Victim blaming là gì? Nguồn gốc của từ victim blaming?

0
58
Rate this post

Victim blaming là gì?

Victim blaming là hành vi quy trách nhiệm về nạn nhân thay vì thủ phạm khi một tội ác diễn ra, ví dụ như hành hung hoặc cưỡng bức.

Lúc này, thủ phạm hoặc những người xung quanh sẽ đổ lỗi cho nạn nhân bằng cách cho rằng họ đã có hành động, lời nói hoặc cách ăn mặc gây kích động bạo lực.

Victim blaming là gì?
Victim blaming là gì?

Nguồn gốc của từ victim blaming?

Victim blaming được cho là đã xuất hiện từ năm 1971 trong cuốn sách Blaming the Victim của William Ryan – viết về thực trạng phân biệt chủng tộc và giai cấp ở Mỹ.

Trong sách, Ryan đã mô tả việc đổ lỗi cho nạn nhân là cách để bảo vệ lợi ích của nhóm người chiếm ưu thế hơn. Điều này giúp thủ phạm hợp lý hóa hành động của mình nhằm né tránh hình phạt và duy trì được quyền tự do thực hiện tội ác trong tương lai. Hành vi này xuất phát từ cảm giác mình có đặc quyền và mong muốn áp đặt nó lên người khác.

Tuy cụm từ này mới xuất hiện từ thập niên 70, nhưng hiện tượng đổ lỗi cho nạn nhân được cho là đã xuất hiện từ lúc lịch sử con người được hình thành.

Vì sao victim blaming trở nên phổ biến?

Những người ủng hộ cho nạn nhân trong những tội ác, đặc biệt là các vụ án hiếp dâm đã sử dụng và phổ biến cụm từ này. Nguyên nhân có thể đến từ khuynh hướng đổ lỗi cho nạn nhân phổ biến hơn ở những vụ tấn công tình dục so với những vụ cướp bóc, đặc biệt nếu nạn nhân và thủ phạm quen biết nhau từ trước.

Trong vụ việc nữ du học sinh tại Hàn Quốc bị xâm hại tình dục tập thể, đã có bài đăng “tố” rằng cô và thủ phạm đang hẹn hò nhằm giảm uy tín lời khai của cô.

Victim blaming là một lỗi tư duy được gọi là ngụy biện “đời mà”, bắt nguồn từ niềm tin về một thế giới công bằng. Ở đó, “ác giả ác báo, thiện giả thiện lai” – nếu bất hạnh xảy ra với một người nghĩa là trước đó họ đã làm điều gì đó sai và ngược lại.

“Có lửa thì mới có khói”, “Nó phải làm sao thì mới bị vậy”, “Đừng đóng vai người bị hại” là những lời dè bỉu nạn nhân xuất phát từ tư duy này.

Khi không thể ngăn chặn điều tồi tệ xảy ra với ai đó, chúng ta có xu hướng coi họ là người xấu để bảo vệ quan điểm về thế giới công bằng (Theo verywellmind.com). Tâm lý này tạo nên một sự dễ chịu, bởi từ đó một người tự thuyết phục được rằng họ có thể tránh việc trở thành nạn nhân bằng cách không thực hiện những điều mà nạn nhân đã làm.

Điều này vô tình gây khó khăn cho những người bị hại. Bởi nếu cảm thấy mình có lỗi hoặc sẽ bị đổ lỗi, họ khó có thể cảm thấy an toàn khi muốn đưa tội ác ra ánh sáng.

Cách dùng victim blaming?

Tiếng Anh:

A: Hey! Do you know that C just got sexually assaulted on her way home yesterday?

B: What was she wearing? She’s really into those short skirts.

A: So what? Why is it a problem here? Stop victim blaming her.

Tiếng Việt:

A: Ê! Hôm qua C mới bị quấy rối trên đường về nhà đó.

B: Lúc đó nó mặc gì? C nó thích mặc mấy cái máy ngắn lắm.

A: Ơ hay! Thế thì sao? Đừng nói như thể người ta đáng bị vậy chứ.

Vì sao victim blaming trở nên phổ biến?
Vì sao victim blaming trở nên phổ biến?

Nguyên nhân của hành động victim blaming

Nguyên nhân mà mọi người đổ lỗi cho nạn nhân đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và đưa ra những bằng chứng. Dưới đây là một số lý do phổ biến cho hành động victim blaming.

