Công hữu là gì?
Công hữu là quyền sở hữu chung của mọi người, chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất – cơ sở của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Bản chất chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng là xã hội của dân, do dân, vì dân và quyền lực thuộc về Nhân dân. Đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Chế độ công hữu là gì?
Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa là chế độ sở hữu gồm tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về sở hữu xã hội chủ nghĩa về các tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, các phương tiện và sản phẩm khác. Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất – cơ sở của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Việc xuất hiện chế độ công hữu bên cạnh những mặt tích cực cũng đã tạo ra nhiều điểm tiêu cực đến đời sống-xã hội lúc bấy giờ.
Chế độ công hữu tiếng Anh là Public regime
Công hữu về tư liệu sản xuất là gì?
Công hữu về từ liệu sản xuất là chế độ sở hữu gồm tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về sở hữu xã hội chủ nghĩa về các tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, các phương tiện và sản phẩm khác.
Chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Việc xây dựng và phát triển sở hữu công không phải bằng cách hạn chế hoặc loại bỏ các loại hình phi công hữu để sở hữu công giữ vị trí độc tôn.
Ngay trong thời kỳ quá độ, chúng ta đã không ít lần thử nghiệm liệu pháp đó, nhưng đã không thành công. Đến khi tiến hành đổi mới, chúng ta mới thừa nhận trên thực tế tính hợp pháp của các loại hình phi công hữu.
Chế độ tư hữu là gì?
Chế độ tư hữu là việc chiếm hữu riêng của một số bộ phận giai cấp vì mục đích cá nhân, trong nền kinh tế, tài sản thường được coi là quyền sở hữu (quyền đối với số tiền thu được từ tài sản) và kiểm soát tài nguyên hoặc hàng hóa.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng quyền quyền tài sản cần phải được cố định và cần phải diễn đạt mối quan hệ giữa các bên khác để có hiệu quả hơn.
Nguyên nhân hình thành chế độ tư hữu:
– Trong xã hội nguyên thủy, sự công bằng và bình đẳng là “nguyên tắc vàng” vì lúc này chưa có sản phẩm dư thừa.
– Đến thời đại kim khí, của cải làm ra không chủ nuôi sống con người mà còn dư thừa.
– Những người có chức phận đã chiếm đoạt của dư thừa biến thành của riêng mình. Thế là tư hữu bắt đầu xuất hiện, quan hệ cộng đồng bị phá vỡ.
– Gia đình cũng thay đổi theo: Đàn ông làm các công việc nặng nhọc và giữ cai trò trụ cột gia đình, con cái theo họ cha từ đó gia đình phụ hệ xuất hiện.
– Khả năng lao động của các gia đình khác nhau đã thúc đẩy thêm sự phân biệt giàu nghèo. Kẻ giàu, người nghèo, người có quyền, kẻ bị lệ thuộc đã xuất hiện. Từ đó xã hội bắt đầu phân chia giai cấp.
Như vậy, từ lâu chế độ tư hữu cũng được hình thành và tại nước ta nó bắt đầu xuất hiện khá sớm. Sự xuất hiện tư hữu đã kéo theo nhiều vấn đề đời sống lúc bây giờ gặp nhiều khó khăn, xã hội phân cấp giàu nghèo.
Tuy nhiên cũng đã tạo ra sự tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển, con người cạnh tranh với nhau và từ đó giúp cho cuộc sống trở nên đa dạng và phát triển hơn.
Vấn đề công hữu trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
Theo tư duy mới, chế độ công hữu không phải là yếu tố “nhất thành bất biến” trong nền sản xuất ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng như ở thời kỳ chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đều có đặc điểm chung là lấy chế độ công hữu làm nền tảng. Tất cả các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định như vậy.
Nhưng ở nước ta hiện nay, có một số người hoài nghi về vấn đề này. Có người cho rằng, nói như vậy là võ đoán, là chủ quan, áp đặt. Người khác thì cho rằng, tùy theo kết quả phát triển tự nhiên của nền kinh tế mà có sự sắp xếp vị trí của chế độ công hữu, không nên nói trước nó giữ vị trí như thế nào.
Đây là vấn đề hệ trọng, không thể tùy tiện giải quyết bằng ý muốn chủ quan. Cần thấy rằng, chế độ chính trị – xã hội quy định bản chất của chế độ kinh tế. Chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa lấy chế độ công hữu làm nền tảng. Tính quy định đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người, trước hết là của giai cấp thống trị.
