra” những số nhà thơ để lại nhiều tác phẩm thì không có”. Điều này đã gây ra nhiều tranh cãi bởi dân tộc ta cũng có rất nhiều nhà thơ lớn để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ và là niềm tự hào của chúng ta đối với thế giới như Nguyễn Du hay Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bỉnh Khiêm…. Như vậy bên cạnh những điểm mạnh điểm tích cực thì Trần Đình Hượu cũng chỉ ra những mặt còn yếu còn hạn chế của văn hóa Việt. Sở dĩ văn hóa của ta còn nhiều hạn chế là bởi xuất phát từ nền văn hóa nông nghiệp “dân nông nghiệp định cư…nhiều bất trắc” hơn nữa đất nước ta còn nhỏ tài nguyên lại chưa thật phong phú dẫn đến tâm lý thích cái vừa phải và phần nào đất nước chúng ta cũng chịu nhiều tổn thất nặng nề từ các cuộc đấu tranh và thường xuyên bị các thế lực nước ngoài bao vây chống phá. Vì thế mong ước của nhân dân cũng rất đơn giản đó là có cuộc sống thái bình đời sống vật chất thoát nghèo nàn và không có mong ước phát triển mạnh mẽ. Tác giả đã có một quan niệm vô cùng toàn diện của mình về văn hóa và triển khai việc nghiên cứu của mình dựa vào việc khảo sát thực tế khách quan chứ không phải vào các “tri thức tiền nghiệm”

     Theo Trần Đình Hượu thì quan niệm sống, quan niệm về cái đẹp là những biểu hiện đặc sắc của văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong cách ứng xử họ rất trọng tình nghĩa không chú ý nhiều đến trí dũng khéo léo nhưng không cầu thị, cực đoan thích yên ổn. Tuy coi trọng đời sống hiện thế trần tục nhưng không bám lấy hiện thế. Con người ưa chuộng của người Việt là con người hiền lành, tình nghĩa, coi sự giàu sang chỉ là tạm thời cho nên không vì thế mà giành giật cho mình vì cũng không thể hưởng được hết. Trong sinh hoạt họ ưa chừng mực vừa phải, mong ước thái bình an cư lạc nghiệp làm ăn cho no đủ sống yên ổn thanh nhàn. Quan niệm về cái đẹp trong nhận thức của người Việt “vừa xinh vừa khéo”, không háo hức cái tráng lệ huy hoàng không say mê cái huyền ảo kỳ vĩ”, về màu sắc “chuộng cái dịu dàng thanh nhã ghét cái ặc sỡ”, về quần áo món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Và đúng như tác giả đã nhận định chúng ta không có công trình kiến trúc nào kể cả của vua chúa nhằm vào sự vĩnh viễn. Thực tế đã chứng minh trong lịch sử nước Việt Nam chúng ta từ xưa đến nay đều không có công trình kiến trúc nào vĩnh viễn như Vạn lý trường thành của Trung Quốc hay lăng mộ ở Ai Cập. Theo tác giả đặc điểm nổi bật trong sự sáng tạo văn hóa Việt Nam là tạo ra cuộc sống thiết thực bình ổn lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng thanh lịch nhưng con người hiền lành sống có tình nghĩa, sống có văn hóa trên một cái nền nhân bản. Đó chính là chùa Một Cột đơn giản mà uy nghi hay các lăng tẩm của vua chúa thời Nguyễn, đó chính là lời ăn tiếng nói của nhân dân trong tục ngữ thành ngữ và ca dao.

“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”

     Hay:

Lời chào cao hơn mâm cỗ”

     Tác giả cũng chỉ ra những tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến con người Việt đó là phật giáo và nho giáo. Để tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc người Việt Nam đã xác nhận tư tưởng của các tôn giáo này theo hướng “Phật giáo không được tiếp nhận ở khía cạnh trí tuệ cầu giải thoát mà nho giáo cũng không được tiếp nhận ở nghi lễ tủn mủn, giáo điều khắc nghiệt”. Người Việt tiếp thu nho giáo để có một cuộc sống trong sạch lành mạnh hài hòa bao dung nhân nghĩa hướng thiện cứu khổ cứu nạn. Tư tưởng nhân nghĩa, yên dân được thể hiện rất nhiều trong thơ ca.

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

     Tác giả nhận định “tinh thần chung của văn hóa là thiết thực dung hòa”. Nhận định này vừa nói lên mặt tích cực vừa tiềm ẩn điểm hạn chế của văn hóa Việt. Vì tính thiết thực trong quá trình sáng tạo khiến văn hóa Việt gắn bó sâu sắc với đời sống của cộng đồng. Tính linh hoạt của văn hóa Việt biểu hiện rõ ở khả năng tiếp thu và biến các giá trị văn hóa sao cho phù hợp với đời sống bản địa của người Việt như Phật giáo, nho giáo và đạo giáo. Vì dung hòa nên các giá trị văn hóa Việt không thuộc nhiều nguồn khác nhau không loại trừ nhau trong đời sống xã hội của người Việt, người Việt chọn lọc và kế thừa các giá trị này để tạo nên sự hài hòa bình ổn trong đời sống văn hóa. Tuy nhiên vì quá thiếu sáng tạo nên không đạt đến những giá trị kỳ vĩ vì luôn dung hòa nên không có những giá trị đặc sắc nổi bật.

     Tác giả cũng khẳng định “Con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hóa không chông cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó mà còn trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh khả năng đồng hóa các giá trị văn hóa bên ngoài. Về mặt đó lịch sử chứng minh là dân tộc Việt Nam có bản lĩnh”. Dân tộc ta đã trải qua một thời gian dài bị đô hộ và chịu áp bức nặng nề từ thuộc địa chính vì thế mà dân ta không thể chờ vào sự sáng tạo và sáng tác nữa mà phải “trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh khả năng đồng hóa các giá trị văn hóa bên ngoài” là điều đúng đắn. Như ta đã nói ở trên tuy ta chịu ảnh hưởng của phật giáo và nho giáo nhưng ta không tiếp thu toàn bộ nó mà chỉ tiếp thu những đạo lí tốt đẹp, những gì thích hợp với văn hóa Việt Nam. Bên cạnh đó chúng ta sáng tạo chữ Nôm trên cơ sở chữ Hán tạo nên những tác phẩm mang đậm âm hưởng Việt, chúng ta sáng tạo các thể thơ dân tộc đi đôi với các thể thơ đường luật của Trung Quốc, thơ tự do của phương tây. Như vậy chúng ta tiếp thu nhưng không bao giờ dập khuôn máy móc, người Việt đã cải biến nó theo những ý nghĩa riêng gắn với đặc trưng riêng của dân tộc mình.

Văn mẫu lớp 12

Giáo dục

Bản quyền bài viết thuộc thcs-thptlongphu. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Tác giả: https://thcs-thptlongphu.edu.vn – Trường Lê Hồng Phong
Nguồn: https://thcs-thptlongphu.edu.vn/van-mau-nhin-ve-von-van-hoa-dan-toc-tran-dinh-huou-dan-y-10-mau/

Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn

Chuyên mục: Tổng hợp