Trốn tránh trách nhiệm & bảo vệ niềm tin của bản thân

Những kẻ phạm tội đổ lỗi cho nạn nhân nhằm tự bào chữa cho chính mình để chối tội. Thậm chí sự đổ lỗi này cũng có thể thấy ở những luận sư bào chữa cho các bị cáo. Người thân hay những người yêu quý thủ phạm cũng thường gán trách nhiệm lên người nạn nhân vì họ không muốn tin rằng thủ phạm – người họ kỳ vọng luôn hành động đúng đắn – đã gây ra tội ác. Ví dụ, trong một số vụ bê bối mà các thần tượng (idol) là thủ phạm, nhiều người hâm mộ đã đổ lỗi cho các nạn nhân vì không muốn sụp đổ niềm tin vào thần tượng của mình.

Bảo vệ quan điểm thế giới công bằng

Có một thí nghiệm vô cùng nổi tiếng năm 1966 có tên “Phản ứng của người quan sát đối với nạn nhân vô tội” do Lerner, M. J. và Simmons, C. H. tiến hành đã nghiên cứu về vấn đề này. Có hai nhóm phụ nữ được yêu cầu chứng kiến ​​một cô gái tham gia một bài kiểm tra. Nếu trả lời đúng, cô ấy sẽ không sao. Tuy nhiên nếu trả lời sai, cô ấy phải chịu các cú sốc điện đau đớn. Cô gái bị điện giật trong thí nghiệm thực chất là một diễn viên và cô ấy không thực sự bị sốc điện. Nhưng cô ấy đã đem lại cho những người tham gia thí nghiệm cảm giác chân thực như thể cô ấy bị đau.

Ban đầu, những người tham gia đều tỏ ra khó chịu khi chứng kiến ​​cảnh nạn nhân đau khổ. Sau đó, một nhóm đã được cung cấp cơ hội giúp đỡ nạn nhân bằng cách bỏ phiếu để ngăn chặn cú sốc khi cô ấy trả lời sai. Hoặc là thay vào đó, họ có thể chọn bồi thường cho cô ấy bằng tiền như một phần thưởng cho những câu trả lời cô ấy đúng. Nhóm người tham gia thứ hai không được trao cơ hội này. Thay vào đó, họ phải ngồi nhìn nạn nhân liên tục bị điện giật mà không có cách nào khắc phục tình hình.

Sau đó, tất cả những người tham gia được yêu cầu chia sẻ ý kiến ​​của họ về nạn nhân. Kết quả thật đáng chú ý: nhóm được trao phần thưởng coi nạn nhân là người tốt trong khi những người còn lại phần nhiều đã coi cô ấy là người xấu và đáng phải chịu cú sốc điện.

Các tác giả của nghiên cứu kết luận rằng nhóm người không thể ngăn chặn những điều tồi tệ xảy ra với nạn nhân cảm thấy cần phải coi cô ấy là người xấu để bảo vệ quan điểm của họ rằng thế giới là công bằng, mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân của nó. Nếu họ có thể tự thuyết phục rằng cô ấy là người xấu và xứng đáng phải chịu đựng “hình phạt”, họ sẽ ít bị ảnh hưởng và dằn vặt bản thân bởi sự đau khổ của nạn nhân. Các nạn nhân đôi khi cũng tự thôi miên mình rằng họ đã làm sai và việc phải chịu những điều tệ hại là đương nhiên.

Tăng cảm giác an toàn cho bản thân

Barbara Gilin – một giáo sư về công tác xã hội của đại học Widener đã giải thích rằng: “Bất kì một tội ác nào cũng sẽ khiến nhiều người có xu hướng victim blaming. Điều này bắt nguồn từ cơ chế tự phòng vệ khi đối mặt với những tin xấu.” Gilin lưu ý rằng khi mọi người có xu hướng chấp nhận rủi ro cùng những nguy hiểm là điều luôn tồn tại và không thể tránh khỏi, họ sẽ muốn kiểm soát nhiều hơn việc liệu họ có trở thành nạn nhân tiếp theo hay không và liệu họ có thể làm gì để bảo vệ bản thân mình. Đặt bản thân ở vị trí của một người có nguy cơ trở thành “nạn nhân tiếp theo”, họ sẽ cố gắng tìm ra “lỗi lầm” của “nạn nhân trước mắt” như một cách “rút kinh nghiệm” và cố gắng không “mắc phải” để tránh điều xấu.

Vì cơ chế tự bảo vệ bản thân mà chúng ta có những suy nghĩ đổ lỗi cho nạn nhân mà đôi khi chúng ta không hề nhận thức được rằng mình đang làm điều đó. Ví dụ khi thấy nhà hàng xóm bị trộm đột nhập, mọi người sẽ thoải mái hơn khi biết rằng nhà hàng xóm đã “mắc lỗi” quên khóa cửa. Nguyên nhân này giúp họ cảm thấy an toàn vì họ chắc chắn sẽ nhớ khóa cửa và sẽ không bị mất cắp. Kể cả những người thiện chí nhất cũng đôi khi góp phần thúc đẩy suy nghĩ victim blaming.