Chế độ công hữu ở nước ta không phải là sự hư cấu, mà là một thực thể kinh tế, được hình thành bằng việc quốc hữu hóa các cơ sở kinh tế của chế độ cũ và từng bước xây dựng nên các cơ sở kinh tế mới. Nó phát triển dần từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, ngày càng vững mạnh và hoàn thiện.
Hiện nay, chúng ta chưa thể nói gì nhiều và cụ thể về chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong trên các mặt, trong đó có vấn đề sở hữu. Bởi vì, theo tư duy mới, về lý thuyết cũng như thực tiễn, trên thế giới chưa từng xuất hiện chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng. Nếu có ai đưa ra luận giải về chủ đề này, thiết nghĩ, thường nặng về phương pháp luận hoặc ý kiến chủ quan. Hơn nữa, giai đoạn này còn cách xa chúng ta, trong khi thực tiễn và lý luận còn thay đổi nhiều. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội kéo dài bao lâu, năm bảy chục năm hay lâu hơn nữa, chưa có ai tiên đoán được, nhưng chắc chắn là còn lâu dài.
Trên tinh thần đó, chúng tôi có một số suy nghĩ bước đầu sau đây.
Thứ nhất, dưới chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong sẽ không có một chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa thuần khiết, điều mà trước đây mấy chục năm nhiều người tin tưởng là có. Nói “không” với sở hữu xã hội chủ nghĩa thuần khiết có thể gây “sốc” đối với một số người, nhưng nó là vấn đề có tính quy luật.
Trong lịch sử loài người, chưa ở đâu và chưa bao giờ có một chế độ sở hữu thuần khiết. Tuy quan hệ sản xuất thống trị có sự thay đổi, nhưng các quan hệ sản xuất “trái mùa” (trong đó có quan hệ sở hữu), như C.Mác nói, vẫn tồn tại dai dẳng, xuyên suốt các hình thái kinh tế – xã hội. Những quan hệ sản xuất đó tuy nhỏ so với quan hệ sản xuất thống trị nhưng vẫn có vai trò nhất định trong nền kinh tế.
Phải chăng chủ nghĩa xã hội cũng phải tuân theo quy luật chung đó, không có ngoại lệ. Quan điểm cho rằng, kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là kết thúc đa sở hữu, chỉ còn lại sở hữu công thuần khiết là quan điểm duy ý chí, ảo tưởng. Bức tranh kinh tế hiện thực thường đa dạng, phong phú hơn nhiều, vì nó là cuộc sống, không khuôn theo tư duy sơ cứng, chủ quan. Một hình thức kinh tế chỉ mất đi khi sức sản xuất mà nó đại diện không còn, hoàn toàn mất hết sức sống.
Do đó, dưới chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong vẫn tồn tại đa sở hữu. Vấn đề là ở chỗ, quy mô và tính chất của từng loại sở hữu không giống nhau và khác nhiều so với thời kỳ quá độ.
Thứ hai, xuất phát từ luận điểm cơ bản trên, có thể thấy, trong thời kỳ quá độ cũng như khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong, nền kinh tế vẫn là đa sở hữu, tuy vị trí, vai trò của từng loại sở hữu trong hai thời kỳ không hoàn toàn giống nhau. Thành phần công hữu tồn tại và phát triển trong chế độ đa sở hữu đó.
Nói như vậy cũng có nghĩa là xây dựng và phát triển sở hữu công không phải bằng cách hạn chế hoặc loại bỏ các loại hình phi công hữu để sở hữu công giữ vị trí độc tôn. Ngay trong thời kỳ quá độ, chúng ta đã không ít lần thử nghiệm liệu pháp đó, nhưng đã không thành công. Đến khi tiến hành đổi mới, chúng ta mới thừa nhận trên thực tế tính hợp pháp của các loại hình phi công hữu.