Trong các chương trình phòng ngừa xâm hại, các nhà trị liệu thường đưa ra lời khuyên về việc “phụ nữ nên cẩn thận trong ăn mặc và không nên ra ngoài vào buổi tối để tránh trở thành đối tượng của tội phạm”. Vì thế khi nghe tin một ai đó bị xâm hại, chúng ta sẽ thường nghĩ rằng “Ồ, có lẽ nạn nhân đã đi tới chỗ vắng vẻ vào buổi tối, có lẽ cô ấy đã ăn mặc không kín đáo. Mình sẽ không bị như vậy nếu luôn đi đến những nơi an toàn”. Các nạn nhân cũng có suy nghĩ này nhằm tăng cảm giác an toàn của mình. Họ tự trách mình đã không cẩn thận và nếu biết rút kinh nghiệm, lần sau họ sẽ không gặp phải những điều tương tự. Trên thực tế, cho dù vì bất cứ nguyên nhân gì, điều chắc chắn là nạn nhân sẽ không phải chịu bất kỳ trách nhiệm gì về hành vi mà kẻ phạm tội gây ra cho họ.

Mức độ nguy hiểm

Đổ lỗi cho nạn nhân gây ra những hiểu lầm nguy hiểm. Chúng gieo vào đầu mỗi người suy nghĩ sai lệch về sự việc và đối tượng phải chịu trách nhiệm cho sự việc đó.

Victim blaming khiến nạn nhân trở nên khó tiếp cận và trình báo về vụ việc, gây cản trở việc truy xét, truy lùng tội phạm. Tại Canada trung bình cứ 3 trẻ em gái lại có 1 trẻ từng bị l.ạm d.ụng/ t.ấn c.ông t.ình d.ục ở độ tuổi 18. Tuy vậy 97% các vụ án không được báo cáo đến cơ quan cảnh sát.

Đổ lỗi cho nạn nhân cũng “củng cố” sức mạnh cho những kẻ phạm tội. Nó cho phép thủ phạm tránh phải chịu trách nhiệm về hành động của họ, thậm chí tiếp tục phạm tội.

Về phía nạn nhân, bị đổ lỗi hoặc tự đổ lỗi cho chính mình có thể dẫn đến gia tăng sự đau khổ không cần thiết cho họ. Họ phải chịu ảnh hưởng về sức khỏe tâm thần, chịu cảm giác xấu hổ và tội lỗi khi bị chế giễu. Việc này sẽ làm chậm quá trình tự chữa lành của họ và khiến suy nghĩ của họ trở nên độc hại. Đồng thời việc đổ lỗi cũng ngăn nạn nhân tiếp cận với sự hỗ trợ và giúp đỡ mà họ xứng đáng có. Họ sẽ phải chứng kiến cảnh ​​những kẻ phạm tội trốn thoát được sự trừng phạt thay vì nhận được sự công bằng mà họ đáng được nhận.

Nguyên nhân của hành động victim blaming
Nguyên nhân của hành động victim blaming

Một ví dụ nổi tiếng về việc đổ lỗi cho nạn nhân

Năm 2003, một cô gái 14 tuổi tên Elizabeth Smart bị bắt cóc từ phòng ngủ của mình ở Thành phố Salt Lake, Utah bằng dao. Cô đã trải qua chín tháng tiếp theo bị giam giữ bởi những kẻ bắt cóc cô, Brian Mitchell và Wanda Barzee. Sau khi cô được giải cứu và thông tin chi tiết về thời gian cô bị giam cầm được công khai, nhiều người thắc mắc tại sao cô không cố gắng trốn thoát hoặc tiết lộ danh tính của mình.

Những câu hỏi kiểu này, đáng buồn thay, không phải là hiếm sau khi mọi người nghe về một sự kiện khủng khiếp. Tại sao sau một tội ác kinh hoàng như vậy, nhiều người lại tỏ ra “đổ lỗi cho nạn nhân” về hoàn cảnh của mình?

Khi các bản tin xuất hiện về một phụ nữ bị cưỡng hiếp, nhiều câu hỏi xoay quanh việc các nạn nhân đang mặc hoặc làm gì có thể đã “kích động” vụ tấn công. Khi bị theo dõi, những người khác thường tự hỏi nạn nhân đã làm gì vào đêm khuya hoặc tại sao họ không thực hiện các biện pháp bổ sung để bảo vệ mình khỏi tội phạm.

Tại sao con người có khuynh hướng đổ lỗi cho nạn nhân

Một hiện tượng tâm lý góp phần vào xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân được gọi là lỗi quy kết cơ bản.

Sự thiên vị này liên quan đến việc gán các hành vi của người khác với các đặc điểm bên trong, cá nhân trong khi bỏ qua các lực lượng và biến số bên ngoài cũng có thể đóng một vai trò nào đó.

Ví dụ, khi một người bạn cùng lớp làm bài kiểm tra, bạn có thể cho rằng hành vi của họ là do nhiều đặc điểm bên trong. Bạn có thể tin rằng học sinh kia không học đủ chăm chỉ, không đủ thông minh, hoặc chỉ đơn giản là lười biếng.

Tuy nhiên, nếu bạn trượt một bài kiểm tra, bạn sẽ đổ lỗi cho thành tích kém của mình là gì? Trong nhiều trường hợp, mọi người đổ lỗi cho sự thất bại của họ do các nguồn bên ngoài. Bạn có thể phản đối rằng phòng quá nóng và bạn không thể tập trung, hoặc giáo viên không cho điểm bài kiểm tra một cách công bằng hoặc đưa ra quá nhiều câu hỏi mẹo.

Nhận thức muộn là 20/20

Một vấn đề khác góp phần khiến chúng ta có xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân được gọi là thành kiến ​​nhận thức muộn.

Khi nhìn vào một sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, chúng ta có xu hướng tin rằng lẽ ra chúng ta có thể nhìn thấy các dấu hiệu và dự đoán kết quả.

Nhận thức muộn màng này khiến có vẻ như nạn nhân của một tội ác, tai nạn hoặc một dạng bất hạnh khác lẽ ra phải có thể dự đoán và ngăn chặn bất cứ vấn đề gì có thể xảy ra với họ.

Và đây không chỉ là điều xảy ra khi chúng ta xem xét những thứ như hiếp dâm hoặc hành hung. Khi ai đó bị ốm, mọi người thường tìm cách đổ lỗi cho những hành vi trong quá khứ cho tình trạng sức khỏe hiện tại của một người.

Sự xấu xa? Đáng lẽ họ phải ngừng hút thuốc. Bệnh tim? Chà, tôi đoán họ nên tập thể dục nhiều hơn. Ngộ độc thực phẩm? Đáng lẽ phải biết rõ hơn là nên ăn ở nhà hàng mới đó .

Những trường hợp đổ lỗi như vậy dường như cho thấy rằng mọi người lẽ ra chỉ đơn giản biết hoặc mong đợi những điều như vậy xảy ra với hành vi của họ, trong khi sự thật không có cách nào để dự đoán kết quả.

Chúng ta muốn tin rằng cuộc sống là công bằng khi nó không phải như vậy

Xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân của chúng ta một phần cũng bắt nguồn từ nhu cầu tin rằng thế giới là một nơi công bằng và chính đáng. Khi một điều gì đó tồi tệ xảy ra với một người khác, chúng ta thường tin rằng họ phải đã làm gì đó để xứng đáng với số phận như vậy. Các nhà tâm lý học xã hội gọi khuynh hướng này là hiện tượng thế giới công bình.

Tại sao chúng ta cảm thấy điều này cần phải tin rằng thế giới là công bằng và mọi người nhận được những gì họ xứng đáng?

Bởi vì nếu chúng ta nghĩ rằng thế giới không công bằng, thì rõ ràng hơn là bất cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân của bi kịch. Có, ngay cả bạn, bạn bè của bạn, gia đình của bạn và những người thân yêu khác của bạn. Cho dù bạn có thận trọng và tận tâm đến đâu, những điều xấu vẫn có thể xảy ra với những người tốt.

Nhưng bằng cách tin rằng thế giới là công bằng, bằng cách tin rằng mọi người xứng đáng với những gì họ nhận được, và bằng cách đổ lỗi cho nạn nhân, mọi người có thể bảo vệ ảo tưởng của mình rằng những điều khủng khiếp đó không bao giờ có thể xảy ra với họ.

Nhưng những điều tồi tệ có thể và có thể sẽ xảy đến với bạn vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời. Vì vậy, lần tới khi bạn tự hỏi người khác đã làm gì để mang lại vận rủi cho họ, hãy dành một chút thời gian để xem xét những quy định và thành kiến ​​tâm lý ảnh hưởng đến phán đoán của bạn.

********************

 

Bản quyền bài viết thuộc thcs-thptlongphu. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://thcs-thptlongphu.edu.vn
https://thcs-thptlongphu.edu.vn/victim-blaming-la-gi-nguon-goc-cua-tu-victim-blaming/

Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn

Chuyên mục: Tổng hợp