Cả trong thời kỳ chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong, chúng ta sẽ vẫn thực thi nhất quán chính sách: tạo điều kiện cho các thành phần công hữu và phi công hữu bình đẳng trước pháp luật, cạnh tranh lành mạnh và hợp tác với nhau để cùng phát triển, vì lợi ích của bản thân và của cả nền kinh tế. Chống mọi sự kỳ thị và phân biệt đối xử giữa các thành phần, tuân thủ nguyên tắc các loại sở hữu và thành phần kinh tế đều là những bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Sở hữu công mà tiêu biểu là kinh tế nhà nước, đóng vai trò nòng cốt và là xương sống của nền kinh tế, định hướng và dẫn dắt các loại hình sở hữu khác phát triển theo quỹ đạo xã hội chủ nghĩa bằng luật pháp và chính sách của Nhà nước, bằng các đòn bẩy của kinh tế nhà nước như đầu tư vốn, cho vay tín dụng, cung ứng thiết bị và công nghệ cao, đặt hàng, tiêu thụ sản phẩm, liên kết, liên doanh sản xuất, kinh doanh…
Muốn làm được như vậy, các đơn vị kinh tế công hữu phải là những công ty, tổng công ty, tập đoàn mạnh, nắm công nghệ cao, có tài chính vững, làm ăn có năng suất, chất lượng, hiệu quả, tự chủ và đủ sức tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, bằng thực lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Tóm lại, sự khác nhau giữa thời kỳ quá độ và thời kỳ chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong về mặt quan hệ sản xuất không phải là ở chỗ, các loại hình phi công hữu có tồn tại hay không, mà ở sự lớn mạnh của kinh tế công hữu và mức độ chi phối về kinh tế của nó (trên thực tế chứ không phải trên lý thuyết) đối với các thành phần phi công hữu và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Thứ ba, cương lĩnh của Đảng năm 1991 có nêu một số đặc trưng của chủ nghĩa xã hội khi đã được xây dựng xong là: có lực lượng sản xuất hiện đại dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thứ tư, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khi đã xây dựng xong được đặc trưng bằng sự đa dạng các loại hình sở hữu hỗn hợp, trong đó quan trọng nhất là sở hữu tư bản nhà nước. Theo V.I. Lê-nin, tư bản nhà nước, về bản chất là 3/4 xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta hiện nay, quá trình này mới phôi thai, chủ yếu là với tư bản nước ngoài. Thời gian tới, tư bản tư nhân trong nước, kể cả tư bản lớn, sẽ xuất hiện ngày càng nhiều. Để không rơi vào con đường tự phát và ngăn chặn phát triển tư bản chủ nghĩa thì đại bộ phận tư bản tư nhân phải được hướng vào con đường tư bản nhà nước bằng nhiều hình thức khác nhau.
Thứ năm, chúng ta thử hình dung sự tồn tại và phát triển của các loại hình sở hữu khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. ở đây, điều mà chúng ta có thể làm được phần nào là nêu lên mặt định tính của các loại hình sở hữu, còn về mặt định lượng thì chưa có thể xác định cụ thể được.
Công hữu về tư liệu sản xuất ở Việt Nam
Chế độ công hữu ở nước ta không phải là sự hư cấu mà là một thực thể kinh tế, được hình thành bằng việc quốc hữu hóa các cơ sở kinh tế của chế độ cũ và từng bước xây dựng nên các cơ sở kinh tế mới.
Nó phát triển dần từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, ngày càng vững mạnh và hoàn thiện. Chế độ sở hữu là vấn đề hết sức phức tạp và quan trọng, tác động đến toàn bộ sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội nước ta.
Chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa lấy chế độ công hữu làm nền tảng. Tính quy định đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người, trước hết là của giai cấp thống trị.
– Sau khi Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua bản Hiến pháp vào ngày 9/11/1946 thì các nguyên tắc cơ bản về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, quy định về sở hữu… đã được chính thức ghi nhận.
Hiến pháp năm 1946 đã tạo cơ sở pháp lí và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng công dân đã trở thành quyền hiến định. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, Nhà nước ta đã thực hiện hàng loạt các biện pháp thích ứng và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để chuyển các tư liệu sản xuất quan trọng vào tay Nhà nước.
– Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kì họp thứ 6, Quốc hội Khoá XIII đã thông qua Hiến pháp năm 2013. Nội dung của Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu… các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” (Điều 51).
Vẫn tiếp tục phát triển nền kinh tế đa dạng, nhiều thành phần, Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực của các thành phần khác nhau. Đây chính là nền tảng pháp lí bền vững để tạo điều kiện cho các quan hệ sở hữu được phát triển trên cơ sở tôn trọng sự bình đẳng, tiến bộ.
********************
Đăng bởi: Thcs-thptlongphu.edu.vn
Chuyên mục: Tổng hợp